1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
NGUYỄN VIỆT HÀ
QUẢN LÝ NỢ THUẾ VÀ CƢỠNG CHẾ THUẾ
TẠI ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH –
TP HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Hà Nội – 2010
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
NGUYỄN VIỆT HÀ
QUẢN LÝ NỢ THUẾ VÀ CƢỠNG CHẾ THUẾ
TẠI ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH –
TP HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh
Mã số: 60 34 05
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG VĂN BẰNG
Hà Nội – 2010
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Quản lý nợ thuế và cƣỡng chế thuế tại địa bàn
huyện Đông Anh – TP Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu trong
luận văn này chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2010
Tác giả luận văn
Nguyễn Việt Hà
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC HỘP
MỞ ĐẦU 7
Chƣơng 1: Tổng quan về quản lý nợ thuế và cƣỡng chế thuế 10
1.1. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ thuế. 10
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nợ thuế. 10
1.1.2. Các hình thức nợ thuế và điều kiện xuất hiện hành vi nợ thuế. 13
1.1.3. Hậu quả nợ thuế và vai trò của việc quản lý nợ thuế. 18
1.2. Một số vấn đề về cƣỡng chế thuế. 20
1.2.1. Khái niệm cưỡng chế thuế 20
1.2.2. Đặc điểm của cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế 21
1.2.3. Các trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế 22
1.2.4. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. . 23
1.2.5. Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. 24
1.2.6. Vai trò của cưỡng chế thuế. 25
1.3. Kinh nghiệm quản lý nợ thuế của một số nƣớc trên thế giới và bài học áp dụng
cho Việt Nam. 26
1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản. 26
1.3.2. Biện pháp thu nợ của Hàn Quốc. 27
1.3.3. Biện pháp thu nợ của Australia. 28
1.3.4. Một số kinh nghiệm vận dụng vào công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế ở
Việt Nam. 33
2
Chƣơng 2: Đánh giá thực trạng công tác quản lý nợ thuế và cƣỡng chế thuế tại
huyện Đông Anh. 36
2.1. Tình hình thực hiện công tác quản lý nợ thuế và cƣỡng chế thuế tại địa bàn
huyện Đông Anh. 36
2.1.1. Thực trạng nợ thuế tại địa bàn huyện Đông Anh trong giai đoạn 2004 – 2008 36
2.1.2. Thực trạng công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế tại địa bàn huyện Đông
Anh. 48
2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý nợ thuế và cƣỡng chế thuế ở huyện
Đông Anh. 56
2.2.1. Những mặt tích cực. 56
2.2.2 Tồn tại và những vấn đề đặt ra trong quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế. 58
Chƣơng 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cƣờng công tác quản lý nợ thuế và
cƣỡng chế thuế tại huyện Đông Anh. 67
3.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội trong nƣớc tác động đến công tác quản lý nợ thuế và
cƣỡng chế thuế. 67
3.2. Quan điểm, mục tiêu về quản lý nợ thuế và cƣỡng chế thuế. 68
3.2.1. Quan điểm về quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế. 68
3.2.2. Yêu cầu của công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế. 72
3.2.3. Các thước đo kết quả quản lý, đôn đốc thu nợ. 74
3.3. Các giải pháp và kiến nghị tăng cƣờng công tác quản lý nợ thuế và cƣỡng chế
thuế. 74
3.3.1. Đổi mới và hoàn thiện chính sách thuế theo hướng giảm nhẹ mức nộp thuế, tăng
cường giãn thuế. 74
3.3.2. Đổi mới và tăng cường quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế tại chi cục. 77
3.3.3. Về công nghệ quản lý thuế. 80
3.3.4. Tăng cường cưỡng chế thuế bằng các hình thức thích hợp. 81
3.3.5. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thuế. 82
3
3.3.6. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục đối với đối tượng nộp thuế. 83
3.4. Điều kiện để thực hiện các giải pháp. 84
3.4.1. Đối với Đảng và Nhà nước. 84
3.4.2. Đối với Bộ tài chính. 84
3.4.3. Đối với Tổng cục thuế. 84
3.4.4. Đối với Cục thuế TP Hà Nội. 85
3.4.5. Đối với Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, UBND huyện Đông Anh. 86
3.4.6. Đối với Chi cục huyện Đông Anh. 86
3.4.7. Đối với người nộp thuế. 88
3.4.8. Đối với các cơ quan, ban, ngành có liên quan. 88
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Nguyên nghĩa
1
NSNN
Ngân sách Nhà nước
2
ĐTNT
Đối tượng nộp thuế
3
QLN
Quản lý nợ thuế
4
TP
Thành phố
5
NQD
Ngoài quốc doanh
6
GTGT
Giá trị gia tăng
7
TNDN
Thu nhập doanh nghiệp
8
NN
Nông nghiệp
9
WTO
Tổ chức thương mại quốc tế
10
QĐ
Quyết định
11
TCT
Tổng cục thuế
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
Nội dung
Trang
1
Bảng 1.1
Phân loại nợ theo số thuế nợ tại Australia
23
2
Bảng 2.1
Kết quả thu NSNN giai đoạn 2005 - 2009
31
3
Bảng 2.2
Tổng hợp nợ thuế giai đoạn 2005 – 2009
32
4
Bảng 2.3
Cơ cấu nợ thuế giai đoạn 2005 – 2009
33
5
Bảng 2.4
Cơ cấu tỷ lệ nợ thuế giai đoạn 200 – 2009
33
6
Bảng 2.5
Tổng hợp số ĐTNT giai đoạn 2005 - 2009
35
7
Bảng 2.6
Nợ thuế NQD theo sắc thuế giai đoạn
2005 – 2009
36
8
Bảng 2.7
Tỷ lệ nợ thuế NQD theo sắc thuế giai đoạn
2005 – 2009
36
9
Bảng 2.8
Nợ thuế theo hình thức nợ thuế
39
10
Bảng 2.9
Tỷ lệ nợ thuế theo hình thức nợ thuế
39
11
Bảng 2.10
Kết quả thu nợ đọng thuế giai đoạn
2005 - 2009
44
12
Bảng 2.11
Kết quả thu nợ thuế sau 1 năm thực hiện
Luật quản lý thuế
45
6
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
STT
Tên bảng
Nội dung
Trang
1
Hình 2.1
Biểu đồ cơ cấu nợ thuế theo khu vực giai đoạn
2005 - 2009
34
2
Hình 2.2
Biểu đồ nợ thuế NQD theo sắc thuế giai đoạn
2005 – 2009
36
3
Hình 2.3
Biểu đồ nợ thuế theo hình thức nợ thuế
40
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế là một khâu quan trọng trong hệ thống quản lý
thuế, là một chức năng chính của mô hình quản lý thuế trong cơ chế tự khai – tự nộp
thuế. Mô hình này có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật
thuế của đối tượng nộp thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời tiền thuế cho Ngân
sách Nhà nước (NSNN) nhằm chống thất thu thuế, đảm bảo công bằng giữa các đối
tượng nộp thuế (ĐTNT) trong việc thu nộp thuế. Quản lý được nợ đọng thuế và kết quả
đem lại từ việc đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế là một trong những thước đo cơ bản để
đánh giá chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý thuế.
Việc triển khai thực hiện Luật quản lý thuế đã tạo cơ sở pháp lý để đổi mới công
tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế; ngược lại việc quản lý tốt nợ đọng thuế và cưỡng
chế thuế lại có tác động sâu sắc tới công tác quản lý thuế, tạo sự chuyển động mạnh mẽ
cả từ phía đối tượng nộp thuế và cơ quan quản lý thuế nói chung.
Trong hoạt động thực tiễn, cùng với việc triển khai thực hiện Luật Quản lý thuế,
ngành thuế phải chuyển đổi và kiện toàn hệ thống bộ máy quản lý thuế theo mô hình
chức năng, bao gồm: tuyên truyền – hỗ trợ người nộp thuế (NTT); quản lý kê khai – kế
toán thuế; quản lý nợ và cưỡng chế thuế; thanh tra, kiểm tra ĐTNT và kiểm tra nội bộ,
trong đó quản lý nợ và cưỡng chế thuế là một trong những chức năng chính và cơ bản
xuyên suốt trong quá trình quản lý thuế.
Bộ máy Quản lý nợ và cưỡng chế thuế được hình thành theo hệ thống từ cấp Tổng
cục thuế đến cấp Cục và Chi cục thuế. Với bộ máy hiện tại, với các điều kiện pháp lý,
trên cơ sở triển khai mạnh mẽ ứng dụng công nghệ tin học thì bước đầu công tác quản lý
nợ và cưỡng chế thuế đã đáp ứng được nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, do cơ chế chính sách còn chưa đồng bộ, cơ chế quản lý chưa đáp ứng
được yêu cầu, một bộ phận cán bộ thuế trình độ còn hạn chế và ý thức của một số người
nộp thuế chưa cao nên số nợ đọng thuế vẫn còn lớn, nhiều khoản nợ thuế tồn tại nhiều
năm không có khả năng thu, nhiều đối tượng có nợ thuế đã không còn tồn tại do bị giải
thế, mất tích … gây thất thu lớn cho NSNN.
Trong bối cảnh chung của cả nước, Đông Anh là một huyện của Hà Nội, cũng
đang triển khai công tác quản lý thuế nói chung, trong đó có công tác quản lý nợ thuế và
cưỡng chế thuế. Trong những năm qua công tác quản lý nợ thuế ở Đông Anh cũng đem
lại nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, thực tiễn quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế ở Chi
cục thuế huyện Đông Anh còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Tình trạng nợ đọng thuế
8
vẫn diễn ra nhiều, số huế nợ đọng ngày càng tăng cao, đặc biệt là việc xử lý các khoản nợ
ảo, nợ không chính xác do nhầm lẫn tiến độ triển khai rất chậm … dẫn đến tình trạng trốn
thuế, chiếm dụng tiền thuế vẫn diễn ra phổ biến, gây thất thu lớn cho NSNN.
Do đó việc tìm kiếm giải pháp nhằm hỗ trợ, tăng cường công tác quản lý nợ thuế
và cưỡng chế thuế ở Chi cục thuế Đông Anh là vấn đề mang tính thời sự và cấp bách ở
TP Hà Nội hiện nay.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế
tại địa bàn huyện Đông Anh – TP Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Hiện nay đã có nhiều báo cáo, công trình nghiên cứu về đề tài trên nhưng chủ yếu do các
đơn vị, cơ quan của Tổng cục thuế thực hiện. Do vậy tính khách quan cũng như lý luận
chưa được cao.
Vì vậy tác giả mong muốn được đóng góp thêm những công sức của mình trong công tác
quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế đối với huyện Đông Anh nói riêng và cả nước nói
chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác quản
lý nợ thuế và cưỡng chế trên địa bàn huyện Đông Anh, Luận văn nhằm tập trung giải
quyết các vấn đề sau đây:
- Bổ sung, hoàn thiện lý luận về công tác quản lý nợ và cưỡng chế thuế, những
hình thức, động cơ và thủ đoạn nợ thuế của người nộp thuế gây thất thu NSNN và những
biện pháp cưỡng chế của cơ quan quản lý thuế đối với những trường hợp không nộp nợ
thuế.
- Phân tích thự trạng công tác quản lý nợ và cưỡng chế thuế tại địa bàn huyện
Đông Anh, những ảnh hưởng của việc nợ đọng tiền thuế đến môi trường kinh doanh và
Ngân sách huyện Đông Anh.
- Trên cơ sở nghiên cứu các biện pháp quản lý nợ thuế của một số nước trên thế
giới kết hợp khả năng thực tiễn ở Đông Anh để đề xuất những định hướng và giải pháp
nhằm giúp cho công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế trên địa bàn huyện Đông Anh
đạt hiệu quả cao.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
9
Nội dung đề tài tập trung đi sâu vào các vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác quản lý
nợ thuế và cưỡng chế thuế đối với các tổ chức và cá nhân kinh doanh tại địa bàn huyện
Đông Anh và do Chi cục thuế Đông Anh quản lý.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu kết hợp với khảo sát thực tế tại Chi cục thuế
Đông Anh.
- Phương pháp thống kê, phương pháp mô tả - khái quát, phương pháp diễn giải –
quy nạp.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp đối chiếu – so sánh.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn.
Qua những nghiên cứu về tổng hợp các lý luận cơ bản về công tác quản lý nợ thuế
và cưỡng chế thuế cũng như nêu được cơ sở của việc nợ thuế, nguyên nhân và hậu quả
của việc nợ thuế; luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện lý luận về việc sử dụng chính
sách và các biện pháp quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế.
Qua khảo sát thực trạng của công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế, những việc làm
được và chưa làm được; luận văn đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế tại Đông Anh.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 03 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về nợ thuế và cưỡng chế thuế.
Chƣơng 2: Đánh giá thực trạng công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế tại huyện
Đông Anh.
Chƣơng 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác quản lý nợ thuế và cưỡng
chế thuế tại huyện Đông Anh.
10
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ NỢ THUẾ VÀ CƢỠNG CHẾ THUẾ
1.1. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ thuế
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nợ thuế.
1.1.1.1. Khái niệm.
Thuế ra đời là cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của
Nhà nước. Khi Nhà nước xuất hiện, để đảm bảo sự tồn tại và hoạt động của mình, Nhà
nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để tập trung một bộ phận của cải trong xã hội
vào tay Nhà nước nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Việc huy động, tập
trung nguồn của cải đó có thể được thực hiện bằng các cách khác nhau, trong đó có hình
thức đóng góp bắt buộc được gọi là thuế.
“Thuế là khoản đóng góp mang tính bắt buộc đối với các doanh nghiệp và mọi
công dân có hoạt động kinh doanh hoặc có những điều kiện vật chất nhất định vào ngân
sách Nhà nước (NSNN), do cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước quy định, nhằm đáp
ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước” (Nguồn: Giáo trình Pháp luật kinh tế)
Một trong những đặc trưng quan trọng của thuế là mang tính pháp lý cao. Mỗi
khoản thuế phát sinh được xác định trên cơ sở thu nhập của người nộp thuế và sẽ trở
thành khoản nộp bắt buộc mà người nộp thuế phải có nghĩa vụ chuyển giao cho Nhà
nước. Tuy nhiên, trong thực tiễn do những lý do nào đó, người nộp thuế chưa nộp hoặc
không nộp thuế cho Nhà nước theo thời hạn quy định, hình thành một khoản nợ thuế.
“Vậy nợ thuế là số tiền được xác định phải nộp vào Ngân sách Nhà nước nhưng đã
quá thời hạn nộp theo quy định của pháp luật mà chưa nộp vào Ngân sách Nhà nước.”
(Nguồn: Giáo trình Pháp luật kinh tế)
Người nợ thuế là các tổ chức, cá nhân còn nợ các loại thuế, phí, lệ phí và các
khoản phải nộp khác theo quy định tại văn bản quy phạm pháp luật.
Mức nợ thuế là số tiền thuế còn nợ của người nợ thuế tại một thời điểm, ở một
ngưỡng nào đó khi phân loại nợ.
11
Để đảm bảo tuân thủ nghĩa vụ thuế, thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật về thuế,
Nhà nước quy định những hành vi nợ thuế phải nộp phạt một khoản tiền do chậm nộp
thuế, gọi là tiền phạt chậm nộp thuế.
Tiền phạt chậm nộp thuế là khoản tiền phạt được tính trên số tiền thuế nợ và số
ngày nợ thuế của một khoản nợ. Số ngày nợ thuế của một khoản nợ là khoảng thời gian
liên tục tính theo ngày kể từ thời điểm bắt đầu tính nợ đến thời điểm số tiền nợ đó được
nộp vào NSNN, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ theo Bộ luật lao động.
Để hiểu rõ hơn nữa bản chất của nợ thuế, cần thiết phải nghiên cứu các đặc điểm
của nợ thuế.
1.1.1.2. Đặc điểm của nợ thuế.
Nợ thuế là một hành vi tâm lý phổ biến.
Như chúng ta biết, thuế là một hình thức phân phối thu nhập có tính chất bắt buộc,
mà người có nghĩa vụ phải nộp cho nhà nước. Rõ ràng, hành vi nộp thuế luôn luôn ảnh
hưởng đến lợi ích kinh tế của người nộp thuế. Vì thế, ở Việt Nam cũng như các nước
khác trên thế giới, người nộp thuế luôn luôn có xu hướng trốn hoặc tránh thuế. Đặc biệt
trong điều kiện như Việt Nam, khi mà nhận thức xã hội về thuế còn thấp, đại bộ phận
người dân chưa hiểu rõ bản chất tốt đẹp và lợi ích của công tác thuế, chưa phê phán, lên
án mạnh mẽ các hành vi gian lận tiền thuế, chưa hỗ trợ tích cực cho cơ quan thuế để thu
thuế. Tình trạng trốn thuế, gian lận về thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến vừa làm thất
thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa không đảm bảo công bằng xã hội. Hay nói cách khác
họ tìm mọi cách để tối thiểu hóa số thuế mà đối tượng phải nộp. Một trong những cách đó
là họ tìm cách nợ thuế.
Vì thế, để hạn chế nợ thuế bên cạnh những biện pháp có tính chất luật pháp để
cưỡng chế người nộp thuế tuân thủ thì vấn đề tuyên truyền phổ biến để người nộp thuế tự
giác thực hiện có ý nghĩa rất quan trọng.
Nợ thuế là hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
12
Quy phạm pháp luật về thuế bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình các chủ thể thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN.
Quy phạm pháp luật thuế là các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do Nhà nước
đặt ra và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
các chủ thể thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN.
Trong các quy định của Pháp luật về thuế luôn luôn đề cập đến các phạm vi điều
chỉnh như: mức nộp thuế, đối tượng nộp thuế, người nộp thuế và thời gian phải nộp thuế.
Như vậy, nợ thuế là hành vi vi phạm luật thuế của đối tượng nộp thuế bằng cách
chậm nộp hoặc không nộp số tiền thuế phải nộp vào NSNN theo quy định của pháp luật
thuế.
Ttrong luật Quản lý thuế quy định mức xử phạt vi phạm về hành vi chậm nộp tiền
thuế, tiền phạt là phạt 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đó.
Nợ thuế chưa hẳn là hành vi trốn thuế.
Hành vi trốn thuế bao gồm chậm nộp tiền thuế và không nộp tiền thuế.
Trốn thuế là hành vi cố ý vi phạm luật thuế của đối tượng nộp thuế bằng mọi hình
thức thủ đoạn để làm giảm số thuế phải nộp cho Nhà nước.
Nợ thuế có thể do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan.
Về chủ quan: do người nộp thuế cố tình vi phạm nhằm chậm nộp tiền thuế vào
NSNN để lợi dụng hoặc trốn thuế.
Như vậy, trong trường hợp này nợ thuế là hành vi vi phạm pháp luật, phát sinh do
đối tượng nộp thuế không tự giác kê khai, nộp thuế và cố tình vi phạm pháp luật.
Về khách quan: do có khó khăn về sản xuất hoặc thu nhập chẳng hạn như khủng
hoảng kinh tế, lạm phát, mà người nộp thuế tạm thời thiếu tiền nộp thuế.
Nợ thuế khác với hành vi tránh thuế.
13
Tránh thuế là hành vi lợi dụng những sơ hở của luật pháp để giảm được một phần
nghĩa vụ thuế phải nộp. Ví dụ: doanh nghiệp kê khai chi phí thuê bản quyền sáng chế,
nhãn mác cao hơn giá trị thị trường của nó để tăng chi phí hạ thấp thu nhập chịu thuế.
Còn nợ thuế thì hoàn toàn khác về bản chất, đó là một nghĩa vụ đã được luật pháp
xác định nhưng cố tình hoặc dây dưa nộp chậm.
1.1.2. Các hình thức nợ thuế và điều kiện xuất hiện hành vi nợ thuế.
1.1.2.1. Các hình thức nợ thuế.
Căn cứ thông tin kê khai thuế, tài liệu, hồ sơ về người nộp thuế đã thu thập được,
thông tin về người nợ thuế, số tiền nợ thuế từ bộ phận kê khai và kế toán thuế (phòng,
đội) chuyển sang, công chắc quản lý nợ tiến hành phân loại nợ thuế theo các tiêu thức:
- Nợ khó thu
- Nợ chờ xử lý
- Nợ có khả năng thu
Phân loại nợ thuế nhằm xác định được nguyên nhân, tình trạng, tuổi nợ của từng
khoản nợ thuế, qua đó có thể áp dụng các biện pháp quản lý nợ thuế có hiệu quả. Căn cứ
vào khả năng thu hồi tiền nợ thuế dựa trên những thông tin về người nợ thuế theo các tiêu
thức đã phân tích, công chức được phân công theo dõi quản lý nợ tiến hành phân loại nợ
như sau:
Nhóm nợ khó thu
Bao gồm các khoản nợ thuộc các trường hợp sau:
- Người nợ thuế lâm vào tình trạng giải thể, phá sản: Là số tiền thuế nợ của
người nợ thuế tự giải thể, phá sản nhưng không làm các thủ tục, trình tự giải
thể phá sản đúng pháp luật nên chưa có đủ căn cứ pháp lý để xử lý theo quy
định của pháp luật.
- Người nợ thuế “bỏ trốn”, “mất tích”: Là số tiền nợ thuế của người nộp thuế đã
được cơ quan thuế hoặc cơ quan chức năng xác định là “bỏ trốn”, “mất tích”.
14
- Người nợ thuế bị khởi tố: Là số tiền thuế nợ của người nợ thuế đang trong giai
đoạn bị điều tra, khởi tố hình sự hoặc đang chờ bản án hoặc kết luận của cơ
quan pháp luật nên chưa thực hiện được nghĩa vụ nộp thuế.
- Nợ của người nợ thuế ngừng và tạm ngừng hoạt động kinh doanh: Là số tiền
nợ thuế của người nợ thuế đã có thông báo bằng văn bản cho cơ quan thuế về
việc ngừng hoặc tạm ngừng kinh doanh hoặc do cơ quan thuế kiểm tra xác
định là đã ngừng hoặc tạm ngừng hoạt động kinh doanh.
- Nợ đang chờ giải quyết theo Luật phá sản: Là số tiền thuế nợ của người nợ
thuế đã có quyết định phá sản doanh nghiệp hoặc đang trong thời gian làm thủ
tục phá sản doanh nghiệp (DN) nhưng chưa làm các thủ tục xử lý nợ theo quy
định pháp luật.
Nhóm nợ chờ xử lý:
Bao gồm các khoản nợ thuộc các trường hợp sau:
- Nợ đang chờ điều chỉnh.
+ Nợ điều chỉnh do sai sót: Là số tiền nợ thuế của người nợ thuế do người nợ
thuế hoặc cơ quan thuế có sai sót khi keek hai thuế, tính thuế, đang làm thủ tục
để điều chỉnh lại;
+ Nợ điều chỉnh do tạm tính số thuế phải nộp cao hơn số phát sinh: Là số tiền
nợ thuế của người nợ thuế do người nợ thuế đã kê khai số thuế tạm nộp hàng
kỳ theo quy định nhưng thực tế thuế phát sinh phải nộp thấp hơn so với số thuế
đã kê khai tạm nộp, đang làm thủ tục để điều chỉnh lại.
+ Nợ do chứng từ luân chuyển chậm hoặc thất lạc: Là số tiền thuế của người
nợ thuế đã nộp vào tài khoản thu Ngân sách Nhà nước nhưng do chứng từ luân
chuyển chưa kịp thời hoặc thất lạc nên trên sổ thuế vẫn ghi nợ.
+ Nợ chờ điều chỉnh do có khiếu nại: Là số tiền nợ thuế phát sinh do cơ quan
thuế xác định lại số thuế phải nộp hoặc ấn định tiền thuế phải nộp trong trưngf
hợp người nộp thuế vi phạm các quy định về thuế, phải ấn định thuế; phát hiện
qua thanh tra, kiểm tra bị truy thu, truy hoàn, bị xử phạt hoặc các trường hợp
15
khác nhưng người nộp thuế chưa chấp nhận, có khiếu nại và đang trong giai
đoạn giải quyết khiếu nại.
- Nợ đang xử lý miễn, giảm, xóa nợ: Là số tiền nợ thuế của người nợ thuế đang
trong thời gian làm các thủ tục tại cơ quan thuế để được xử lý miễn, giảm, xóa
nợ theo quy định của pháp luật về thuế (bao gồm cả các trường hợp đang làm
thủ tục xử lý miễn, giảm đang áp dụng các điều khoản miễn, giảm theo Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần); Cá nhân được cơ quan pháp luật coi là đã chết,
mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không còn tài sản để nộp tiền thuế,
tiền phạt còn nợ; Nợ của người nợ thuế bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các
khoản thanh toán theo quy định của luật phá sản mà không còn tài sản để nộp
tiền thuế, tiền phạt.
- Nợ được gia hạn nợ, khoanh nợ, giãn nợ: Là số tiền nợ thuế của người nợ thuế
đã được cơ quan thuế gian hạn nợ, khoanh nợ, giãn nợ theo quy định của pháp
luật.
- Nợ chờ xử lý bù trờ với tiền hoàn thuế: Là số tiền nợ thuế của người nợ thuế có
hồ sơ đang làm thủ tục hoàn thuế tại cơ quan thuế tương ứng với số tiền thuế
đề nghị hoàn thuế theo quy định.
Nhóm nợ có khả năng thu.
Là số tiền nợ thuế của người nợ thuế được xác định phải nộp vào Ngân sách Nhà
nước nhưng đã hết hạn nộp theo quy định của pháp luật về thuế mà chưa nộp vào Ngân
sách Nhà nước và không thuộc các trường hợp nợ thuộc hai nhóm nợ khó thu, nợ chờ xử
lý nêu trên.
Số nợ thuế có khả năng thu được phân loại như sau:
- Nợ thuế chậm nộp dưới 30 ngày
- Nợ thuế chậm nộp từ 30 đến 90 ngày
- Nợ thuế quá 90 ngày
1.1.2.2. Những điều kiện làm xuất hiện hành vi nợ thuế
16
Từ sự phân tích nói trên ta có thể thấy rằng, nợ thuế là tình trạng phổ biến ở Việt
Nam, nó xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Cụ thể:
Do cơ chế chính sách thuế hiện hành
Do cơ chế chính sách thuế có thể làm cho gánh nặng thuế quá cao vượt quá sức
chịu đựng của người nộp thuế trong phạm vi khả năng nộp thuế của mình, khiến cho
người nộp thuế tìm mọi cách để trốn thuế, hoặc họ không có đủ khả năng để nộp thuế nên
phải nợ thuế.
Trong thực tế, do mức thuế cao mà nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tình
hình tài chính, sản xuất kinh doanh thua lỗ nhiều năm dẫn đến nợ thuế kéo dài.
Do cơ chế quản lý
Do cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây để lại. Người nộp thuế từ trước đã
quen với việc đôn đốc, ra thông báo thuế hàng tháng và cứ đến khi có thông báo nộp
thuế, có thúc giục, đôn đốc của cơ quan thuế thì người nộp thuế mới đi nộp thuế. Vì vậy
khi chuyển sang cơ chế tự khai tự nộp, người nộp thuế chưa hình thành thói quen cho
người nộp thuế trong việc tự giác nộp thuế vào NSNN.
Do cách quản lý lỏng lẻo, việc thực hiện Luật thuế chưa nghiêm (cơ quan thuế
chưa tính phạt chậm nộp tiền thuế ngay nên DN lợi dụng để chiếm dụng tiền thuế trong
một thời gian để thực hiện đầu tư kinh doanh).
Một thời gian dài chúng ta chưa coi trọng việc tuyên truyền giáo dục, cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ chất lượng cao để nâng cao sự hiểu biết, tự giác tuân thủ pháp luật của đối
tượng nộp thuế. Hiện nay chúng ta mới bước đầu thực hiện tuyên truyển rộng rãi, tuy
nhiên còn chưa thực sự hiệu quả.
Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp thậm chí còn chưa phù hợp với các
chuẩn mực quản lý thuế tiên tiến trên khu vực và thế giới.
Cơ chế tự khai, tự nộp quá dễ dàng đối với NNT, chưa có thanh tra, kiểm tra, chưa
có thúc giục của cơ quan thuế nên NNT chưa nộp.
17
Môi trường kinh tế xã hội chưa được cải cách đồng bộ, chưa tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác quản lý thuế như quản lý thanh toán bằng tiền mặt. Đó cũng là một vấn
đề cần quan tâm hiện nay. Nhà nước ta đang chưa có cơ chế quản lý việc thanh toán bằng
tiền mặt và mới đang bước đầu thực hiện thanh toán qua tài khoản đối với cán bộ công
chức, các doanh nghiệp cần khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) và đơn vị xuất
nhập khẩu. Trong khi đó luật quy định có quyền cưỡng chế thuế thông qua việc trừ vào
tài khoản của người nộp thuế. Do vậy việc kiểm soát được tài khoản của người dân vẫn
còn là một thách thức lớn đối với cơ quan thuế.
Mặt khác, công tác dự báo thị trường của Nhà nước và DN chưa chính xác, kịp
thời dẫn đến rủi ro cao, nhiều đơn vị thua lỗ khó có khả năng thanh toán nợ
Do công nghệ quản lý:
Việc triển khai áp dụng phần mềm quản lý nợ chưa thực sự hiệu quả. Bước đầu
mới chỉ áp dụng phần mềm hỗ trợ đến cấp Cục thuế, chưa triển khai áp dụng cấp Chi cục
nên công tác quản lý nợ chủ yếu còn mang tính chất thủ công, mất nhiều thời gian và
công sức.
Do đội ngũ cán bộ thuế:
Đại bộ phận cán bộ thuế chưa cso kỹ năng, chuyên sâu, chuyên nghiệp, khả năng
ứng dụng các tiến bộ công nghệ tin học vào quản lý thuế chưa phù hợp với yêu cầu quản
lý thuế hiện đại và yêu cầu cải cách hành chính thuế, thậm chí một bộ phận cán bộ quản
lý thuế chưa nắm vững và thực hiện tốt các chính sách thuế và quy trình biện pháp nghiệp
vụ quản lý thuế nói chung và nghiệp vụ quản lý nợ thuế nói riêng.
Do ý thức của người nộp thuế:
Nhận thức xã hội về thuế còn thấp, đại bộ phận người dân chưa hiểu rõ bàn chất
tốt đẹp và lợi ích của công tác thuế, chưa phê phán, lên án mạnh mẽ các hành vi gian lận
tiền thuế, chưa hỗ trợ tích cực cho cơ quan thuế để thu thuế. Tình trạng trốn thuế, gian lận
về thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến vừa làm thất thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa
không đảm bảo công bằng xã hội.
18
Do ý thức chấp hành pháp luật thuế của NNT còn hạn chế nên chưa tự giác đi nộp
thuế, chưa chấp hành nộp thuế theo thông báo nợ của cơ quan thuế, một số đối tượng cố
tình chây ỳ tiền thuế, không nộp tiền thuế vào NSNN.
Do điều kiện khách quan:
Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, lạm phát, giá cả tăng cao, lãi suất ngân
hàng cao hơn cả tỷ lệ phạt nộp chậm tiền thuế nên NNT thà bị phạt nộp chậm tiền thuế
còn hơn là phải đi vay với lãi suất cao hơn. Chính vì vậy mà số doanh nghiệp chiếm dụng
tiền thuế, không nộp vào NSNN có xu hướng tăng thêm.
1.1.3. Hậu quả nợ thuế và vai trò của việc quản lý nợ thuế (QLN)
1.1.3.1. Hậu quả của việc nợ thuế:
Nợ thuế có thể gây nhiều hậu quả nghiêm trọng về kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, nợ thuế gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước.
Như chúng ta biết, thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Xuất phát từ chức năng
cơ bản của thuế là chức năng huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước. Để đảm bảo
nguồn thu, Nhà nước phải dùng quyền lực của mình thông qua pháp luật quy định nguồn
thu của NSNN (trong đó có thuế), quy định mức độ thu NSNN hàng năm, quy định nghĩa
vụ của các chủ thể trong việc đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Do vậy việc nợ thuế sẽ gây
thất thu lớn cho NSNN. Đối với những khoản nợ thuế trong thời gian ngắn, trước mắt sẽ
làm Nhà nước thiếu hụt một lượng tài chính nhất định để giúp cho bộ máy Nhà nước
được hoạt động trôi chảy, bình thường. Đối với những khoản nợ thuế dây dưa, khó đòi thì
đòi hỏi Nhà nước cần phải có những hoạch định chiến lược lâu dài để bù đắp khoản nợ
đó, khi đó Nhà nước cần phải sử dụng đến các biện pháp như khoanh nợ, giãn nợ thậm
chí là xóa nợ và điều đó sẽ làm thất thu NSNN. Vì vậy dù là nợ thuế trong ngắn hạn hoặc
nợ lâu dài thì cũng gây thất thu lớn cho NSNN.
Thứ hai, nợ thuế còn gấy mất công bằng về nghĩa vụ thuế và tạo môi trường kinh
doanh không bình đẳng giữa các tổ chức và cá nhân đang kinh doanh trong việc thực hiện
nghĩa vụ thuế.
19
Những tổ chức, cá nhân nợ thuế đã tạo ra sự mất công bằng về nghĩa vụ thuế với
những tổ chức, cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ thuế. Giả sử cũng một tổ chức, cá nhân có
quy mô kinh doanh như nhau, ngành nghề kinh doanh như nhau, lợi nhuận kinh doanh
trước thuế là như nhau, khi đó đối với những tổ chức, cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ thuế,
sau khi tiến hành xong hoạt động sản xuất kinh doanh, họ phải nộp một khoản thuế nhất
định cho Nhà nước, làm lợi nhuận sau thuế của họ sẽ bị giảm một phần. Còn đối với
những tổ chức, cá nhân nợ thuế, sau khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh xong,
họ chậm nộp hoặc không nộp thuế cho Nhà nước, khi đó lợi nhuận sau thuế của họ không
hề thay đổi, thậm chí còn sinh lời nhiều hơn vì khoản tiền đáng lẽ ra họ phải nộp thuế cho
Nhà nước nay họ chiếm dụng và sử dụng chúng vào mục đích khác. Do đó gây mất công
bằng giữa những người nộp thuế, tạo “sân chơi” không bình đẳng giữa những người nộp
thuế với nhau.
Thứ ba, nợ thuế đã tạo ra chi phí không cần thiết đối với xã hội có liên quan đến
công tác quản lý thuế, gây mất thời gian, công sức, tiền của cho việc quản lý nợ thuế và
cưỡng chế thuế.
Khi xuất hiện các khoản nợ thuế, đòi hỏi Nhà nước phải có một bộ phận chuyên
đảm nhận chức năng quản lý các khoản nợ thuế đó. Hơn nữa những khoản nợ thuế này
được nợ từ nhiều nguồn khác nhau, từ nhiều sắc thuế khác, từ nhiều nguyên nhân khác
nhau và biện pháp thu hồi cũng khác nhau do vậy việc quản lý những khoản nợ này rất
phức tạp, đòi hỏi tốn kém về thời gian, tiền của và nhân lực.
1.1.3.2. Vai trò của quản lý nợ thuế:
Vấn đề quản lý nợ thuế có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng và
hiệu quả công tác quản lý thuế của cơ quan thuế. Nếu số thuế nợ đọng của cơ quan thuế
nhiều, điều đó chứng tỏ công tác quản lý thuế nói chung và quản lý nợ đọng nói riêng
chưa tốt.
Nợ đọng thuế cũng phản ánh và thể hiện tình hình phát triển kinh tế hiện tại của
quốc gia đó, địa phương đó. Chẳng hạn như nền kinh tế khó khăn, các doanh nghiệp buộc
20
phải nợ thuế, nên tỷ lệ nợ đọng thuế sẽ cao. Khi nền kinh tế phát triển bình thường, mọi
khâu của quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra trôi chảy, doanh nghiệp làm ăn có lãi, có
thu nhập, có tiền để nộp thuế, khi đó số thuế nợ đọng sẽ thấp.
Quản lý nợ thuế còn có vai trò quan trọng để nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật
của người nộp thuế, thể hiện sức mạnh kinh tế của Nhà nước đó, của quốc gia đó. Nó thể
hiện ở kết quả thu nợ được nhiều hay ít, các biện pháp thu nợ mạnh hay yếu, có hiệu quả
hay không.
Quản lý nợ thuế nhằm đảm bảo đối tượng nộp thuế nộp đủ các khoản nợ thuế vào
NSNN, góp phần hạn chế các tội phạm kinh tế nhằm chống thất thu cho Ngân sách quốc
gia. Đồng thời nó còn góp phần đảm bảo công bằng xã hội giữa những người nộp thuế.
1.2. Một số vấn đề về cƣỡng chế thuế.
1.2.1. Khái niệm cƣỡng chế thuế.
Phạm trù cưỡng chế thường ám chỉ những tổ chức và cá nhân dựa vào quyền lực
của mình dùng các biện pháp cần thiết để buộc các đối tượng khác phải thực hiện đúng
quy định và mệnh lệnh của mình.
Như vậy, cưỡng chế thuế là việc Nhà nước dùng các biện pháp cần thiết để buộc
người nộp thuế đã quá thời hạn tự giác chấp hành, quá thời hạn hoãn chấp hành quyết
định hành chính thuế mà không chấp hành quyết định hành chính thuế, không khắc phụ
hậu quả, nộp tiền thuế, tiền phạt vào Ngân sách Nhà nước hoặc có hành vi phát tán tài
sản, bỏ trốn.
Quyết định hành chính thuế bị cưỡng chế thi hành bao gồm: thông báo tiền thuế
nợ và tiền phạt; thông báo ấn định thuế; quyết định xử phạt hành chính về thuế; quyết
định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính thuế; quyết định về bồi thường thiệt hại; quyết định hành chính thuế khác
theo quy định của pháp luật.
21
Việc cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế chỉ được thực hiện khi có
quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế của người có thẩm quyền theo
quy định của Nhà nước về đối tượng áp dụng cưỡng chế thuế, bao gồm:
- Người nộp thuế bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế theo quy
định của Luật quản lý thuế.
- Cơ quan thuế, công chức thuế bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế.
- Người có thẩm quyền và trách nhiệm cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính thuế.
- Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến việc thực hiện cưỡng
chế thi hành quyết định hành chính thuế.
1.2.2. Đặc điểm của cƣỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
Cưỡng chế thuế là một hành vi thi hành pháp luật về thuế
Cưỡng chế thuế thể hiện sức mạnh quyền lực của Nhà nước, Nhà nước dùng biện
pháp cần thiết để cưỡng chế người nợ thuế bắt buộc nộp tiền thuế nợ vào NSNN. Bởi vì
với tư cách là một thiết chế quyền lực của giai cấp thống trị xã hội, Nhà nước có đầy đủ
những ưu thế cần thiết cho việc nắm bắt, chuyển tải và cũng như sự tôn trọng ý chí của
mình trong việc tổ chức, điều hành một nền kinh tế phát triển theo những mục tiêu, định
hướng nhất định. Bằng các hình thức hoạt động của bộ máy Nhà nước, Nhà nước tác
động lên các quan hệ xã hội để đảm bảo cho các quan hệ xã hội phát triển theo đúng
những mục tiêu đã định, ngăn ngừa các khunh hướng phát triển sai lệch, ngăn chặn kịp
thời các biểu hiện sai trái.
Cưỡng chế thuế là hành vi xuất hiện sau hành vi nợ thuế.
Chỉ khi các biện pháp thu nợ đã được thực hiện nhưng người nợ thuế vẫn chưa
chịu nộp số thuế nợ vào NSNN thì khi đó cơ quan thuế buộc phải dùng đến những biện
pháp cưỡng chế thuế.
22
Áp dụng các biện pháp cưỡng chế thuế đảm bảo 100% các khoản nợ thuế được
nộp vào NSNN, góp phần chống thất thu thuế.
Thực hiện các biện pháp cưỡng chế thuế không chỉ liên quan đến cơ quan thuế mà
còn có sự tham gia của các cơ quan thi hành pháp luật khác.
Khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thuế đòi hỏi phải có sự phối hợp với các cơ
quan, ban, ngành chức năng có liên quan như: kho bạc, ngân hàng, công an, viện kiểm
sát,… Đồng thời khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế sẽ gây tốn kém về thời gian, chi
phí hay nhân lực. Chẳng hạn như cần có thời gian chuyển hồ sơ cho bên công an, hay
thông báo trích chuyển tài khoản của khách hàng …
1.2.3. Các trƣờng hợp bị cƣỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế:
- Các trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế được thực
hiện theo quy định của luật pháp, bao gồm:
+ Người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế đã quá chín
mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, nộp tiền phạt vi phạm pháp luật về
thuế theo quy định.
+ Người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế khi đã hết thời
hạn gia hạn nộp tiền thuế.
+ Người nộp thuế còn nợ tiền thuế, tiền phạt có hành vi phát tán tài sản, bỏ trốn.
- Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác, người bảo lãnh nộp tiền thuế
không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế theo quy định
của Luật quản lý thuế.
- Người bảo lãnh việc thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuế, tiền phạt thay cho người
nộp thuế trong trường hợp người nộp thuế không nộp tiền thuế vào tài khoản
của ngân sách nhà nước hoặc vi phạm quy định tại khoản 2 điều 114 của Luật
quản lý thuế.