Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.86 MB, 114 trang )

O à*
IF
) c
i / ' v = - g
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TÉ
— 0O0—
LÊ ĐĂNG KHÁNH
PHÁT TRIÈN THỊ TRƯỜNG
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ : 60 34 05
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẦN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHAN HUY ĐƯỜNG
v - L 0 / m r
HÀ NỌI - 2007
a - —

— ■ ■ a
MỤC LỤC
MỞ ĐÀU 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THựC TIỄN PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG BẢO HIẾM PHI NHÂN THỌ
5
1.1. THỊ TRƯỜNG BẢO HIÊM PHI NHÂN THỌ VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC
ĐỘNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 5
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm: 5
1.1.2. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ 9
1.1.3. Các nhân tố tác động thị trường bảo hiểm phi nhân thọ 17
1.2. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỒ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG


BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT
NAM: 27
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ của một số
nước: 27
1.2.2. Bài học rút ra cho Việt Nam 40
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÀO HIẾM PHI
NHÂN THỌ VIỆT NAM: 41
2.1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VẺ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM PHI
NHÂN THỌ VIỆT NAM: 41
2.1.1 Số lượng các doanh nghiệp báo hiểm, quy mô vốn và hình thức sở hữu
vốn: 41
2.1.2. Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ: 44
2.1.3. Thị phần các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường Việt
Nam: 47
2.1.4. Bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ: 48
2.1.5. Tái bảo hiểm của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ: 50
2.1.6. Đầu tư vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp bào hiểm phi nhân thọ:

52
2.2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI
NHÂN THỌ VIỆT NAM 56
2.2.1. Phạm vi, quy mô của thị trường và ổn định kinh tế xã hội: 57
2.2.2. Hình thành thị trường bảo hiềm phi nhân thọ với đầy đủ các
yếu tố thị trường 61
2.2.3. Chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm
được cải thiện một bước: 64
2.2.4. Mở cừa thị trường bào hiểm:
67
2.2.5. Từng bước hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế: 68
2.2.6. Các chính sách pháp luật của Nhà Nước, quàn lý nhà nước về kinh doanh

bào hiểm từng bước đựoc hoàn thiện thúc đẩy thị trường phát triển:

69
2.3 ĐÁNH GIÁ NHỮNG TỒN TẠI VÀ PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN:

71
2.3.1. Thị trường bào hiềm phi nhân thọ chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội 71
2.3.2. Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ còn hạn chế: 75
2.3.3. Biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh còn tồn tại:

78
2.3 .4. Các loại hình sản phẩm bảo hiểm chưa đa dạng:

80
CHƯƠNG III: MỘT SÓ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG BÀO HIẾM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM 82
3.1. QUAN ĐIỂM, MỰC TIÊU PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO
HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

82
3 .1.1. Bối cảnh mới tác động phát triển thị trường bảo hiểm phi
nhản thọ Việt Nam 82
3.1.2. Quan điểm, mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt
Nam ứong thời gian tới 84
3.2. MỘT SÓ GIẢI PHÁP THÚC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIẾM
PHI NHÂN THỌ 85
3.2.1. Phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm:
85

3.2.2. Phát triển mạng lưới, kênh phân phối sản phẩm

87
3.2.3. Nàng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ 90
3.2.4. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp bào hiểm phi
nhân thọ: 95
3.2.5. Phát ứiển và sắp xếp các doanh nghiệp bảo hiểm: 96
3.2.6. Đổi mới và tăng cường quản lý nhà nước về kinh doanh bào hiểm
phi nhân thọ: 101
3.3. KIẾN NGHỊ 102
3.3.1. Đối với Bộ Tài chính :
102
3.3.2. Đối với Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam: 103
3.3.3. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ: 105
KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẨP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, thúc đẩy hội
nhập quốc tế, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như huy động
nguồn nội lực trong nước, ngành bảo hiểm Việt Nam đã đạt được những
thành tựu đáng kể cả về chất và lượng. Thị trường đã có bước chuyển biến cơ
bản từ chỗ chi có 01 Công ty bào hiểm nhà nước độc quyền đến 01 thị trường
bảo hiểm Việt Nam đa thành phần và nhiều loại hình bảo hiểm phong phú, là
một trong những thị trường phát triển nhanh và ổn định trong khu vực và trên
thế giới.
Ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng đã cỏ
những đóng góp thiết thực nhầm ổn định đời sống kinh tế xã hội. Các công ty
bảo hiểm đã đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng, nâng cao chất

lượng dịch vụ. Ngành bảo hiểm cũng đã thực hiện tốt vai ừò là kênh huy động
vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế, góp phần tạo thêm việc làm cho xã
hội. Tuy nhiên, so với tiềm năng phát triển cùa thị trường bảo hiểm và nhu
cầu phát tiển kinh tế - xã hội, thị trường bảo hiểm đã bộc lộ một số vấn đề tồn
tại như: Quy mô thị trường còn nhỏ, năng lực bào hiểm còn thấp, hoạt động
đầu tư còn nhiều hạn chế
Trong bối cảnh toàn cầu hoá thị trường đang diễn ra nhanh chóng, việc
đưa ngành bảo hiểm hội nhập kinh tế quốc tế là một yêu cầu cấp thiết đối với
Việt Nam. Quá trình hội nhập đã mở ra những cơ hội mới, song cũng đặt ra
những thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải nâng
cao năng lực tài chính và năng lực cạnh tranh, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế
về quản trị doanh nghiệp, phát triển sản phẩm
1
Xuất phát từ thực tế nêu trên, vấn đề “Phát triển thị trường bảo hiểm phi
nhân thọ ờ Việt Nam” được tác già chọn làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ kinh
tế-ngành Quản fri kinh doanh.
2. TÌNH HÌNH NGHĨÊN CỬU:
Cho đến nay, có rất nhiều học giả Việt Nam cũng như nước ngoài
nghiên cứu liên quan đến đề tài này ờ các khía cạnh khác nhau. Trong đó phải
kề đến các tác phẩm, bài báo, tạp chí như “ Một số điều cần biết về pháp lý
trong kinh doanh bảo hiểm của đồng tác giả GS.TSKH. Trương Mộc Lâm và
Lưu Nguyên Khánh (Nhà xuất bản thống kê -2000); “Thực trạng và các giải
pháp nâng cao hiệu quà hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp trên thị trường
bảo hiểm Việt Nam” của tác giả Lê Song Lai (Tạp chí bảo hiểm-tái bảo hiềm
Việt Nam số 4 năm 2005); “ Quàn trị kinh doanh bảo hiểm” của tác giả TS.
Nguyễn Văn Định (Nhà xuất bản thống kê năm 2003); “Vai trò của chiến
lược kinh doanh đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong xu thế
hội nhập” của tác giả TS. Ngô Kim Thanh-Đại học KTQD (Tạp chí Bảo hiểm
sổ 4 năm 2003); “Thu thập và xử lý thông tin trong quản lý nghiệp vụ bào
hiểm phi nhân thọ Thực trạng và giải pháp” của tác già Nguyễn Thanh Thuỷ

(Tạp chí Bào hiềm số 3 năm 2002); “Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm
2004” (Tạp chí Bảo hiểm-Tái bảo hiểm Việt Nam) số 1 năm 2005); “5 năm
trưởng thành của hiệp hội bảo hiểm Việt Nam” của tác giả Phùng Đắc Lộc-
Tổng thu ký Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (tạp chí Bảo hiểm-Tái bảo hiểm số
1 năm 2005); “Bảo hiểm -Nguyên tắc và thực hành” cùa tác già TS. David
Bland (Nhà xuất bản Tài chính).
Các tác phẩm trên đã tập trung phân tích nhũng vấn đề cơ bản nhất về
lý luận bảo hiểm nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng, những đánh
giá cơ bản nhất về thực trạng thị trường bảo hiểm Việt Nam, những thành tựu
qua các năm, các thời kỳ. Chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính chất
2
bao quát, toàn diện những khía cạnh những vấn đề của Thị trường bào hiềm
phi nhân thọ Việt Nam, những tồn tại, nguyên nhân của thị trường này. Vì lẽ
đó, luận văn “Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam” sẽ
được nghiên cứu hệ thống, toàn diện và cập nhật về thị trường bảo hiểm phi
nhân thọ Việt Nam, những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân, tồn tại và giải
pháp phát triền thị trường bảo hiểm trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng ờ Việt Nam.
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Luận văn làm sáng tỏ các vấn đề sau:
Nghiên cứu lý luận về bảo hiểm phi nhân thọ.
Luận văn phân tích về hoạt động kinh doanh và thực trạng phát triển
bào hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam từ 2000 đến 2005.
Trên cơ sở lý luận và kết quả phân tích đánh giá thực trạng, luận văn
đưa ra những kiến nghị về các giải pháp nhằm phát triển thị trường toàn
diện, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN c ử u
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Phát triển thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu

thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2000 đến 2005.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp lịch sử và logic.
Kết hợp phương pháp điều tra, so sánh, phân tích thống kê, tư duy
chứng thực.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
3
Tác già hy vọng luận văn sẽ có những đóng góp cơ bản sau:
Thứ nhất, khái quát nhất những lý luận về thị trường bảo hiểm phi nhân thọ,
kinh nghiệm phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở một số nước.
Thứ 2, đưa ra được nhừng đánh giá khách quan về những điểm mạnh, điểm
yếu của thị trường bào hiểm phi nhân thọ Việt Nam
Thứ 3, đưa ra những định hướng mang tính chất chiến lược và những giải
pháp thực hiện để phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu của Việt Nam.
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN:
Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ.
Chương II: Thực trạng thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ Việt Nam.
4
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ THựC TIỄN PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1. THỊ TRƯỜNG BÀO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ CÁC NHÂN TÔ
TÁC ĐỌNG ĐÉN THỊ TRƯỜNG BẢO HIẺM PHI NHÂN THỌ.
• • •

1.1.1. Khái niêm bảo hiểm:
- Khái niệm bảo hiểm:
Nhu cầu an toàn đối với các cá nhân và tổ chức trong xã hội là vĩnh
cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách để bảo vệ chính bản thân và tài sàn của
mình trước những bất hạnh của số phận, những biến cố bất ngờ xẩy ra trong
quá trình sán xuất, kinh doanh, lao động và học tập Bảo hiểm là hoạt động
thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm
trong từng trường hợp xẩy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện
nguời tham gia bảo hiểm cho chính anh ta hoặc người thứ ba. Điều này có
nghĩa là người tham gia bào hiểm chuyển giao hậu quà của rủi ro cho người
bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỷ dự trữ. Khi người tham
gia bảo hiểm gặp rủi ro dẫn đến tồn thất, nguời bảo hiểm dùng quỹ dự trừ trợ
cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia bảo
hiểm. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà nguời tham gia đăng ký và thoả
thuận với nguời bảo hiểm.
Vậy bản chất cùa Bảo hiểm là góp phần ồn định kinh tế cho người tham
gia từ đó khôi phục và phát triển sàn xuất đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn
cho phát triển kinh tế đất nước. Bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản
phẩm trong nước giữa những nguời tham gia nhằm đáp ứng lại tổng sản phẩm
trong nước giữa những người tham gia và nhu cầu tài chính phát sinh khi tai
nạn, rủi ro bất ngờ xẩy ra gây tổn thất đổi với người tham gia bảo hiểm. Phân
5
phối trong bảo hiểm là phân phối không đều, nghĩa là không ai tham gia cũng
được phân phối và phân phổi với số tiền như nhau, Phân phối trong bảo hiểm
là phân phối cho sổ ít người tham gia bảo hiểm không may gặp rủi ro bất ngờ,
bất khả kháng và không lường trước được gây thiệt hại đến sản xuất và đời
sống trên cơ sở mức thiệt hại thực tế và điều kiện bào hiểm. Điều đó có nghĩa
là phân phối trong bảo hiểm không mang tính chất bồi hoàn, tức là dù có tham
gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm chung nhưng không tồn thất thì không được
phân phối.

Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc “số đông bù số ít” được quán
triệt trong quá trình lập quỹ dự trù bảo hiểm cũng như quá trình phân phối bồi
thường, quá trình phân tán rủi ro Hoạt động bảo hiểm còn liên kết, gắn bó
các thành viên trong xã hội cùng vì lợi ích chung của cộng đồng, vì sự ổn
định, phồn vinh của đất nước, Bào hiểm với nguyên tắc “số đông bù số ít”
cũng thế hiện tính tương trợ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc cùa xã hội trước
rủi ro của các thành viên.
- Bảo hiểm thương mại (hay Kinh doanh bào hiểm):
Kinh doanh bào hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm
mực đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của bên
mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bào hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh
nghiệp bào hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho
bên mua bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xẩy ra. Khái niệm này thể hiện
một số nội dung cụ thể như sau:
Môt là: Mục đích của hoạt động kinh doanh bào hiểm là lợi nhuận, đây là
mục đích chính cùa bất kỳ doanh nghiệp bào hiểm nào, chỉ có thu được lợi
nhuận doanh nghiệp bảo hiểm mới tồn tại và phát triển được trong nền kinh tế
thị trường hiện nay. Chỉ có lợi nhuận mới giúp doanh nghiệp bảo hiểm trang
trài được các yêu cầu của tổ chức, cá nhân góp vốn, cung cấp vốn cho họ. Lợi
6
nhuận còn giúp cho doanh nghiệp duy trì được nguồn quỹ dự phòng đủ lớn,
hạn chế sự chuyển nhượng tái bảo hiểm và có điều kiện để mờ rộng quy mô,
phạm vi hoạt động, có điều kiện nâng cao mức thu nhập cho cán bộ, nhân
viên, thu hút được nguồn nhân lực tốt, chất lượng cao. Bên cạnh việc nâng
cao lợi nhuận, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm còn phải đáp ứng được các
nhu cầu của khách hàng, giúp khách hàng nhanh chóng ổn định được đời sống
và ổn định sản xuất kinh doanh khi không may xẩy ra tồn thất, thiệt hại đối
với họ, đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước. Doanh nghiệp
bảo hiểm cũng giống như các tổ chức khác trong xã hội rất mong muốn tạo
dựng một xã hội an toàn và ổn định góp phần làm cho xã hội thịnh vượng và

phồn vinh. Điều đó thể hiện ở việc doanh nghiệp bào hiểm thực hiện các biện
pháp đề phòng hạn chế tổn thất, dịch vụ tư vấn, giám định, khuyến nghị về
công tác quản lý rủi ro, bồi thường nhân đạo.
Hai là: Thực chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các doanh nghiệp
bảo hiểm chấp nhận hậu quả của rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển
giao cho họ, đồng thời chấp nhận trà tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho bên
tham gia khi có các sự kiện bào hiểm xẩy ra. Đồi lại doanh nghiệp bào hiểm
sẽ thu được phí bảo hiểm để hình thành quỹ dự trữ, bồi thường, trang trải các
chi phí liên quan và có lãi. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp bảo hiểm
nhận bất cứ rủi ro nào mà chỉ nhận các rủi ro có một số đặc điểm như sau:
* Rủi ro phải chưa xảy ra,
* Rủi ro có tính chất bất ngờ, bất khả kháng và không lường trước được,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người tham gia bảo hiểm.
* Rủi ro phải mang tính chất số đông (nhiều rủi ro cùng loại).
* Rủi ro không thuộc phạm vi pháp luật cấm, không trái với thuần phong mỹ
tục của xã hội.
7
tìa là: Kinh doanh bảo hiểm thường gắn liền với hoạt động kinh doanh tái bào
hiềm, kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động cùa doanh nghiệp báo hiểm nhằm
mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản phí bảo
hiểm của doanh nghiệp bào hiểm khác để cam kết bồi thường cho các trách
nhiệm đẵ nhận từ các doanh nghiệp bảo hiểm khác. Trong hoạt động kinh
doanh bào hiềm là chủ yếu nhưng hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm nhất
thiết phải đặt ra. Ngoài mục đích sinh lời kinh doanh tái bảo hiểm còn giúp
doanh nghiệp mờ rộng quan hệ với bạn hàng, tranh thủ nguồn vốn, học hỏi
kinh nghiệm, nắm thêm thông tin Hơn thế nữa, bảo hiểm còn thực hiện tái
bảo hiểm để đảm bảo ổn định kinh doanh, tránh phá sản trong nhừng trường
hợp mà đối tượng bảo hiểm tham gia với số tiền bảo hiểm lớn, hoạt động ở
địa bàn quá xa, doanh nghiệp không có khả năng tài chính và khả năng kiểm
soát rủi ro. Hoạt động kinh doanh bào hiểm còn bao gồm hoạt động trung

gian bảo hiểm như hoạt động đại lý mà môi giới bảo hiểm.
- Bào hiếm phi nhân thọ:
Bảo hiềm là khái niệm rất rộng, khó có được một định nghĩa áp dụng
chung đối với cả bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ vì bản chất của
hai loại hình bảo hiểm này là rất khác nhau. Riêng về bảo hiềm phi nhân thọ
cũng có nhiều quan điểm định nghĩa khác nhau. Ờ đây, theo tác già có thể
định nghĩa bảo hiểm phi nhân thọ như sau: Bảo hiểm phi nhân thọ là biện
pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số ít người cho cả cộng đồng những
người có khả năng gặp rủi ro cùng loại, bằng cách mỗi người trong một cộng
đồng góp một sổ tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp
thiệt hại cho những thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do
nhừng rủi ro đó gây ra.
Đối tượng cùa bào hiềm phi nhân thọ là các tài sản của các tổ chức, cá
nhân, con người, và các trách nhiệm theo hợp đồng, trách nhiệm pháp lý phát
8
sinh của cá nhân, tồ chức trong quá trình hoạt động của mình. Bảo hiểm sẽ
bồi thường cho tổn thất vật chất, thiệt hại về tài chính cho tổ chức cá nhân
gặp rủi ro bất ngờ thuộc phạm vi bảo hiểm, nhằm khôi phục tình hình tài
chính của người tham gia bảo hiểm, giúp người tham gia ổn định tình hình tài
chính.
1.1.2. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
- Thị trường:
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá.
Có rất nhiều quan điểm về thị trường và cũng đã có nhiều tài liệu bàn về thị
trường. Có thể nói quan điểm chung nhất về thị trường là “thị trường bao gồm
toàn bộ các hoạt động trao đổi hàng hoá được diễn ra trong sự thống nhất hữu
cơ các mối quan hệ do chúng phát sinh gắn liền với một không gian nhất
định”.
Hành vi cơ bản của thị trường là hành vi mua và bán. Thông qua hoạt
động mua và bán hàng hoá (sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ), người

mua tìm được cái đang cần mua và người bán bán được cái mình đang có với
giá cà có thể thoả thuận được. Hành vi đó được diễn ra trong một thời gian
nhất định và tạo ra những mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế- quan hệ giữa
sản xuất và tiêu dùng, quan hệ giữa cung và cầu, quan hệ giữa đối tác và cạnh
tranh
Theo đặc trưng của sàn phẩm, sàn phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ,
thị trường cũng hình thành các loại thị trường khác nhau như: Thị trường
hàng hoá, thị trường sức lao động, thị trường chứng khoán, thị trường vốn, thị
trường bảo hiểm
- Thị trường bảo hiêm phi nhân thọ:
Khái niệm thị trường bảo hiểm rất phức tạp, có nhiều cách diễn đạt
khác nhau. Theo quan điểm cổ điển và theo thuật ngữ bảo hiểm thi thị trường
9
bảo hiểm trong đó có thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là nơi mua và bán các
sản phẩm bảo hiểm. Trong hoạt động marketing, các doanh nghiệp bào hiểm
ít quan tâm đến thị trường nói chung, mà hoạt động của họ gắn liền với một
sản phẩm cụ thể. Theo quan điềm của Ph. Kotler thì thị trường báo hiểm thì
bao gồm toàn bộ khách hàng hiện tại và khách hàng tương lai của một loại
sản phẩm bào hiểm. Quan điểm thị trường là khách hàng mở ra khả năng khai
thác thị trường rộng lớn cho doanh nghiệp bào hiểm. Hoạt động của họ không
chỉ diễn ra ờ những địa điểm cố định mà có thề mở rộng ở bất kỳ nơi nào có
khách hàng bảo hiểm. Sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm dịch vụ đặc biệt,
là loại sản phấm vô hình không thể cảm nhận được hình dáng, kích thước,
mầu sắc sàn phẩm bảo hiểm phi nhân thọ không được bảo hộ bản quyền, là
sản phẩm bảo hiểm người mua không mong đợi sự kiện bảo hiểm xẩy ra đối
với mình để được bồi thường hay trả tiền bảo hiểm.
Các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ được mua bán trên thị trường nếu
xét về khía cạnh đối tượng khách hàng tiêu dùng thì có thể được phân chia
như sau:
* Đối với sàn phẩm dùng cho cá nhân và các hộ gia đình:

Bảo hiểm tai nạn con người 24/24
Bảo hiểm tài sản (xe cộ, nhà cửa)
Bào hiểm du lịch
Bào hiềm trách nhiệm dân sự xe cơ giới.
v.v.v
* Đối với sản phẩm bảo hiểm dùng doanh nghiệp, tổ chức:
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Bào hiêm hàng hoá vận chuyển.
Bảo hiểm thân tầu, thân máy bay.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ phuơng tiện
10
Bảo hiểm tai nạn cho công nhân viên,
Bảo hiểm trách nhiệm chù sử dụng lao động.
Bảo hiềm hoà hoạn
Bảo hiểm xây đựng lắp đặt, trang thiết bị chủ thầu.
Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.
v.v.v.
Ngoài ra ta có thể chia sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ ra thành các
nhóm sản phẩm bảo hiểm chủ yếu gồm:
* Nhóm sản phẩm bào hiểm tài sàn.
* Nhóm sản phẩm bào hiểm trách nhiệm.
* Nhóm sản phẩm bảo hiểm hoạt động trao đối hàng hoá và con người.
Tham gia thị trường bảo hiềm có người mua bảo hiểm, người bán bảo
hiểm và các tổ chức trung gian bảo hiểm, Người mua bảo hiểm là những cá
nhân hay tổ chức có tài sản, trách nhiệm dân sự trước pháp luật, tính mạng
hoặc thân thể có thể gặp rủi ro cần bảo hiểm thì mua các dịch vụ sản phẩm
bảo hiểm bằng cách trực tiếp hay thông qua các tổ chức trung gian bảo hiểm.
Người bán bào hiểm là các doanh nghiệp bào hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm
bán sản phẩm bảo hiểm có thể bán trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tài
chính trung gian. Các tổ chức trung gian bảo hiểm là câù nối giữa người mua

bảo hiểm và người bán bảo hiểm, các tổ chức trung gian bảo hiểm là các công
ty môi giới bảo hiểm, các đại lý bán bảo hiểm.
Những đăc trưng cơ bản của thỉ trường bảo hiểm phi nhần tho:
- Cung và cầu về bào hiểm luôn biến động
Cung về sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ do các công ty bảo hiểm phi
nhân thọ thực hiện. Các doanh nghiệp này ngày càng được tăng cường theo
quy mô phát triển của nền kinh tế và họ luôn đưa ra thị trường những sản
phẩm mới thích ứng với thị trường. Sản phẩm bảo hiểm ngày một nhiều lên
11
và nó gắn với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và của nền kinh tế, của quá
trình hội nhập và toàn cầu hoá. Sản phẩm bào hiểm không dừng lại như ban
đầu mà nó luôn được cải tiến, hoàn thiện và sáng chế, phát minh ra các sản
phẩm mới.
Cầu về sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ của các cá nhân, tổ chức kinh
tế xã hội cũng không ngừng tăng lên. Khi khoa học kỹ thuật càng phát triển,
nền kinh tế tăng trưởng càng cao, thì tổ chức kinh tế xã hội cũng phát triển
theo, đời sống vật chất của dân cư, hộ gia đình cũng được cải thiện do đó
nhu cầu về dịch vụ cũng tăng thêm, các nhu cầu về số lượng, chất lượng,
chủng loại các sàn phẩm dịch vụ bảo hiểm cũng theo đó mà tăng theo. Cung
và cầu sản phẩm bảo hiểm phát triển song hành, cầu tăng thì cung tăng và
ngược lại.
- Giá của sàn phâm bào hiểm (phỉ bào hiểm) luôn biến động và phụ thuộc vào
nhiều yếu tố:
Phỉ bảo hiểm là sổ tiền mà người mua bảo hiểm phải nộp cho doanh
nghiệp bảo hiểm trên cơ sở thoà thuận giữa người mua và người bán về một
dịch vụ bào hiểm nào đó. Phí bào hiểm được thoả thuận giữa người mua và
người bán cũng có thề xem đó là giá chấp nhận của thị trường về dịch vụ (hay
sản phẩm) bảo hiểm. Phí bảo hiểm thường được tính toán trên cơ sở số tiền
bảo hiềm (số tiền tối đa mà doanh nghiệp phải bồi thường cho người tham gia
bảo hiểm khi có tồn thất xẩy ra) với tỷ lệ phí bảo hiểm. Phí bào hiểm ngoài

việc thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố cung, cầu, cạnh tranh như các loại
hàng hoá thông thường khác, nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như:
• Thời gian mua sản phẩm bảo hiểm, đổi với loại hình bảo hiểm con
người, nhừng người tham gia bào hiểm tai nạn thì độ tuổi khác nhau có mức
phí khác nhau, đối sàn phẩm bảo hiểm liên quan đến thiên tai thì các mùa
khác nhau có mức phí khác nhau.
12
• Địa điểm đối tượng được bảo hiểm.
• Tính chất, ngành nghề khác nhau có tỷ lệ phí bảo hiểm khác nhau.
• Chi phí quản lý, chính sách kinh tế cùa nhà nước, chính sách đầu tư của
các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Cạnh tranh và liên kết diễn ra liên tục:
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ cũng như các thị trường khác sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp để tranh giành khách hàng cũng diễn ra liên tục,
gay go, quyết liệt. Cạnh tranh diễn ra trên nhiều khía cạnh, thù thuật. Hơn thế
nữa do sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ là dễ bắt chước không bảo hộ bản
quyền nên các doanh nghiệp bảo hiểm đổ xô vào những sản phẩm bào hiểm
đã được thị trường chấp nhận, hoặc những sản phẩm bảo hiểm mang tính chất
bắt buộc theo quy định của pháp luật từng quốc gia bằng cách cải tiến để hoàn
thiện sản phẩm đó hơn các doanh nghiệp khác, bàng cách tuyên truyền quảng
cáo sâu rộng, hấp dẫn để quảng cáo, lôi kéo khách bằng nhiều cách kể cả việc
dùng sức ép phi kinh tế và đặc biệt là giảm phí phi kỹ thuật, tăng hoa hồng
cho đại lý để giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị trường.
Cùng với cạnh tranh là liên kết, cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng
phát triển. Liên kết thường diễn ra giữa các doanh nghiệp mới, còn yếu về
tiềm lực để tạo ra sức mạnh cạnh tranh, liên kết giữa các doanh nghiệp có thế
mạnh để hoà hoãn, cùng phát triển tránh gây thiệt hại cho nhau. Liên kết còn
diễn ra giữa doanh nghiệp bảo hiểm và các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn
kinh tế mạnh tạo thế độc quyền cung cấp sản phẩm dịch vụ bào hiểm. Liên
kết còn là nhu cầu của thị trường bảo hiểm mới hình thành và phát triển trong

điều kiện thị trường thế giới đã ổn định, có tiềm lực. Liên kết cũng là xu thế
của hội nhập và toàn cầu hoá. Liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với
các doanh nghiệp nước ngoài dưới hình thức liên doanh để tăng cường tiềm
13
lực kinh tế và kinh nghiệm kinh doanh để mờ rộng thị trường, tăng cường khả
năng nhận bào hiểm.
Thị phần các doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn thay đổi:
Thị phần bảo hiểm là tỷ lệ phần trăm của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm
chiếm trong thị trường bào hiểm. Thị phần càng lớn chứng tỏ vị thế doanh
nghiệp càng cao, kết quả kinh doanh cùa doanh nghiệp càng phát triển. Nói
đến thị phần ỉà nói đến thị trường phát triển không còn mang tính độc quyền.
Ở đây các doanh nghiệp có cơ hội như nhau, song doanh nghiệp nào dành
được thị phần nhiều hơn là do doanh nghiệp đó làm tốt công tác quảng cáo,
tiếp thị do chất iượng sản phẩm hàng hoá tốt, chăm sóc khách hàng tốt, giá
cả cạnh tranh. Thị phần của các doanh nghiệp bào hiểm luôn luôn thay đổi do
số lượng các doanh nghiệp tham gia vào thị trường thay đổi, do chiến lược
marketing, chiến lược sản phẩm, chiến ỉược giá cả của các doanh nghiệp
thay đổi. Ngoài việc cạnh tranh để giành giật thị trưởng của nhau, các doanh
nghiệp còn phải có chiến lược kinh doanh hợp lý để thu hút khách hàng chưa
tiêu dùng sàn phẩm đó. Đây là bộ phận khách hàng có nhu cầu bào hiểm
nhưng chưa có thông tin, chưa biết đến sàn phẩm bào hiểm trên thị trường.
Doanh nghiệp bào hiểm nào có chiến lược tuyên truyền quảng cáo, phục vụ
tốt, tiếp thị tốt sẽ thu hút thêm lượng khách hàng ở bộ phận này góp phần tăng
thị phần của doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng phải tung ra thị
trường những sản phẩm bảo hiểm mới để thu thu hút khách hàng đã tham gia
loại sàn phẩm bào hiểm đã tiêu dùng.
Thị trường bảo hiểm là thị trường dịch vụ tài chính, do đó chịu sự kiểm
tra, kiểm soát rất chặt chẽ của nhà nước, nhà nước có thể can thiệp khá sâu
vào hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Đặc biệt đối với một số sản
phẩm bảo hiềm phi nhân thọ, nhà nước không nhừng xét duyệt phí bảo hiểm,

xác định giới hạn trách nhiệm bào hiềm mà còn quyết định hình thức triển
14
khai, bắt buộc nguời mua phải mua bào hiểm và bắt buộc người bán phải bán
báo hiểm (bảo hiểm bắt buộc), quy định doanh nghiệp bào hiểm nhất định
mới được bán sản phẩm bảo hiểm bắt buộc. Chi có trong thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ mới có hình thức bắt buộc với người tham gia.
Mỏt số quv luẳt chung của thi trường bảo hiếm:
Cũng như các thị trường khác, thị trường bảo hiểm cũng bị chi phối bởi
các quy luật chung của thị trường và quy luật riêng của thị trường bào hiểm.
Đó là quy luật cung cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh và liên kết, quy
luật số đông bù số ít
Quy luật cung - cầu về bảo hiểm luôn tồn tại song hành. Cung phát
triển trên cơ sở cầu, cầu dựa vào khả năng của cung đề thoả mãn. Cung - cầu
phát triển trên cơ sờ nền kinh tế xã hội phát triển. Do đó cung-cầu phát triển
nhịp nhàng, cân đối.
Quy luật cung - cầu có ảnh hưởng đến quy luật giá cả, tức phí bảo hiểm
của các dịch vụ bào hiểm. Phí bảo hiểm được điều tiết theo quan hệ cung-cầu
của thị trường, theo mức độ rủi ro của thời gian quá khứ, theo chính sách kinh
tế xã hội của Nhà nước, như chính sách thuế, chính sách đầu tư, tỷ giá, lãi
suất
Thị trường bảo hiềm với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau thì sự cạnh tranh để thu hút khách hàng, chiếm
lĩnh thị trường, nâng cao thị phần giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt,
càng quyết liệt. Cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng phát triển. Liên kết
giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau, liên kết giữa doanh nghiệp trong
nước với các doanh nghiệp nước ngoài, liên kết giữa các doanh nghiệp bảo
hiểm với các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác cạnh tranh và liên
kết là quy luật vốn có của thị trường, do đó thị trường bảo hiểm cũng không
15
vượt ra ngoài quy luật ấy. vấn đề là biết tận dụng quy luật để điều tiết, tổ

chức hợp lý nhằm thúc đẩy thị trường phát triển.
Quy luật sổ đông bù sổ ít là quy luật đặc thù của thị trường bảo hiểm
nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng. Các doanh nghiệp bảo hiểm vận
dụng quy luật này một cách nhuần nhuyễn vào hoạt động kinh doanh của
mình. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp bảo hiểm phải có chiến lược tiếp
thị, tuyên truyền quàng cáo thật sinh động để thu hút số đông khách hàng
tham gia mua sản phẩm bảo hiểm của mình với giá cả chấp nhận được đối với
cà bên mua và bên bán. Nhiều khách hàng tham gia mua bảo hiểm có nghĩa là
doanh nghiệp thu được nhiều phí bảo hiểm. Phí bào hiểm là số tiền người
tham gia mua bào hiểm phải gánh chịu. Phí bảo hiểm phải phù hợp với khả
năng thanh toán của người tham gia, phài tương đương với quyền lợi kinh tế
mà họ có thể được nhận từ doanh nghiệp bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường về vật chất, tài chính cho
nhừng tổn thất xảy ra do rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm, số tiền bồi thường
bảo hiềm bằng tổn thất thực tế nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm, số
tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm thường lớn hơn rất nhiều lần số
phí họ phải nộp. Do vậy doanh nghiệp bảo hiểm phải lấy số phí của nhiều
người tham gia vào dịch vụ bào hiểm ấy để chi trả cho một hoặc một số ít
người không may gặp phải rủi ro.
Quy luật số đông bù số ít được tận dụng triệt để trong hoạt động bào
hiểm. Nếu quy luật này không phát huy tác dụng thì hoạt động bào hiểm
không tồn tại. Nói cách khác doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phá sản. Quy luật này
mang tính tương trợ, cùng san sẻ rủi ro trong cộng đồng những người tham
gia. Có thể nói nhiều người tham gia bảo hiểm và mỗi người phải chịu một
tồn thất nhò, chấp nhận được và biết trước được để bù đẳp cho một hoặc một
16
số ít người chịu tổn thất lớn, vượt qua khả năng tài chính của họ và không
lường trước được.
1.1.3. Các nhân tố tác động thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
- Doanh nghiệp bào hiểm phi nhân thọ:

Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ là doanh nghiệp bảo hiểm được
thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật kinh doanh bảo
hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến kinh doanh bào
hiểm và tái bảo hiềm. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh
tế cùng tham gia, vì vậy thị trường bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường cũng
bao gồm các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sau tham gia:
- Doanh nghiệp bảo hiềm phi nhân thọ nhà nước: là doanh nghiệp do Nhà
nước thành lập, đầu tư 100% vốn và quàn lý với tư cách là một chủ sở hữu,
doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo
pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
- Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tư nhân: là công ty bảo hiểm do một
cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của Công ty
trước pháp luật. Công ty được hình thành theo luật doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cổ phần: là loại hình doanh nghiệp
do các cổ đông tham gia đóng góp vốn thông qua hình thức phát hành cổ
phiếu, trái phiếu và trách nhiệm hữu hạn. Đây là doanh nghiệp có nhiều chủ
sở hừu, cùng chia lợi và cùng chịu lỗ tương ứng với số vốn góp.
- Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ liên doanh: là doanh nghiệp được
hình thành trên cơ sở vốn góp của các bên (trong nước và nước ngoài). Các
thành viên trong liên doanh hường lợi nhuận cũng như chịu thua lỗ tương ứng
với mức vốn góp.
\ V - l û / A 3 J J f
17
- Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ 100% vốn nước ngoài: là doanh
nghiệp do nước ngoài đầu tư vốn hoạt động tại nước sở tại, theo luật pháp của
nước sở tại đồng thời chịu sự chỉ đạo của công ty mẹ ở chính quốc.
- Tồ chức bảo hiểm tương hỗ: là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành
lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành
viên. Thành viên của tổ chức bảo hiểm tương hỗ vừa là chủ sở hữu vừa là bên
mua bảo hiểm, về mặt pháp lý họ vừa là hội viên, vừa là người được bào

hiểm. Tổ chức bào hiềm tương hỗ chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
các nghĩa vụ tài sản khác của tổ chức trong phạm vi tài sàn của tổ chức.
Trong thị trường bảo hiểm còn có một loại doanh nghiệp được tham gia
thị trường đó là doanh nghiệp môi giới bào hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm cũng có nhiều thành phần kinh tế tham gia như doanh nghiệp bào hiểm.
Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là tổ chức đứng về phía khách hàng, nghiên
cứu, tư vấn cho khách hàng lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm bảo
hiểm, thay mặt khách hàng đàm phán phí bảo hiểm, khiếu nại bồi thường với
doanh nghiệp bào hiểm. Các tổ chức đại lý bảo hiểm, mang sàn phẩm bảo
hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm đến với khách hàng có nhu cầu tham gia bảo
hiểm.
- Các hoạt động chù yểu cùa doanh nghiệp bào hiểm phi nhân thọ:
* Kinh doanh khai thác bảo hiểm và kinh doanh khai thác tái bảo hiểm:
Kinh doanh khai thác bảo hiểm là một hoạt động chức năng của doanh
nghiệp bảo hiểm, qua đó doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các sản phẩm bảo
hiểm thông qua việc đánh giá rủi ro yêu cầu bảo hiểm và quyết định có nên
nhận bảo hiểm cho rủi ro đó hay không và nếu có thì dựa trên những điều
kiện, điều khoản bảo hiểm nào. Một phần của hoạt động khai thác bảo hiểm là
xác định mức giá (phí bảo hiểm), quá trình này gọi là công tác định phí bảo
hiểm. Mức phí bảo hiểm phải phản ánh được các chi phí liên quan đến khiếu
18
nại, tổn thất dựa trên những tổn thất trong quá khứ của các rủi ro cùng loại, và
các chi phí quản lý cũng như các chi phí hành chính khác, chính sách thuế, lãi
xuât, tỷ giá của Nhà nước. Ngoài ra, nó cũng phải bao gồm một khoàn lợi
nhuận, khoản lợi nhuận này phụ thuộc vào quyết định của chủ sở hữu doanh
nghiệp, chiến lược phát triển của doanh nghiệp theo từng thời kỳ và cũng phụ
thuộc vào mức độ cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo
hiểm đang hoạt động.
Trong quá trình khai thác bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng
luôn luôn tìm cách hoàn thiện, sáng tạo ra các dịch vụ mới, sản phẩm bảo

hiểm mới. Cũng như các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp bảo hiểm cũng
mong muốn tăng khối lượng dịch vụ (tăng doanh thu phí bảo hiểm) tại mức
giá thích hợp và cố gắng tăng doanh thu bằng nhiều cách khác nhau. Để làm
được điều này, các công ty có thể lựa chọn phương thức sáng tạo thêm các
sản phầm bảo hiểm mới, đáp ứng tối đa các nhu cầu của khách hàng, đa dạng
hoá đối tượng khách hàng, tăng cường phát triển hệ thống phân phối, phương
thức phân phối sàn phẩm.
Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động các doanh nghiệp bảo hiểm dựa
trên khả năng khai thác và khả năng tài chính của mình tiến hành việc nhận và
nhượng tái bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm khác. Các doanh nghiệp
có thể nhận ra rằng các tổn thất được bảo hiểm có giá trị lớn nếu xảy ra có thể
vượt quá khả năng tài chính của họ. Do vậy, họ cần phải chuyển một phần
trách nhiệm bồi thường đối với các khiếu nại này cho một hoặc nhiều doanh
nghiệp bảo hiềm khác bằng cách nhượng lại một phần trách nhiệm bảo hiểm
cho các doanh nghiệp bảo hiểm khác. Ngược lại, với những dịch vụ bào hiểm
mà doanh nghiệp bảo hiểm không khai thác được, họ có thể nhận lại một phần
trách nhiệm bảo hiểm và phí bảo hiểm từ những công ty bảo hiểm khác. Hoạt
động kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm là một hoạt động rất quan
19
trọng đối với một công ty bảo hiểm, nhất là đối với một công ty bảo hiểm mới
ra đời hay một thị trường bảo hiểm đang ữong quá trình phát triển.
* Giám định tổn thất và giải quyết bồi thường:
Giám định tổn thất là nhiệm vụ, một khâu quan trong trong hoạt động
của doanh nghiệp bảo hiểm. Sau khi nhận được thông báo của người được
bảo hiểm về tai nạn rủi ro xảy ra, giấy yêu cầu giám định và các giấy tờ liên
quan khác, tuỳ vào nhận định ban đầu về mức độ của tổn thất xẩy ra, doanh
nghiệp bào hiểm cử giám định viên đến hiện trường hoặc trưng cầu giám định
(thuê bên thứ ba giám định) cùng các thành viên liên quan để xác định tính
chất, nguyên nhân, mức độ thiệt hại Điều quan trọng nhất của công tác giám
định là xác định nguyên nhân rủi ro có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không,

tồn thất thực tế là bao nhiêu
Sau khi nhận được biên bàn giám định và các giấy tờ liên quan khác từ
các giám định viên hoặc tồ chức giám định, doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành
xét và giài quyết bồi thường cho khách hàng. Việc xét bồi thường cũng cần
phải dựa trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm, điều kiện, điều khoản bảo hiểm mà
khách hàng đã mua bào hiểm. Xét và giải quyết bồi thường cần đảm bảo tính
minh bạch, nhanh chóng, hợp lý để đảm bào quyền lợi khách hàng, uy tín của
doanh nghiệp bảo hiểm.
* Hình thành và duy trì các khoản quỹ dự phòng:
Các doanh nghiệp bào hiểm không thể thanh toán tất cả mọi khiếu nại
trong kỳ từ khoản doanh thu thu được từ phí bảo hiểm và thu nhập khác (đầu
tư), bởi vì có sự khác biệt về thời gian giữa thời điểm nhận phí bảo hiểm và
thời điểm thanh toán bồi thường, do đó họ phải duy trì các khoản quỹ dự
phòng đế có thể sử dụng cho việc thanh toán các khiếu nại phát sinh sau đó.
Thông thường các doanh nghiệp phải lập ba quỹ dự phòng trong quá trình
hoạt động của mình đó là: Quỹ dự phòng phí bảo hiểm - dự phòng bồi thường
20
cho các dịch vụ đã phát sinh thu phí bảo hiểm nhưng chưa phát sinh bồi
thường), Quỹ dự phòng bồi thường - dự phòng bồi thường cho tổn thất đã
phát sinh nhưng chưa giải quyết bồi thường, Quỹ dự phòng bồi thường tổn
thất lớn - dự phòng bồi thường cho những tồn thất lớn mang tính chất thảm
hoạ.
* Đề phòng hạn chế tổn thất:
Doanh nghiệp bào hiểm không chi có trách nhiệm bồi thường tồn thất
thuộc phạm vi bảo hiểm do rủi ro bất ngờ xảy ra nhằm giúp người được bào
hiềm ổn định kinh tế, khôi phục sản xuất và đời sống mà còn tiến hành các
biện pháp đề phòng rủi ro và tồn thất trước và sau khi tai nạn xảy ra. Trong
khi phân tích các nguyên nhân tồn thất, doanh nghiệp có thể rút ra nhừng biện
pháp cần thiết để cùng khách hàng thực hiện nhằm tránh tổn thất xảy ra. Hoặc
trước khi chấp nhận bảo hiểm, doanh nghiệp phải đánh giá được mức độ rủi

ro, khuyến cáo khách hàng các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro. Doanh
nghiệp bào hiểm cùng dùng một phần kinh phí hoạt động của mình, trang bị,
tập huấn trang thiết bị để khách hàng hạn chế phòng ngừa tổn thất nhằm
bào đảm lợi ích chung cùa doanh nghiệp bào hiểm và khách hàng tham gia
bảo hiểm.
* Quản lý quỷ và đầu tư vốn nhàn rỗi:
Mục đích của doanh nghiệp bảo hiểm là lợi nhuận. Do đó quản lý quỹ và
đầu tư vốn là hết sức quan trọng, vì trong quá trình hoạt động kinh doanh khai
thác bảo hiểm, giám định bồi thường, lập các quỳ dự phòng doanh nghiệp
bào hiểm luôn có những khoản phí bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi và được tích tụ
ngày một lớn trong quá trình hoạt động. Do vậy, doanh nghiệp phải có chính
sách đầu tư thích hợp thì khoản tiền này sẽ cho phép họ tăng thêm được thu
nhập mà vẫn đảm bảo khả năng thanh toán khi có tổn thất xẩy ra. Tuỳ vào quy
mô, khà năng tài chính của mồi doanh nghiệp mà chính sách đầu tư, phân bổ
21

×