Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

phát triển hệ thống quản lý tại bảo việt nhân thọ lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
*****



ĐẶNG THANH BÌNH





PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐẠI LÝ
TẠI BẢO VIỆT NHÂN THỌ LẠNG SƠN



LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH






Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
*****




ĐẶNG THANH BÌNH





PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐẠI LÝ
TẠI BẢO VIỆT NHÂN THỌ LẠNG SƠN

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60 34 05


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ LIÊN


Hà Nội - 2014
MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
DANH MỤC CÁC HÌNH iii
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM NHÂN
THỌ VÀ ĐẠI LÝ BẢO HIỂM NHÂN THỌ 5

1.1 Khái quát chung về bảo hiểm nhân thọ 5
1.1.1 Khái niệm và vai trò của bảo hiểm nhân thọ 5
1.1.2 Đặc điểm và các loại hình bảo hiểm nhân thọ 12
1.2 Phát triển hệ thống đại lý bảo hiểm nhân thọ 22
1.2.1 Đại lý bảo hiểm nhân thọ 22
1.2.2 Phát triển hệ thống đại lý bảo hiểm nhân thọ 29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG ĐẠI LÝ TẠI CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN THỌ LẠNG
SƠN 36
2.1 Giới thiệu chung về Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn 36
2.1.1 Vài nét về quá trình hình thành và phát triển Công ty 36
2.1.2 Bộ máy tổ chức hoạt động của Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn . 36
2.1.3 Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty giai đoạn 2009-2013 40
2.2 Công tác phát triển hệ thống đại lý tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng
Sơn 43
2.2.1 Đại lý bảo hiểm nhân thọ tại Công ty BVNT Lạng Sơn 43
2.2.2 Công tác phát triển hệ thống đại lý bảo hiểm nhân thọ 55
2.3 Đánh giá chung về kết quả công tác phát triển hệ thống đại lý giai đoạn
2009-2013 71
2.3.1 Những kết quả đã đạt được 71
2.3.2 Những vấn đề còn tồn tại trong công tác phát triển hệ thống đại lý bảo
hiểm nhân thọ 72
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT
TRIỂN HỆ THỐNG ĐẠI LÝ TẠI CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN
THỌ LẠNG SƠN 75
3.1 Mục tiêu phát triển của Công ty 75
3.2 Các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống đại lý tại Công ty
Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn 75
3.2.1 Hoàn thiện và phát triển hệ thống đại lý bảo hiểm nhân thọ 75
3.2.2 Một số đề xuất khác 86

KẾT LUẬN 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90

- i -
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT
Ký hiệu viết tắt
Nguyên nghĩa
1.
BHNT
Bảo hiểm Nhân thọ
2.
BVNT
Bảo Việt Nhân thọ
3.
Công ty
Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn
4.
Tổng Công ty
Tổng Công ty Bảo Việt Nhân thọ





- ii -
DANH MỤC CÁC BẢNG

STT

Bảng
Nội dung
Trang
1.
Bảng 1.1
So sánh giữa nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
truyền thống với bảo hiểm liên kết đầu tƣ
20
2.
Bảng 2.1
Tình hình kinh doanh của Công ty giai đoạn
2009-2013
41
3.
Bảng2.2
Cơ cấu doanh thu theo sản phẩm giai đoạn
2009-2013
43
4.
Bảng 2.3
Mô tả công việc của Trƣởng phòng Phát triển
kinh doanh
50
5.
Bảng 2.4
Mô tả công việc của Cán bộ Phát triển kinh
doanh
52
6.
Bảng 2.5

Mô tả công việc của Cán bộ đào tạo
53
7.
Bảng 2.6
Mô tả công việc của Cán bộ hỗ trợ kinh doanh
53
8.
Bảng 2.7
Danh sách các nhóm đại lý tại Công ty BVNT
Lạng Sơn
56
9.
Bảng 2.8
Tình hình phát triển hệ thống đại lý giai đoạn
2009-2013
62
10.
Bảng 2.9
Tình hình đào tào đại lý giai đoạn 2009 – 2013
64
11.
Bảng 3.1
Vai trò của giảng viên và học viên trong lớp
học tình huống
83

- iii -
DANH MỤC CÁC HÌNH

TT

Hình
Nội dung
Trang
1.
Hình 1.1
Mô hình tổ chức hệ thống đại lý theo văn phòng
đại diện
31
2.
Hình 2.1
Sơ đồ bộ máy tổ chức Công ty BVNT Lạng Sơn
37
3.
Hình 2.2
Sơ đồ tổ chức hệ thống đại lý tại Công ty BVNT
Lạng Sơn
55
4.
Hình 2.3
Sơ đồ quy trình tuyển dụng 5T
59
5.
Hình 2.4
Bản sơ vấn đánh giá ứng viên
60
6.
Hình 2.5
Phiếu phỏng vấn ứng viên
61
7.

Hình 2.6
Mẫu biên bản làm việc giữa Trƣởng nhóm và
Đại lý
68
8.
Hình 2.7
Mẫu biên bản làm việc giữa Trƣởng phòng/cán
bộ PTKD với Trƣởng nhóm
69
9.
Hình 2.8
Mẫu biên bản làm việc giữa Giám đốc với
Trƣởng phòng/cán bộ PTKD
70
10.
Hình 3.1
Sơ đồ định hƣớng tổ chức hệ thống đại lý BHNT
76





- 1 -

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm nhân thọ có lịch sử ra đời và phát triển từ trên 400 năm trƣớc
đây. Nhƣng có lẽ phải cho đến vài thập kỷ gần đây, trong điều kiện khoa học

kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, chất lƣợng cuộc sống con ngƣời ngày càng đƣợc
cải thiện, nhu cầu của con ngƣời về độ an toàn ngày càng cao, thì bảo hiểm
nhân thọ mới thực sự phát huy đƣợc những mặt tích cực vốn có của nó. Đó
không chỉ là phƣơng tiện giúp con ngƣời đƣơng đầu với rủi ro một cách có hiệu
quả, mà còn là một công cụ hữu hiệu đảm bảo cho tƣơng lai ngay từ hiện tại.
Khác với các loại hình kinh doanh khác, Bảo hiểm nhân thọ là một
ngành dịch vụ đặc biệt của nền kinh tế quốc dân. Các sản phẩm đƣợc cung
cấp cho khách hàng là những sản phẩm vô hình và việc cung cấp các sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ đến khách hàng hầu hết là thông qua hệ thống đại lý
bảo hiểm nhân thọ. Chính vì vậy, việc xây dựng và phát triển hệ thống đại lý
là một yêu cầu quan trọng và đòi hỏi khách quan đối với bất kỳ doanh nghiệp
nào kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Bên cạnh việc nắm bắt nhu
cầu để thiết kế ra những sản phẩm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu ngày một đa
dạng và phong phú của khách hàng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân
thọ phải xây dựng đƣợc một hệ thống đại lý hùng hậu để phù hợp với giai
đoạn phát triển và cạnh tranh nhƣ hiện nay.
Là doanh nghiệp đầu tiên triển khai loại hình bảo hiểm nhân thọ trên
địa bàn Lạng Sơn, với khoảng thời gian hơn 10 năm hình thành và phát triển,
việc xây dựng và phát triển hệ thống đại lý tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ
Lạng Sơn đã gặt hái đƣợc một số thành công nhất định nhƣ: số lƣợng đại lý
và doanh thu phí bảo hiểm tăng trƣởng qua các năm, số lƣợng lớn khách hàng
tham gia bảo hiểm ngày càng lớn , tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề
- 2 -

cần hoàn thiện nhƣ: số lƣợng đại lý phát triển chƣa tƣơng xứng với địa bàn và
với thị trƣờng, trình độ đại lý còn chƣa cao và chƣa đồng đều, chỉ số hoạt
động của đại lý còn thấp, đại lý còn chƣa thực sự tâm huyết với nghề.
Đánh giá những tồn tại nêu trên, có rất nhiều nguyên nhân nhƣng
nguyên nhân cơ bản là do công tác phát triển hệ thống đại lý chƣa hiệu quả,
đồng bộ và chƣa theo kịp sự phát triển của thị trƣờng. Để khắc phục những

tồn tại này, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và nâng cao chất lƣợng phục
vụ khách hàng trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, Công ty Bảo Việt
Nhân thọ Lạng Sơn cần phải nhìn nhận, phân tích và đánh giá lại hệ thống đại
lý của mình. Từ đó, tìm ra những nguyên nhân của sự thành công và lý do của
những tồn tại để có giải pháp hoàn thiện và phát triển hệ thống đại lý bảo
hiểm nhân thọ, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh hiệu quả.
Nhận thức đƣợc vấn đề nêu trên, trên cơ sở những kiến thức và kinh
nghiệm thực tế có đƣợc trong quá trình công tác, tác giả đã chọn đề tài:
“Phát triển hệ thống đại lý tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn” để
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ, đại
lý bảo hiểm nhân thọ và công tác phát triển, quản lý đại lý bảo hiểm nhân thọ.
- Phân tích, đánh giá kết quả các hoạt động phát triển hệ thống đại lý
bảo hiểm nhân thọ tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn trong thời gian
qua, tổng kết những kết quả đạt đƣợc và những vấn đề còn tồn tại trong quá
trình hoạt động.
- Đƣa ra những định hƣớng phát triển hệ thống đại lý và những giải
pháp trong công tác phát triển hệ thống đại lý bảo hiểm nhân thọ tại Công ty
Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn.

- 3 -

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: những vấn đề lý luận về bảo hiểm nhân thọ và
phát triển hệ thống đại lý bảo hiểm nhân thọ.
- Phạm vi nghiên cứu: quá trình phát triển và hoạt động của hệ thống
đại lý tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn từ năm 2009 đến năm 2013.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu đƣợc đặt ra là: “Làm thế nào để hoàn thiện và

phát triển hệ thống đại lý tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn ?”.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, đề tài luận văn sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu cơ bản sau:
5.1. Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu
Việc thu thập tài liệu có liên quan đến nội dung của đề tài, có ý nghĩa
quan trọng trong công tác nghiên cứu. Tác giả đã thu thập tài liệu, tƣ liệu về
thị trƣờng bảo hiểm nhân thọ nói chung và tại Lạng Sơn nói riêng từ nhiều
nguồn khác nhau, tiến hành xử lý và đƣa ra những nhận định.
5.2. Phương pháp thống kê
Đề tài sử dụng số liệu thống kê từ các cơ quan có liên quan, Báo cáo kinh
doanh của Công ty bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn. Với sự hỗ trợ của các phần
mềm xử lý số liệu để có thể đánh giá có hệ thống, đủ độ tin cậy phục vụ cho
mục đích nghiên cứu của đề tài.
5.3. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
Phƣơng pháp phân tích giúp tìm ra đƣợc những điểm cụ thể, chi tiết.
Phƣơng pháp so sánh thấy đƣợc những nét khác biệt. Kết quả phân tích, đánh
giá, tổng hợp các thông tin thu đƣợc chính là kết quả nghiên cứu đáp ứng
đƣợc mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài.
Trong nghiên cứu, các phƣơng pháp này đƣợc sử dụng linh hoạt để giải
quyết vấn đề một cách hiệu quả nhất.
- 4 -


6. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và hệ
thống đại lý bảo hiểm nhân thọ.
- Phân tích thực trạng hoạt động và phát triển của hệ thống đại lý bảo
hiểm nhân thọ tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn một cách chi tiết và
cụ thể. Từ đó đƣa ra những nhận xét, đánh giá về công tác phát triển và quản

lý hoạt động của hệ thống đại lý, những thành công và những tồn tại cần đƣợc
tháo gỡ.
- Đề xuất một số giải pháp mang tính khả thi nhằm hoàn thiện và phát
triển hệ thống đại lý tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng, biểu đồ, danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và đại lý bảo
hiểm nhân thọ
Chƣơng 2: Thực trạng về công tác phát triển hệ thống đại lý tại Công
ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn
Chƣơng 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống đại
lý bảo hiểm nhân thọ tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ Lạng Sơn.
- 5 -

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ ĐẠI LÝ
BẢO HIỂM NHÂN THỌ

1.1 Khái quát chung về bảo hiểm nhân thọ
1.1.1 Khái niệm và vai trò của bảo hiểm nhân thọ
1.1.1.1 Khái niệm bảo hiểm nhân thọ
Nhu cầu an toàn đối với con ngƣời là vĩnh cửu. Lúc nào con ngƣời
cũng tìm cách để bảo vệ chính bản thân và tài sản của mình trƣớc những bất
hạnh của rủi ro. Trong số các biện pháp con ngƣời đã thực hiện để xử lý rủi
ro, bảo hiểm đƣợc coi là biện pháp tối ƣu nhất. Sự cần thiết của bảo hiểm bắt
nguồn từ sự tồn tại của rủi ro.
Ngay từ thời tiền sử đã xuất hiện những hoạt động gần giống bảo hiểm.
Từ thời Trung Cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã đƣợc hình thành và
phát triển. Sự ra đời của các quỹ bảo hiểm nhân thọ xuất hiện cùng thời với

các hình thức bảo hiểm phi nhân thọ khác nhƣ bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng
hải. Năm 1583, tại nƣớc Anh, một thuyền trƣởng tên William Gybbon đã nảy
ra ý kiến yêu cầu công ty bảo hiểm ngoài việc bảo hiểm cho con tàu và hàng
hóa của mình hãy bán thêm hợp đồng bảo hiểm sinh mạng cho chính mình.
Sự việc này đã buộc các công ty bảo hiểm phi nhân thọ nhận thấy rằng “con
ngƣời cũng có thể đƣợc bảo hiểm nhƣ những hàng hóa, tài sản khác”. Đến
năm 1662, John Graunt - một thanh niên trẻ tại London đã đăng tải một số bài
báo nói về số lƣợng ngƣời sinh và chết tại London. Ghi nhận tình cờ này đã
đƣợc các nhà toán học thời đó quan tâm và nghĩ đến việc thành lập bảng tử lệ
tử vong. Đây là một trong các công cụ rất hữu ích cho ngành bảo hiểm nhân
thọ sau này. Trong khoảng 100 năm tiếp theo, các nhà toán học đã luôn trăn
trở nghĩ ra cách tính phí của các sản phẩm BHNT. Sản phẩm BHNT ban đầu
- 6 -

đƣợc bán rộng rãi và không tính toán. Ngƣời ta mua bảo hiểm cho nhau và
cũng tìm cách hại nhau để kiếm tiền bồi thƣờng. Vì lí do đó, đến năm 1740,
chính phủ Anh đã tập hợp các công ty bảo hiểm trên toàn quốc và ra chỉ thị
các công ty chỉ đƣợc bán bảo hiểm theo nguyên tắc “quyền lợi có thể đƣợc
bảo hiểm”, tức là ngƣời chủ hợp đồng bảo hiểm và ngƣời đƣợc bảo hiểm phải
có quan hệ ruột thịt, hôn nhân hay bảo hộ hợp pháp.
Tuy nhiên, bảo hiểm con ngƣời nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói
riêng bị cấm hoạt động tại châu Âu bởi các thế lực chính trị và nhà thờ thiên
chúa giáo cho đến tận đầu thế kỷ 18. Các thế lực này cho rằng, bảo hiểm nhân
thọ đã đẩy con ngƣời nhanh đến cái chết, là những hoạt động đi ngƣợc lại với
thuần phong mỹ tục và do vậy bảo hiểm nhân thọ bị pháp luật nghiêm cấm.
Các nhà thờ thiên chúa giáo cũng kịch liệt lên án việc bảo hiểm cuộc sống con
ngƣời vì họ cho rằng cuộc sống của con ngƣời là do chúa sáng tạo do vậy phụ
thuộc vào chúa.
Thế kỷ 18 và 19 là thời kỳ bảo hiểm nhân thọ phát triển mạnh mẽ. Năm
1762, Công ty BHNT Equitable là Công ty BHNT đầu tiên của Anh áp dụng

phƣơng pháp tính phí bảo hiểm và họ đã rất thành công. Đầu thế kỷ 19, tại
Bắc Mỹ, Công ty BHNT Pennsylvania bắt đầu dùng hồ sơ yêu cầu bảo hiểm
nhân thọ cho khách hàng điền khi muốn tham gia bảo hiểm nhân thọ thay vì
dùng sổ cái để theo dõi khách hàng nhƣ ban đầu. Ngoài ra, công ty còn yêu
cầu khách hàng khám sức khỏe khi muốn tham gia bảo hiểm. Đây là sự
chuyển biến lớn trong sự phát triển của ngành bảo hiểm nhân thọ. Tiếp theo
đó, năm 1823, công ty BHNT Massachusettes đã thiết kế ra quyển sổ tay tính
phí. Quyển sổ tay này hiện này vẫn đƣợc coi là cẩm nang hữu ích cho các đại
lí bảo hiểm nhân thọ ngày nay.
Năm 1844 đã đánh dấu thêm một bƣớc tiến quan trọng khác của ngành
bảo hiểm nhân thọ. Khi chứng kiến việc các khách hàng mua bảo hiểm vì một
- 7 -

lí do nào đó muốn ngƣng hợp đồng giữa chừng nhƣng không đƣợc công ty
bảo hiểm nào trả lại tiền cho họ, chuyên gia tính phí Elizur Wright ngƣời Mỹ
cho rằng điều này là không công bằng và hợp lí. Từ đó, ông đã nghĩ ra công
thức toán học tính giá trị giải ƣớc để hoàn lại một phần phí cho khách hàng.
Từ những bƣớc phát triển trên có thể thấy bảo hiểm nhân thọ ra đời và
phát triển là để đáp ứng những nhu cầu của con ngƣời. Tuy nhiên do nhu cầu
của con ngƣời luôn thay đổi theo sự phát triển của xã hội, kinh tế, do vậy cách
hiểu của mọi ngƣời và phạm vi bảo hiểm của các sản phẩm BHNT cũng rất
khác nhau.
Theo tiến sỹ David Bland - Tổng giám đốc học viện bảo hiểm hoàng gia
Anh thì “bảo hiểm nhân thọ là hình thức bảo hiểm mà rủi ro liên quan đến mạng
sống của ngƣời đƣợc bảo hiểm”. Theo luật kinh doanh bảo hiểm của nƣớc
CHXHCN Việt Nam, “bảo hiểm nhân thọ là hình thức bảo hiểm cho trƣờng hợp
ngƣời đƣợc bảo hiểm sống hoặc chết”. Hai khái niệm này đều có điểm chung là
nhấn mạnh đến các yếu tố liên quan đến đối tƣợng của bảo hiểm: tuổi thọ, sự
kiện sống hoặc tử vong. Về bản chất, các khái niệm này đƣợc đƣa ra trên phƣơng
diện kỹ thuật bảo hiểm và nhấn mạnh vào phạm vi bảo hiểm truyền thống sơ

khai của bảo hiểm nhân thọ: sự kiện sống hoặc tử vong.
Tuy nhiên, có một khái niệm khác đƣợc các nhà chuyên môn đƣa ra,
“bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng bảo hiểm trong đó ghi rõ để nhận đƣợc phí
bảo hiểm của ngƣời tham gia bảo hiểm, công ty bảo hiểm phải cam kết chi trả
cho một hoặc một số ngƣời thụ hƣởng bảo hiểm một số tiền nhất định trong
trƣờng hợp ngƣời đƣợc bảo hiểm bị tử vong hoặc sống đến một thời điểm
đƣợc xác định trong hợp đồng”. Đây là khái niệm về hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ, thể hiện mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng đồng thời cũng thể
hiện tính kỹ thuật bảo hiểm khi đề cập đến điều kiện phát sinh trách nhiệm
của công ty bảo hiểm.
- 8 -

Và cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, yếu tố cạnh tranh của thị
trƣờng và đặc biệt là sự đòi hỏi rộng hơn về phạm vi bảo hiểm do vậy hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ không chỉ bảo hiểm cho sự kiện sống hoặc tử vong
mà còn bảo hiểm cho cả những sự kiện liên quan đến tình trạng sức khỏe của
ngƣời đƣợc bảo hiểm nhƣ thƣơng tật toàn bộ vĩnh viễn, thƣơng tật bộ phận,
bệnh hiểm nghèo…
Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra một khái niệm cơ bản về bảo
hiểm nhân thọ: là hình thức bảo hiểm cho tính mạng, sức khỏe và tuổi thọ của
ngƣời đƣợc bảo hiểm. Khái niệm này rộng và phù hợp hơn với điều kiện thực
tế triển khai bảo hiểm nhân thọ hiện nay tại các thị trƣờng bảo hiểm nhân thọ
truyền thống và cả các thị trƣờng mới sơ khai.
1.1.1.2 Vai trò của bảo hiểm nhân thọ
Mỗi một loại hình kinh doanh đều có vai trò và tác động đến các chủ
thể khác trong xã hội, hoạt động kinh doanh BHNT cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Vai trò của hoạt động kinh doanh BHNT thể hiện ở chỗ:
a) Đối với nền kinh tế
Các công ty, tổ chức bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói
riêng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của bất cứ nền kinh tế quốc

dân nào, đặc biệt là trong nền kinh tế đã và đang phát triển. Điều này đƣợc thể
hiện ở chỗ:
- Các công ty BHNT huy động và cung cấp một nguồn vốn đầu tƣ rất
lớn cho nền kinh tế: Thông qua số tiền huy động đƣợc từ các hợp đồng bảo
hiểm của những ngƣời dân tham gia với mục đích tiết kiệm và bảo hiểm, các
công ty BHNT ngoài chức năng bảo hiểm còn hỗ trợ Nhà nƣớc trong việc tạo
lập nguồn quỹ đầu tƣ vào nền kinh tế. Đây là một nguồn vốn đầu tƣ tƣơng đối
lớn và đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế của đất nƣớc. Tại
các nƣớc đang phát triển, số tiền đầu tƣ trở lại nền kinh tế của toàn ngành bảo
- 9 -

hiểm nhân thọ thƣờng chiếm khoảng 20 đến 25% tổng nguồn vốn đầu tƣ.
- Tạo công ăn việc làm cho ngƣời lao động: Cũng nhƣ các doanh
nghiệp khác, các tổ chức khác, công ty BHNT tạo công ăn việc làm cho một
bộ phận nhất định ngƣời lao động. Ngoài lực lƣợng lao động làm việc tại các
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thì còn phải kể đến một lực lƣợng lớn hơn,
đó là đội ngũ đại lí và môi giới. Ngoài ra còn rất nhiều lao động đƣợc cuốn
vào các công việc của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nhƣ các luật sƣ, các
nhà đầu tƣ vốn, các cơ sở khám chữa bệnh
- Hoạt động kinh doanh BHNT còn giúp cho nền kinh tế có điều kiện
phát triển toàn diện, ổn định. Với vai trò của mình, BHNT giúp cho nền kinh
tế ổn định khi không may có rủi ro xảy ra đối với một doanh nghiệp hay một
nhóm doanh nghiệp. Rủi ro có thể bao gồm rủi ro về tài chính, về ngƣời quản
lý và nhân viên cũng nhƣ những ngƣời sống phụ thuộc vào họ.
b) Đối với các tổ chức kinh tế, xã hội
Trong xã hội, không chỉ có các cá nhân có nhu cầu mà các tổ chức kinh
tế, xã hội cũng có nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ. Có hai lý do khiến họ cần có
sự đảm bảo của bảo hiểm nhân thọ, đó là:
- BHNT luôn thể hiện tính xã hội và nhân văn: Với các tổ chức kinh tế,
xã hội bên cạnh mục tiêu lợi nhuận, doanh số bán hàng, họ còn chú trọng đến

nét văn hoá của doanh nghiệp mình, công ty mình. Nét văn hoá đó đƣợc đặt
trƣng bởi tính xã hội và tính nhân văn. Bảo hiểm nhân thọ đã giúp cho các
doanh nghiệp, công ty thực hiện đƣợc ý muốn đó của mình đối với ngƣời lao
động, Ngoài ra, việc san sẻ rủi ro và tài chính giữa những ngƣời tham gia bảo
hiểm tạo ra trách nhiệm, sự chia sẻ và quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên
trong xã hội. Tiêu chí này giữ vai trò quan trọng đối với việc tạo ra sự ổn định
trong xã hội, sự quan tâm và có trách nhiệm giữa các thành viên trong cộng
đồng với nhau.
- 10 -

- Với BHNT, các tổ chức kinh tế, xã hội có thể giữ chân và khuyến
khích ngƣời lao động làm việc hết năng lực của mình: Họ có thể mua các sản
phẩm BHNT và các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ để cung cấp các khoản phúc
lợi cho ngƣời lao động của mình. Thông qua các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
nhóm, các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho các nhân vật chủ chốt, ngƣời sử
dụng lao động có thể tạo ra sự đảm bảo cho ngƣời lao động và ngƣời sống
phụ thuộc vào ngƣời lao động khi không may có rủi ro xảy ra đối với ngƣời
lao động. Khi đó, các công ty BHNT, với vai trò và chức năng của mình, sẽ
cung cấp các khoản trợ cấp, hỗ trợ theo đúng những quy định trong hợp đồng
mà ngƣời sử dụng lao động và công ty BHNT đã ký kết.
- Tạo ra sự tự chủ về tài chính: Mỗi một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
có thể cung cấp vốn để đảm bảo rằng doanh nghiệp tiếp tục hoạt động khi chủ
doanh nghiệp hoặc đồng chủ doanh nghiệp hoặc một ngƣời giữ vị trí quan
trọng trong doanh nghiệp không may tử vong. Doanh nghiệp có thể mua các
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho cá nhân với số tiền bảo hiểm tƣơng đƣơng
với số vốn của doanh nghiệp hoặc đồng chủ doanh nghiệp hoặc tƣơng đƣơng
với khoản chi phí đào tạo, tìm kiếm một ngƣời thay thế ngƣời giữ vị trí chủ
chốt trong doanh nghiệp. Với biện pháp này, khi không may xảy ra rủi ro với
các đối tƣợng trên, doanh nghiệp vẫn có thể tự chủ về tài chính của mình.
c) Đối với các cá nhân và hộ gia đình trong xã hội

Tất cả các sản phẩm BHNT đều phát sinh trách nhiệm chi trả tiền khi
sự kiện bảo hiểm xảy ra với ngƣời đƣợc bảo hiểm trong thời hạn của hợp
đồng bảo hiểm. Ngoài ra, một số sản phẩm BHNT còn thoả mãn các nhu cầu
khác nhƣ tiết kiệm, tích luỹ của ngƣời đƣợc bảo hiểm khi họ còn sống. Các
nhu cầu của con ngƣời đối với bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng, ngƣời đƣợc bảo
hiểm có thể cần tiền để trang trải các chi phí, trợ giúp những ngƣời sống phụ
thuộc vào họ, chi phí các khoản chi phí giáo dục con cái, có đƣợc các khoản
- 11 -

thu nhập ổn định khi về hƣu hay là các khoản thu nhập đầu tƣ khác. Nói
chung, bảo hiểm nhân thọ có thể đảm bảo các vai trò chủ yếu sau:
- Thoả mãn các khoản chi tiêu cuối cùng: Khi một ngƣời chết đi họ có
thể để lại các tài sản nhƣ bất động sản, tiền, các khoản đầu tƣ mặt khác họ
cũng có thể có những khoản nợ, thế chấp chƣa thanh toán. Bên cạnh đó, còn
có rất nhiều chi phí liên quan đến cái chết của họ nhƣ chi phí khám chữa
bệnh, điều trị, bác sĩ, chí phí mai táng Những ngƣời thừa kế hợp pháp chỉ
nhận đƣợc tài sản thừa kế khi các khoản nợ của ngƣời tử vong đã đƣợc thanh
toán hết, do vậy trong rất nhiều trƣờng hợp, ngƣời thừa kế có thể không nhận
đƣợc gì. Để tránh tình trạng này, rất nhiều ngƣời đã mua bảo hiểm nhân thọ
cho bản thân để có thể đảm bảo các khoản chi tiêu cuối cùng này, không để
lại gánh nặng này cho ngƣời thân.
- Hỗ trợ những ngƣời sống phụ thuộc: rất nhiều ngƣời có nhu cầu mua
bảo hiểm nhân thọ để đảm bảo cho những ngƣời sống phụ thuộc vào họ. Trong
gia đình, nếu ngƣời lao động trụ cột bị tử vong, nguồn tài chính trong gia đình có
thể bị ảnh hƣởng nghiêm trọng, những ngƣời sống phụ thuộc sẽ ngay lập tức
phải đƣơng đầu với hàng loạt các vấn đề nhƣ việc phải thanh toán các khoản chi
tiêu cố định nhƣ tiền điện, nƣớc, các dịch vụ khác, chi phí ăn uống, sinh hoạt
Thông qua các sản phẩm BHNT khác nhau, ngƣời ta có thể đảm bảo cho ngƣời
thân một khoản tài chính nhất định để những ngƣời này có thể ngay lập tức khắc
phục khó khăn về tài chính hoặc bảo hiểm nhân thọ cũng cung cấp các khoản trợ

cấp định kỳ cho những ngƣời sống phụ thuộc.
- Đáp ứng các chi phí giáo dục: Một mục tiêu cơ bản của hầu hết các
bậc cha mẹ là có đủ tài chính để con cái họ có thể đƣợc học đại học ở nƣớc
ngoài hay trong các trƣờng danh tiếng. Mong muốn này của các bậc cha mẹ
có thể đƣợc đáp ứng thông qua các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhƣ các hợp
đồng bảo hiểm tử kỳ hoặc bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
- 12 -

- Thoả mãn nhu cầu về thu nhập khi nghỉ hƣu: Mặc dù ngƣời lao động
khi nghỉ hƣu nhận đƣợc trợ cấp hƣu trí do bảo hiểm xã hội chi trả. Tuy nhiên,
tại rất nhiều nƣớc, số ngƣời đƣợc hƣởng trợ cấp hƣu trí còn rất hạn chế hơn
nữa khoản trợ cấp này thƣờng không đủ bù đắp các nhu cầu chi tiêu. Do vậy,
rất nhiều ngƣời mua sản phẩm BHNT có tính chi trả trợ cấp định kỳ. Các
khoản trợ cấp định kỳ do các công ty BHNT trả có thể tạo cho họ một khoản
thu nhập thƣờng xuyên, ổn định, ngoài ra còn có thể giúp đảm bảo cho ngƣời
thân khi họ gặp phải rủi ro.
- Đáp ứng các nhu cầu khác: Một số ngƣời có thể chọn hình thức đầu tƣ
của mình thông qua bảo hiểm nhân thọ. Các khoản đầu tƣ có thể đƣợc doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ đảm bảo bất kể họ đầu tƣ chƣa có lãi. Ngoài ra,
ngƣời ta cũng có thể làm từ thiện cho các tổ chức tôn giáo, các trƣờng học, cô
nhi viện, các quỹ nghiên cứu và phòng chống bệnh tật thông qua việc để
ngƣời hƣởng thụ trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là các tổ chức này.
Nói chung, các nhu cầu bảo hiểm nhân thọ phụ thuộc vào hoàn cảnh và
mục đích của mỗi cá nhân, gia đình và các nhu cầu này thay đổi theo cuộc
sống của con ngƣời.
1.1.2 Đặc điểm và các loại hình bảo hiểm nhân thọ
1.1.2.1 Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ
Căn cứ vào đối tƣợng đƣợc bảo hiểm, bảo hiểm thƣơng mại đƣợc chia
thành 3 loại: bảo hiểm con ngƣời, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm
dân sự. Trong đó, bảo hiểm con ngƣời lại đƣợc chia thành 2 nhóm nhỏ căn cứ

vào tính chất của rủi ro bảo hiểm: bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân
thọ. Bảo hiểm nhân thọ có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi
ro. Tính chất rủi ro đƣợc thể hiện khi ngƣời tham gia bảo hiểm (ngƣời đƣợc
bảo hiểm) không may gặp rủi ro trong thời hạn bảo hiểm. Còn tính tiết kiệm
- 13 -

đƣợc thể hiện khi mỗi cá nhân, mỗi gia đình tích lũy những khoản tiền nhỏ,
đều đặn (thể hiện là phí bảo hiểm) nộp cho công ty bảo hiểm và nhận lại một
khoản tiền lớn hơn đã cam kết (Số tiền bảo hiểm) từ công ty bảo hiểm khi kết
thúc thời hạn của hợp đồng. Nhƣ vậy, đây là đặc điểm khác nhau cơ bản giữa
các sản phẩm BHNT và các sản phẩm của bảo hiểm phi nhân thọ.
Thứ hai, bảo hiểm nhân thọ ra đời đáp ứng đƣợc nhiều nhu cầu, mục
đích khác nhau của con ngƣời. Trong khi các sản phẩm của bảo hiểm phi
nhân thọ chỉ đáp ứng đƣợc mục đích góp phần khắc phục hậu quả khi đối
tƣợng bảo hiểm gặp rủi ro, từ đó góp phần ổn định tài chính cho ngƣời tham
gia bảo hiểm, thì bảo hiểm nhân thọ đáp ứng đƣợc nhiều nhu cầu, mục đích
khác nhau. Từng nhu cầu và mục đích đƣợc thể hiện cụ thể trong từng loại
sản phẩm BHNT. Ví dụ nhƣ sản phẩm bảo hiểm hƣu trí sẽ mang lại cho ngƣời
tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng, hàng quý để giúp họ ổn
định đời sống và đảm bảo cuộc sống khi về già. Hợp đồng bảo hiểm tử vong
sẽ giúp ngƣời đƣợc bảo hiểm để lại cho gia đình một khoản tiền khi họ qua
đời. Số tiền này đáp ứng đƣợc rất nhiều mục đích của ngƣời quá cố: trả nợ,
trang trải chi phí giáo dục của con cái, phụng dƣỡng bố mẹ… Để đáp ứng nhu
cầu ngày càng phát triển, một số công ty BHNT còn tung ra các sản phẩm
BHNT tín dụng tử kỳ, đây đƣợc coi là vật thế chấp để ngƣời tham gia bảo
hiểm vay vốn phục vụ cho mục đích mua xe hơi, mua nhà trả góp và các mục
đích cá nhân khác…
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức tạp. Trƣớc
tiên điều này đƣợc thể hiện trong các sản phẩm BHNT mà khách hàng có thể

tham gia. Cùng một loại sản phẩm nhƣng khách hàng có thể lựa chọn thời hạn
bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phƣơng thức đóng phí khác nhau… Bên cạnh đó,
mối quan hệ giữa các đối tƣợng liên quan trong hợp đồng bảo hiểm là rất
phức tạp. Thông thƣờng, mỗi hợp đồng bảo hiểm có thể có 4 đối tƣợng liên
- 14 -

quan: ngƣời bảo hiểm, ngƣời tham gia bảo hiểm, ngƣời đƣợc bảo hiểm, ngƣời
đƣợc hƣởng quyền lợi bảo hiểm.
Thứ tƣ, hợp đồng bảo hiểm thƣờng có thời hạn dài, tối thiểu là năm
năm. Đây cũng là một trong những đặc điểm khác biệt giữa hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ thƣờng
có thời gian tham gia là 1 năm và có thể đƣợc tái tục vào các năm tiếp theo.
Tuy nhiên có một số trƣờng hợp, hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ đƣợc ký
kết dài hạn (thƣờng khoảng 3 - 4 năm) đối với hợp đồng bảo hiểm xây dựng
lắp đặt. Đối với bảo hiểm nhân thọ, do đặc điểm có tính tiết kiệm nên thời hạn
của hợp đồng thƣờng dài, tối thiểu là 5 năm.
Thứ năm, quá trình định phí bảo hiểm nhân thọ rất phức tạp do chịu
ảnh hƣởng của nhiều nhân tố khác nhau mà hầu hết các nhân tố này đều phải
giả định trong quá trình tính phí. Các nhân tố này là:
- Độ tuổi của ngƣời đƣợc bảo hiểm.
- Tuổi thọ bình quân của con ngƣời.
- Số tiền bảo hiểm.
- Thời hạn tham gia bảo hiểm.
- Lãi suất đầu tƣ.
- Tỷ lệ lạm phát (thiểu phát) của nền kinh tế.
- Tốc độ phát triển của nền kinh tế.
- Lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ
Thứ sáu, bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định. Những tiêu chí kinh tế cơ bản để bảo hiểm nhân thọ
hình thành là: tốc độ tăng trƣởng của tổng sản phẩm quốc dân, mức thu nhập

bình quân trên một đầu ngƣời, tỷ lệ lạm phát… Những tiêu chí xã hội cơ bản
để bảo hiểm nhân thọ hình thành là: điều kiện về dân số, tuổi thọ bình quân,
trình độ học vấn, bảng tỷ lệ tử vong…
- 15 -

1.1.2.2 Các loại hình bảo hiểm nhân thọ
Hiện nay trên thị trƣờng bảo hiểm nhân thọ quốc tế và trong nƣớc có rất
nhiều sản phẩm BHNT tuy nhiên về cơ bản có các nhóm sản phẩm chính sau:
- Bảo hiểm trọn đời (hay còn gọi là bảo hiểm trƣờng sinh): là hình thức
bảo hiểm nhân thọ trong đó công ty bảo hiểm sẽ phải chi trả quyền lợi bảo
hiểm khi ngƣời đƣợc bảo hiểm tử vong với điều kiện hợp đồng bảo hiểm đang
có hiệu lực khi sự kiện tử vong xảy ra. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời là hình
thức kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm có tính bảo hiểm cao. Thời hạn bảo
hiểm thƣờng không đƣợc xác định trƣớc đối với mỗi hợp đồng. Việc chi trả
tiền bảo hiểm chỉ đƣợc thực hiện khi ngƣời đƣợc bảo hiểm tử vong hoặc sống
đến 99 hoặc 100 tuổi. Hình thức bảo hiểm này đƣợc thiết kế để phục vụ cho
các mục đích nhƣ đảm bảo các khoản chi tiêu cuối cùng, để lại tài sản cho thế
hệ sau, làm từ thiện…Đối với sản phẩm này, phí bảo hiểm có thể đƣợc đóng
một lần hoặc định kỳ, tuổi của ngƣời tham gia càng cao thì phí đóng càng cao.
- Bảo hiểm sinh kỳ: là hình thức bảo hiểm nhân thọ mà trong đó công
ty bảo hiểm cam kết chi trả trợ cấp một lần hoặc chi trả các khoản trợ cấp theo
định kỳ cho một (hoặc một số) ngƣời đƣợc chỉ định khi ngƣời đƣợc bảo hiểm
sống đến một thời điểm quy định trong hợp đồng. Có hai hình thức bảo hiểm
sinh kỳ, đó là bảo hiểm sinh kỳ thuần túy và bảo hiểm trợ cấp.
Đối với bảo hiểm sinh kỳ thuần túy, số tiền bảo hiểm sẽ đƣợc chi trả
một lần khi ngƣời đƣợc bảo hiểm sống đến thời hạn bảo hiểm đã thỏa thuận.
Hiện nay, rất ít công ty bảo hiểm triển khai loại hình bảo hiểm này do tính
đơn điệu và ít có tính bảo vệ. Với bảo hiểm trợ cấp, các khoản trợ cấp sẽ đƣợc
chi trả theo thỏa thuận. Việc chi trả có thể đƣợc thực hiện một lần hoặc theo
định kỳ. Bảo hiểm trợ cấp là sản phẩm sơ khai của bảo hiểm nhân thọ, nó

cung cấp sự bảo vệ về tài chính cho ngƣời đƣợc bảo hiểm trƣớc các rủi ro về
tài chính trong tƣơng lai.
- 16 -

Việc đóng phí bảo hiểm trợ cấp rất linh hoạt. Ngƣời tham gia bảo hiểm
có thể đóng phí một lần hoặc định kỳ. Nếu đóng phí một lần, ngƣời tham gia
bảo hiểm có thể đóng ngay trƣớc khi khoản trợ cấp đầu tiên đƣợc chi trả hoặc
đóng trƣớc một khoảng thời gian trƣớc khi bắt đầu nhận khoản trợ cấp. Nếu
đóng phí định kỳ, ngƣời tham gia bảo hiểm có quyền lựa chọn một trong hai
hình thức: mức phí đóng cố định định kỳ hoặc mức phí đóng linh hoạt giao
động giữa mức tối đa và tối thiểu đã đƣợc thỏa thuận từ trƣớc giữa công ty bảo
hiểm và ngƣời tham gia bảo hiểm. Và phƣơng thức đóng phí sẽ ảnh hƣởng tới
tổng số phí bảo hiểm phải đóng. Nếu đóng phí một lần thì tổng số phí bảo hiểm
phải đóng của ngƣời tham gia bảo hiểm sẽ ít hơn đóng phí định kỳ.
- Bảo hiểm tử kỳ: là loại hình bảo hiểm nhân thọ trong đó công ty bảo
hiểm sẽ phải chi trả quyền lợi bảo hiểm bảo hiểm nếu ngƣời đƣợc bảo hiểm
chết trong thời hạn bảo hiểm. Bảo hiểm tử kỳ có các đặc điểm nhƣ thời hạn
bảo hiểm đƣợc xác định cụ thể, trách nhiệm và quyền lợi của ngƣời bảo hiểm
mang tính tạm thời, đây là loại sản phẩm BHNT chỉ mang tính bảo vệ. Hiện
nay, các sản phẩm bảo hiểm tử kỳ rất đa dạng, phục vụ các mục đích khác
nhau của ngƣời tham gia nhƣ: bảo đảm các chi phí mai táng, bảo trợ về tài
chính cho gia định và ngƣời thân của ngƣời tham gia, thanh toán các khoản nợ
nần của ngƣời tham gia….
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp: là hình thức bảo hiểm nhân thọ mà trong
đó công ty bảo hiểm sẽ phải chi trả quyền lợi bảo hiểm khi ngƣời đƣợc bảo
hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm hoặc sống đến thời hạn đó, tùy thuộc
vào sự kiện nào xảy ra trƣớc. Đây là hình thức kết hợp giữa bảo hiểm và tiết
kiệm. Trong hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp, phí bảo hiểm thƣờng đóng định kỳ
và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm của hợp
đồng bảo hiểm này tƣơng đối dài: 5 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm hoặc lâu

hơn nữa. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có mức phí cao hơn so
- 17 -

với các dạng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khác. Sở dĩ nhƣ vậy là vì, nếu
không tính đến các trƣờng hợp hủy bỏ hợp đồng trƣớc hạn thì việc trả tiền của
doanh nghiệp bảo hiểm cho ngƣời thụ hƣởng là một điều chắc chắn trong tất
cả các hợp đồng bảo hiểm. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là dạng hợp đồng có
giá trị hoàn lại (hay còn gọi là giá trị giải ƣớc), vì thế nó cũng là một bảo
chứng cho những khoản tiền vay và trong chừng mực nhất định, ngƣời đƣợc
bảo hiểm có thể thế chấp hợp đồng bảo hiểm này cho ngân hàng để vay tiền.
Do đặc thù của bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là bảo hiểm cho cả hai sự kiện trái
ngƣợc nhau là “tử vong” và “còn sống” của ngƣời đƣợc bảo hiểm, vì thế cả
hai yếu tố rủi ro và tiết kiệm đƣợc đan xen nhau trong cùng một hợp đồng bảo
hiểm. Nhƣ vậy, ngƣời tham gia bảo hiểm sẽ giải quyết đƣợc đồng thời hai nhu
cầu cơ bản trong cuộc sống bởi cùng một hợp đồng bảo hiểm: Vừa cho phép
ngƣời đƣợc bảo hiểm tiết kiệm những khoản phí nhỏ nộp mỗi lần để thu đƣợc
một món tiền lớn trong tƣơng lai, vừa cho phép góp phần ổn định cuộc sống
cho những ngƣời thụ hƣởng bảo hiểm khi ngƣời đƣợc bảo hiểm bị chết.
Thực tiễn thị trƣờng bảo hiểm nhân thọ ở các nƣớc cũng nhƣ Việt Nam
cho thấy: Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là dạng hợp đồng bảo hiểm đƣợc “ƣa
thích nhất” trong số các dạng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và doanh số thu
đƣợc từ hợp đồng này chiếm tỷ trọng rất lớn trong các doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ.
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ (bảo hiểm niên kim) là nghiệp vụ bảo hiểm
cho trƣờng hợp ngƣời đƣợc bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau
thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho ngƣời
thụ hƣởng theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Bảo hiểm trả tiền định
kỳ có thể đƣợc đóng phí bảo hiểm một lần hoặc nhiều lần và từ một thời điểm
nhất định, theo định kỳ, ngƣời đƣợc bảo hiểm nhận đƣợc một khoản tiền chi
trả từ doanh nghiệp bảo hiểm (niên kim)

- 18 -

Khoản tiền thanh toán, thƣờng đƣợc mô tả là khoản tiền hàng năm, mặc
dù trong thực tế nó có thể đƣợc trả nửa năm, hàng quý hoặc hàng tháng. Niên
kim có thể đƣợc trả ngay vào thời điểm ký kết hợp đồng bảo hiểm hoặc trả
sau, khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực trong một quãng thời gian nhất
định. Các khoản niên kim thƣờng chỉ đƣợc trả khi ngƣời đƣợc bảo hiểm sống.
Độ lớn của các khoản niên kim thông thƣờng là không đổi song cũng có thể
tăng lên, tuỳ theo sự thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm
trả tiền định kỳ là một dạng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trƣờng hợp sống, có
nghĩa là khi ngƣời đƣợc bảo hiểm chết tƣơng ứng với việc chấm dứt thực hiện
nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ đƣợc giải
phóng mọi nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy để tránh
trƣờng hợp khi ngƣời đƣợc bảo hiểm vừa đóng phí bảo hiểm xong, chƣa đƣợc
nhận niên kim hoặc mới chỉ nhận đƣợc một số ít lần trả tiền từ ngƣời bảo
hiểm mà ngƣời đó đã tử vong, (điều này sẽ rất thiệt thòi cho ngƣời đƣợc bảo
hiểm) nên trong thực tế, có những hợp đồng bảo hiểm niên kim đƣợc đƣa
thêm điều khoản hoàn phí bảo hiểm hoặc điều khoản về khả năng chuyển hồi.
Điều này nhằm mục đích tránh sự mất phí và không đƣợc trả tiền của ngƣời
thụ hƣởng bảo hiểm trong trƣờng hợp ngƣời đƣợc bảo hiểm chết trƣớc thời
hạn đƣợc hƣởng niên kim hoặc mới chỉ nhận đƣợc một vài niên kim.
- Bảo hiểm liên kết đầu tƣ: là một loại hình đặc biệt của bảo hiểm nhân
thọ, trong đó sau khi trừ đi chi phí quản lý và chi phí trả cho bảo hiểm nhân
thọ, phí bảo hiểm đƣợc sử dụng để mua các đơn vị đầu tƣ trong các quỹ liên
kết. Các quỹ này bao gồm nhiều loại tài sản đầu tƣ đƣợc quản lý nhằm mang
lại lợi ích cho tất cả những ngƣời sở hữu các đơn vị đầu tƣ trong quỹ. Quyền
lợi của các hợp đồng bảo hiểm thực tế là giá trị của các đơn vị đầu tƣ đó. Giá
trị này không cố định, có thể tăng hoặc giảm phụ thuộc vào giá trị các tài sản
đầu tƣ. Với tính đầu tƣ này, bảo hiểm liên kết đầu tƣ đã thực sự làm thay đổi

×