BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
NGUYỄN HUY DỰ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THU THUẾ TẠI ĐỊA BÀN HUYỆN NAM TRỰC,
TỈNH NAM ĐỊNH
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS NGÔ TRẦN ÁNH
HÀ NỘI - 2014
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
MỤC LỤC
Trang
4
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
5
DANH MỤC BẢNG
6
LỜI CAM ĐOAN
7
PHẦN MỞ ĐẦU
10
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU THUẾ
1.THUẾ VÀ VAI TRÒ CỦA THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ
10
10
1.1.Khái niệm, đặc điểm của thuế
1.1.1.Khái niệm
10
1.1.2. Đặc điểm
11
15
1.2.Vai trò của thuế
18
2.NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA MỘT SỐ SẮC THUẾ CHỦ YẾU
2.1.Một số loại thuế chủ yếu
18
2.1.1.Thuế môn bài
18
2.1.2. Thuế GTGT
20
2.1.3.Thuế TNDN
23
25
3.QUẢN LÝ THUẾ
3.1. Khái niệm
25
3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế
25
3.3.Nội dung cơ bản của công tác quản lý thuế
28
3.3.1.Tổ chức bộ máy
28
3.3.2.Chức trách, nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan thuế các cấp
29
3.4.Nhiệm vụ cơ bản của công tác quản lý thuế
30
3.4.1.Quản lý đối tượng nộp thuế
31
3.4.2.Quản lý đối tượng tính thuế
31
3.4.3.Công tác tính thuế
32
3.4.4.Nộp thuế vào ngân sách
33
3.4.5. Công tác thanh tra,kiểm tra chống thất thu thuế
33
34
4.MỘT SỐ QUAN ĐIỂM ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CÔNG
TÁC QUẢN LÝ THUẾ
40
5.KINH NGHIỆM QUẢN LÝ THUẾ Ở MỘT SỐ NƯỚC
43
Kết luận chương I
44
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THU THUẾ TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN NAM TRỰC, TỈNH NAM ĐỊNH
44
2.1.ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
2.1.1.Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
44
2.1.2.Đặc điểm kinh tế - xã hội
44
46
2.2.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1.Phương pháp thu thập số liệu
47
2.2.2.Phương pháp phân tích
47
2.2.2.1.Phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng
47
Nguyễn Huy Dự
1
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
2.2.2.2.Các phương pháp phân tích thống kê và phân tích định lượng
2.2.3.Các chỉ tiêu nghiên cứu
47
48
2.3.TÌNH HÌNH THU THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NAM
TRỰC GIAI ĐOẠN 2008- 2012
49
2.3.1.Tình hình thực hiện nguồn thu thuế
2.3.2.Hiệu quả công tác quản lý thuế
2.4.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ TẠI HUYỆN
NAM TRỰC
2.4.1.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của ngành thuế Nam Trực
2.4.2.Tình hình phân bố CBCC ngành Thuế Nam Trực
2.4.3.Công tác quản lý thu thuế trên địa bàn huyện Nam Trực
2.4.3.1.Phân cấp quản lý thu
2.4.3.2.Công tác quản lý với các đối tượng nộp thuế theo phương pháp
khấu trừ
49
54
56
2.4.3.3.Công tác quản lý đối với các đối tượng nộp thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp
2.4.3.4.Quản lý thu thuế đối với các đối tượng nộp thuế khác
2.4.3.5.Tin học hóa công tác quản lý thu thuế
2.5.NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NAM TRỰC
2.5.1.Tồn tại trong công tác quản lý đối tượng nộp thuế
2.5.2.Tồn tại trong công tác xác định doanh số tính thuế
2.5.3.Tồn tại trong công tác tính thuế
2.5.4.Tồn tại trong công tác hành thu và xử lý nợ đọng thuế
2.5.5. Các công tác khác
Kết luận chương II
CHƯƠNG III. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ THU THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NAM TRỰC
3.1.MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN NHẰM HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ THU THUẾ
62
3.1.1.Quản lý thu thuế là nhiệm vụ chung của cơ quan thuế, chính
quyền địa phương và cơ quan liên quan
3.1.2.Bảo đảm bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế
3.1.3.Nuôi dưỡng, phát triển nguồn thu bền vững trên cơ sở hoàn thiện
chức năng của từng sắc thuế và cả hệ thống thuế
3.2.GIẢI PHÁP VỀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU THUẾ
3.2.1.Về quản lý đối tượng nộp thuế
3.2.2.Phát huy tác dụng quản lý thu thuế theo quy trình tách ba bộ phận
và quy trình tự tính, tự kê khai, tự nộp thuế
80
Nguyễn Huy Dự
2
Khóa 2012A
56
56
57
57
58
65
67
67
68
71
72
73
75
79
80
80
82
83
85
85
86
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
3.2.3.Hoàn thiện chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn trong quản
lý thu thuế
3.2.4.Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương
trong quản lý thu thuế
3.2.5.Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách thuế
3.2.6.Tăng khoản chi phí hành chính và số lao động
3.3.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU THUẾ
89
Kết luận chương III
Danh mục tài liệu tham khảo
108
110
Nguyễn Huy Dự
3
91
92
95
95
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NQD
Ngoài quốc doanh
NSNN
Ngân sách nhà nước
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
KTNQD
Kinh tế ngoài quốc doanh
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
GTGT
Giá trị gia tăng
TTĐB
Tiêu thụ đặc biệt
XNK
Xuất nhập khẩu
TNDN
Thu nhập doanh nghiệp
TNCN
Thu nhập cá nhân
MB
Môn bài
TSCĐ
Tài sản cố định
ĐTNT
Đối tượng nộp thuế
TKTN
Tự khai tự nộp
QLT
Quản lý thuế
KD
Kinh doanh
DN
Doanh nghiệp
XDCB
Xây dựng cơ bản
UBND
Ủy ban nhân dân
UNT
Ủy nhiệm thu
TNBQ
Thu nhập bình quân
TNCT
Thu nhập chịu thuế
NNT
Người nộp thuế
Nguyễn Huy Dự
4
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Danh mục các bảng
Trang
Bảng 1.1: Tính thuế MB căn cứ vào vốn
19
Bảng 1.2: Tính thuế MB căn cứ thu nhập bình quân tháng
20
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu kinh tế - Xã hội của huyện Nam Trực giai
45
đoạn 2008-2012
Bảng 2.2: Cơ cấu tổng sản phẩm (GDP) và tốc độ tăng trưởng kinh tế
46
giai đoạn 2008-2012
Bảng 2.3: Biến động cơ cấu nguồn thu thuế của huyện qua 3 năm
50
2010-2012
Bảng 2.4: Một số chỉ tiêu hiệu quả công tác quản lý thu thuế tại
55
huyện Nam Trực
Bảng 2.5: Tình hình phân bố, tổ chức cán bộ công chức ngành thuế
57
Nam Trực
Bảng 2.6: Tình hình lập bộ thuế (GTGT & thu nhập doanh nghiệp)
59
Bảng 2.7: Tình hình thu thuế đơn vị khấu trừ
60
Bảng 2.8: Tình hình lập bộ thuế hộ khoán các năm 2010-2012
64
Bảng 2.9: Tình hình cấp mã số thuế trên địa bàn huyện Nam Trực
68
Bảng 2.10: Tình hình nợ đọng thuế
73
Nguyễn Huy Dự
5
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Bản luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân tác giả, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết,
kiến thức kinh điển, nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn và dưới sự hướng
dẫn khoa học của GVC.TS Ngô Trần Ánh, giảng viên viện kinh tế và quản
lý, trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội.
Các số liệu và những kết quả trong luận văn là trung thực, các đánh giá
kiến nghị đưa ra xuất phát từ thực tiễn và kinh nghiệm, chưa từng được công
bố dưới bất cứ hình thức nào trước khi trình, bảo vệ và công nhận bởi “Hội
Đồng đánh giá luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ kinh tế”
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết trên./.
Tác giả
Nguyễn Huy Dự
Nguyễn Huy Dự
6
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
PHẦN MỞ ĐẦU
1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của
Nhà nước, thuế là công cụ chủ yếu để huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước (NSNN), hàng năm số thu về thuế chiếm khoảng 80% đến 90% tổng thu
NSNN và thuế còn là công cụ quan trọng để điều tiết nền kinh tế, kích thích
sản xuất phát triển. Do đó có vai trò rất quan trọng nên các quốc gia đều rất
quan tâm đến thuế và đưa ra nhiều biện pháp quản lý và thu thuế. Trọng tâm
của các nghiên cứu là: làm thế nào để chính sách thuế đạt được mục đích tạo
nguồn thu vững chắc, đảm bảo cân đối thu chi Ngân sách Nhà nước; đồng
thời góp phần phát huy tác dụng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội.
Chi cục Thuế Nam Trực là một trong những Chi cục thuộc Cục thuế
tỉnh Nam Định trong nhiều năm đều hoàn thành nhiệm vụ thu NSNN. Tuy
vậy việc quản lý thu thuế còn nhiều trở ngại trong cơ chế chính sách, quy
trình hành thu còn nhiều vướng mắc, ý thức chấp hành nộp thuế của người
nộp thuế còn thấp. Một số hiện tượng tiêu cực còn phổ biến như: không sử
dụng hóa đơn khi bán hàng, khai tăng chi phí, ghi giá thấp, khai man trốn thuế
còn nhiều. Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN với nhiều thành phần tham gia, với sự tăng lên nhanh chóng cả về số
lượng lẫn quy mô. Việc đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cơ chế
quản lý chính sách từ trung ương đến địa phương. Điều đó đặt ra yêu cầu đổi
mới căn bản công tác quản lý thuế địa bàn huyện Nam Trực. Việc nghiên cứu
để tìm những giải pháp đổi mới, cải tiến quy trình, thủ tục cũng như đề xuất
đổi mới pháp luật, để tăng cường thêm hiệu lực, hiệu quả của công cụ thuế trở
nên rất bức xúc. Đó cũng là lý do chủ yếu của việc em lựa chọn đề tài: “Giải
pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế tại địa bàn huyện Nam Trực,
tỉnh Nam Định”.
Nguyễn Huy Dự
7
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn được thực hiện nhằm đạt được những mục đích sau đây:
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề
lý luận về thuế và công tác quản lý thuế.
- Phân tích đánh giá thực trạng về công tác quản lý thu thuế trên địa bàn
huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
- Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện tổ chức bộ máy và
nâng cao hiệu quả công tác thu thuế trên địa bàn huyện Nam Trực.
Đối tượng nghiên cứu là các sắc thuế chủ yếu đang thực hiện và cơ cấu
tổ chức bộ máy của Chi cục thuế huyện Nam Trực hiện tại, đề ra cơ cấu tổ
chức mới theo hướng cải cách bộ máy hành chính và hiện đại hóa nền tài
chính quốc gia, phù hợp thông lệ quốc tế và khu vực.
Phạm vi nghiên cứu là công tác quản lý thuế trong đó có nhấn mạnh
đến công tác thu thuế tại huyện Nam Trực. Với phạm vi đó, trọng tâm của vấn
đề nghiên cứu chủ yếu bao gồm các loại thuế chủ yếu và các đối tượng quản
lý thu thuế của địa phương. Nội dung chủ yếu của Luận văn: Từ phân tích kết
quả thu thuế qua từng năm chỉ ra ưu, nhược điểm và tác động của chính sách
thuế đến số thu Ngân sách, và phát triển kinh tế, thực hiện công bằng xã hội ở
địa phương; nghiên cứu các nguyên nhân về mặt chính sách, chế độ, về tổ
chức quản lý thu thuế, về đối tượng nộp thuế để đưa ra được những giải pháp
tổ chức quản lý thuế khả thi trong thời gian tới.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Do nét đặc thù của chủ đề nghiên cưu, để thực hiện đề tài này, các
phương pháp nghiên cứu truyền thống và được sử dụng rộng rãi trong nghiên
cứu khoa học xã hội đã được sử dụng. Cụ thể của các phương pháp nghiên
cứu này là: phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp điều tra, thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu thống kê,
phương pháp phân tích định lượng và phương pháp hạch toán, tức là sử dụng
Nguyễn Huy Dự
8
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
hệ thống các chỉ tiêu GO, IC, ... để đánh giá kết quả và hiệu quả công tác
quản lý thu thuế.
4. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm 3 phần chính: ngoài phần mở đầu, kết luận, phần chính
của luận văn gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan lý luận về thuế và công tác quản lý thu thuế.
Chương II: Phân tích tình hình thu thuế trên địa bàn huyện Nam Trực,
tỉnh Nam Định.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
thu thuế trên địa bàn huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
Trong luận văn được trình bày lần đầu tiên về kết quả đánh giá sâu sát,
định lượng tình hình thu thuế của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý thu
thuế trên địa bàn huyện Nam Trực đến thời điểm 31/12/2012 cùng các nguyên
nhân có sức thuyết phục. Tiếp theo tác giả đã trình bày tập trung vào các giải
pháp quan trọng để cải thiện tình hình thu thuế trên địa bàn huyện.
Nguyễn Huy Dự
9
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU THUẾ
1. THUẾ VÀ VAI TRÒ CỦA THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế
1.1.1.Khái niệm
Việc nghiên cứu về sự tồn tại và phát triển của Nhà nước đã giúp cho
chúng ta hiểu rõ ra một điều đó là: Để đảm bảo cho sự phát triển và tồn tại
của mình Nhà nước phải dùng quyền lực để bắt buộc các thành viên trong xã
hội có nghĩa vụ đóng góp một phần sản phẩm, thu nhập cho Nhà nước. Hình
thức đó chính là thu thuế. Như vậy thuế là sản phẩm tất yếu từ sự xuất hiện bộ
máy Nhà nước.
Trong quá trình tồn tại của mình, thuế đã nghiên cứu, định nghĩa khá
nhiều và trên nhiều góc độ khác nhau. Các nhà kinh điển thì cho rằng: “Thuế
cấu thành nên phần thu của chính phủ, nó được lấy ra từ sản phẩm của đất đai
và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư bản hay thu
nhập của người chịu thuế” (Lê-nin toàn tập), hoặc thuế được quan niệm rất
đơn giản: “Thuế khóa là cái núm sữa của chính phủ”.
Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta lại cho rằng: Thuế là hình
thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
nhằm hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện chức năng của Nhà nước.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, một khi Nhà nước chỉ
làm nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước
ở chừng mực nhất định, xã hội ngày càng phát triển hơn nên Nhà nước có
thêm nhiệm vụ điều hành, quản lý nền kinh tế thì chi tiêu của Nhà nước ngày
càng nhiều hơn. Đến khi Nhà nước đảm nhận thêm việc chăm lo đời sống,
Nguyễn Huy Dự
10
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
văn hóa, xã hội của cộng đồng thì thuế lại được động viên càng lớn với nhiều
sắc thuế và ở tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế.
Như vậy, khi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng được mở rộng,
đòi hỏi nguồn tài chính phục vụ cho việc chi tiêu ngày càng tăng lên. Điều đó,
không thể thiếu sự đóng góp của người dân và các tổ chức kinh tế, đó là thuế.
Theo phân tích trên, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước
và thuế ra đời khi hoạt động lao động sản xuất của xã hội loài người tạo ra sản
phẩm thặng dư. Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, sự chuyển dịch
giá trị sản phẩm thặng dư từ thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế
khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác rất đa dạng và phức tạp. Cho nên,
đứng trên giác độ toàn xã hội, đòi hỏi phải có hệ thống thuế để điều tiết thỏa
đáng số sản phẩm thặng dư xã hội tạo ra sao cho hợp lý và công bằng. Vì vậy,
khi xã hội càng văn minh thì thuế khóa lại càng đa dạng và phát triển.
Tóm lại, quá trình phát triển của Nhà nước và thuế cho chúng ta thấy,
thuế và Nhà nước là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại
tất yếu phải có thuế. Thuế là cơ sở vật chất để đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của Nhà nước. Kết hợp những hạt nhân hợp lý của những quan niệm về
thuế kể trên, có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một
khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện
đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước
ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng
nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng
do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp
luật.
1.1.2. Đặc điểm:
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có
của thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định qua từng giai đoạn phát triển.
Nghiên cứu về thuế người ta thấy nó có những đặc điểm riêng để phân biệt
với các công cụ tài chính khác.
Nguyễn Huy Dự
11
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Đặc điểm thứ nhất: Thuế có tính pháp lý và tính cưỡng chế cao. Chúng
ta có thể dễ dàng thấy rằng thuế là nguồn thu chủ yếu đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của Nhà nước, bởi vậy việc đóng thuế là nghĩa vụ bắt buộc đối
với cấc tổ chức kinh tế và cá nhân cho Nhà nước. Nghĩa vụ này được quy
định cụ thể trong luật của mỗi quốc gia sao cho phù hợp với từng đối tượng
đóng thuế. Việc không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế là đã vi phạm pháp luật
và sẽ bị cưỡng chế thực hiện hoặc xử lý theo đúng pháp luật.
Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó phân
biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của NSNN. Đặc điểm này
vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan điểm tiền tệ, được hình thành
một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc động viên mang tính
chất bắt buộc của Nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình
thức thuế - như một nhà kinh tế định nghĩa: là một phương thức phân phối của
Nhà nước mà kết quả của quá trình đó là một bộ phận thu nhập của người nộp
thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát
hoặc quyền lợi nào khác trực tiếp cho người nộp thuế.
Tính chất cưỡng chế bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn
từ những lý do sau:
- Một là: hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không
gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương
pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công
cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối
tượng có thu nhập phải chuyển giao.
- Hai là: trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng
về hàng hóa công cộng ngày càng tăng cao. Để duy trì hoạt động đó nhu cầu
về hàng hóa công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp đủ các chi phí
bỏ ra. Nhưng hàng hóa công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể phân
bổ theo “khẩu phần” để sử dụng và người thụ hưởng cũng không muốn sử
dụng theo “khẩu phần”. Mặt khác, hàng hóa công cộng không có tính cạnh
Nguyễn Huy Dự
12
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
tranh và không thể đem trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù đắp các chi phí.
Chính vì vậy trong việc cung cấp hàng hóa công cộng đã xuất hiện những
“người ăn không”, nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng
hàng hóa công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng hóa công cộng, Nhà
nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc “người ăn không” phải
chuyển giao thu nhập từ khu vực tư sang khu vực công. Tuy nhiên, tính bắt
buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành động đóng thuế cho
Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện phạm pháp, mà
hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của công dân.
Từ đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài
chính của NSNN như: lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt tiền. Hình thức
phạt tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt tiền chỉ xảy ra đối với
người nộp phạt khi có hành vi phạm luật làm phương hại đến lợi ích nhà nước
ở cộng đồng. Hình thức phí, lệ phí, công trái nói chung mang tính tự nguyện
và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của phí và lệ phí chỉ xảy ra khi người
trả phí, lệ phí thụ hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung cấp.
Đặc điểm thứ hai: Thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả
trực tiếp. Thuế thu được sẽ sử dụng vào các khoản chi tiêu của Nhà nước như
là chi tiêu công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng, trợ cấp…mọi đối tượng trong
xã hội dù nộp nhiều, nộp ít hay thậm chí không nộp thuế đều được hưởng các
phúc lợi xã hội từ Nhà nước một cách bình đẳng. Điều này cho thấy số thuế
mà các đối tượng phải nộp được tính toán dựa trên hoạt động và thu nhập của
họ chứ không phải dựa vào phúc lợi xã hội mà họ được hưởng. Mặt khác,
thuế được hoàn trả thông qua phúc lợi xã hội chứ không phải trả bằng những
khoản tiền mà các đối tượng đã nộp sau một thời gian nhất định.
Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế được biểu hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính
chất đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp xã hội chuyển giao cho Nhà
nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thụ hưởng những dịch
Nguyễn Huy Dự
13
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
vụ và hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế cũng
không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng
trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập cho Nhà nước;
mặt khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng không nhất
thiết ngang bằng mức độ chuyển giao. Mức chuyển giao thu nhập nhiều hay ít
chỉ căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội cũng như nhu cầu tài chính chung của Nhà nước.
Thứ hai, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được
hoàn trả trực tiếp không có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận
được một phần các dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả
cộng đồng, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản
thuế mà họ nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau
giữa thuế và các khoản phí, lệ phí.
+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước
bằng luật pháp:
Đặc điểm này một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác
phản ánh sự chuyển giao thu nhập không mang tính chất tùy tiện mà dựa trên
những cơ sở pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong Luật thuế;
Pháp lệnh thuế. Những tiêu thức thường được xác định trước trong các Luật
thuế, Pháp lệnh thuế là: đối tượng chịu thuế; đối tượng nộp thuế; mức thuế
phải nộp; thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.
+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh
hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong thời kỳ nhất định:
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, thị trường, sự biến
động của NSNN…
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế chính trị
của Nhà nước, tâm lý, tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn
hóa, xã hội của dân tộc…
Nguyễn Huy Dự
14
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội nên
người ta thường nói thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp.
+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới
hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lý của Nhà nước đối
với con người và tài sản.
Tóm lại: những đặc điểm cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất
và nội dung bên trong của thuế. Từ những đặc điểm đó, giúp chúng ta phân
biệt thuế với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều phương diện
khác nhau.
1.2 Vai trò của thuế
Trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, thuế đóng một vai trò hết sức quan
trọng.
Thứ nhất: thuế là nguồn thu chủ yếu và lâu dài của ngân sách quốc gia.
Ngân sách có thể huy động nguồn thu bằng nhiều cách khác nhau như đi vay,
bán tài nguyên hay tài sản quốc doanh… nhưng không có nguồn thu nào
mang tính chất bền vững và cơ bản như thuế. Tỷ trọng thu từ thuế thường
chiếm phần lớn trong tổng thu nhập của Ngân sách nhà nước, tuy nhiên không
phải vì thế mà chính phủ các nước có thể tìm mọi cách để tăng thu từ thuế,
bởi vì nếu tăng thuế đến một mức quá cao thì phần còn lại cho các đối tượng
nộp thuế ít đi, họ sẽ cảm thấy không xứng đáng với công sức mà mình bỏ ra
và như vậy ham muốn làm việc giảm xuống, kết quả là hoạt động sản xuất
kinh doanh không được khuyến khích mở rộng, số thuế thu về của Nhà nước
tất yếu sẽ giảm đi. Để đảm bảo nguồn thu này ngày càng gia tăng thì Chính
phủ các nước phải có biện pháp thích hợp, đảm bảo hài hòa lợi ích của cả Nhà
nước và đối tượng nộp thuế. Vì vậy khi đánh thuế cần tuân thủ các nguyên tắc
như: Nguyên tắc lợi ích, nguyên tắc khả năng thanh toán, nguyên tắc công
bằng dọc và nguyên tắc công bằng ngang.
Thứ hai: thuế là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Nếu như trong cơ chế
kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế
Nguyễn Huy Dự
15
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
xã hội bằng hệ thống các mệnh lệnh, chỉ tiêu, các kế hoạch từ trung ương đến
địa phương, thì ở cơ chế nền kinh tế thị trường Nhà nước chỉ quản lý ở tầm vĩ
mô bằng các định hướng, biện pháp nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế đã đề
ra. Sự điều tiết của Nhà nước thông qua thuế gồm hai mặt: khuyến khích và
hạn chế. Điều đó được thể hiện trong việc xây dựng cơ cấu các loại thuế và
mối quan hệ giữa chúng cũng như việc xác định thuế suất, chế độ miễn - giảm
thuế phù hợp với điều kiện thực tế. Khuyến khích đối với những ngành nghề,
hoạt động sản xuất kinh doanh cần thiết cho nền kinh tế quốc dân hoặc những
ngành nghề, những hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ cho đại đa số quần
chúng nhân dân thì áp dụng thuế suất thấp. Hạn chế, thu hẹp những ngành
nghề không có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, cho nhu cầu tiêu dùng
của nhân dân hoặc những ngành nghề ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục,
đến sức khỏe của nhân dân thì áp dụng thuế suất cao. Trong nền kinh tế thị
trường, các thành phần kinh tế tự do lựa chọn ngành nghề sản xuất, kinh
doanh, với mục tiêu đầu tư vào những ngành nghề nào mang lại lợi nhuận cao
nhất mà không tính đến hậu quả để lại sau quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà
nước dùng công cụ thuế để điều chỉnh và hướng các hoạt động sản xuất kinh
doanh đi vào con đường phát triển có hiệu quả mang lại nhiều lợi ích cho
quốc gia.
Trong điều kiện nay, hệ thống thuế của Nhà nước Việt Nam thể hiện rất
rõ quan điểm khuyến khích các ngành nghề sản xuất hơn là các hoạt động
thương mại, dịch vụ. Sản xuất các mặt hàng thiết yếu được khuyến khích hơn
sản xuất các mặt hàng và dịch vụ khác. Để khuyến khích các ngành nghề sản
xuất hàng xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu cần thiết khi
trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu
cầu, hay đầu tư vào những vùng có kinh tế khó khăn, vùng không thuận lợi
cho sức khỏe, sinh hoạt của người dân,… Nhà nước thường áp dụng thuế ưu
đãi để thúc đẩy kinh tế phát triển một cách có hiệu quả, đồng bộ cho hướng có
lợi cho quốc gia.
Nguyễn Huy Dự
16
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Hiện nay, Nhà nước ta sử dụng tổng hợp hệ thống chính sách thuế,
nhằm: khuyến khích mạnh mẽ các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật; góp
phần thúc đẩy việc khai thác vật tư nguyên liệu trong nước, tranh thủ vốn đầu
tư nước ngoài để mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa đẩy mạnh xuất
nhập khẩu đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và tích lũy; bảo đảm lợi ích giữa Nhà
nước và xã hội, lợi ích của các bên hợp tác, vừa đảm bảo sản xuất trong nước
phát triển nâng cao đời sống của nhân dân.
Thứ ba: thuế là công cụ tác động vào sự phân bổ nguồn lực trong xã
hội. Xét về mặt tiêu dùng, thuế đã phân bổ lại các nguồn lực từ cách sử dụng
tư nhân sang sử dụng công cộng. Xét về mặt sản xuất, thuế có thể làm thay
đổi quyết định đầu tư của các hãng sản xuất kinh doanh bằng cách đầu tư vào
các mặt hàng có mức thuế suất cao.
Thứ tư: thuế là công cụ để điều hòa thu nhập thực hiện công bằng xã
hội trong phân phối. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, khoảng
cách giàu nghèo giữa các cá nhân trong xã hội ngày càng có xu hướng gia
tăng. Đây là một “khiếm khuyết” lớn mà nền kinh tế thị trường - bản thân nó
không tự giải quyết được. Hậu quả của vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến
đạo đức và công bằng xã hội mà còn tạo nên sự đối lập về quyền lợi giữa các
tầng lớp dân cư trong cộng đồng. Để giải quyết tình trạng này Nhà nước cần
có các biện pháp cụ thể mà một trong những giải pháp đó là thuế. Thông qua
thuế thu nhập cá nhân, Chính phủ sẽ khấu trừ thu nhập của các cá nhân theo
những tỉ lệ khác nhau hoặc thông qua thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào các hàng
hóa mà chỉ có lớp người giàu mới tiêu thụ. Số thuế thu được sẽ đầu tư vào các
chương trình trợ giúp cho người nghèo, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, tạo
công bằng xã hội.
Trong thực tế, sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự
đóng góp của cộng đồng, của toàn xã hội. Chính vì vậy mà thành quả kinh tế
đạt được trong hiện tại và tương lai phải được phân phối trên cơ sở của cộng
Nguyễn Huy Dự
17
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
đồng. Có nên, cần có sự can thiệp của Nhà nước trong quá trình phân phối thu
nhập, sự phân phối này chủ yếu nhờ vào công cụ thuế để điều tiết. Nền kinh tế
của nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản
lý của Nhà nước, thì vai trò tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và
người dân trong động viên điều tiết thuế và công bằng xã hội ngày càng được
nâng cao hơn, bao quát hơn.
2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA MỘT SỐ SẮC THUẾ CHỦ YẾU:
Nhằm bao quát mọi đối tượng phải thu thuế, đảm bảo tính công bằng
trong động viên điều tiết tiền thuế và đáp ứng yêu cầu thu ngân sách, hệ thống
thuế hiện nay ở nước ta bao gồm các sắc thuế sau: Thuế GTGT; Thuế TTĐB;
Thuế XNK; Thuế tài nguyên; Thuế TNDN; Thuế TNCN; Thuế SD đất phi
nông nghiệp; Thuế môn bài.
Mỗi sắc thuế có chức năng, tác dụng, đối tượng nộp khác nhau nhưng
có mối liên hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau; giữa thuế trực thu và thuế gián thu
để phát huy tác dụng toàn diện của hệ thống thuế.
Ngoải ra, còn một số khoản thu mang tính chất lệ phí, nhằm động viên
sự đóng góp cho NSNN vừa mang tính chất phục vụ cho người nộp lệ phí
thực hiện một số thủ tục hành chính.
2.1. Một số loại thuế chủ yếu:
2.1.1. Thuế môn bài: Thuế môn bài là một khoản thu có tính chất lệ phí thu
hàng năm vào các cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế vì vậy Thuế môn bài mang tính chất là một loại thuế trực thu, động
viên sự đóng góp trực tiếp của cơ sở kinh doanh tạo được nguồn thu quan
trọng cho nhu cầu chi tiêu của NSNN ngay từ đầu mỗi năm khi các nguồn thu
khác chưa nhiều. Thuế môn bài còn có tác dụng kiểm kê, kiểm soát các cơ sở
kinh doanh, có căn cứ phân loại quy mô kinh doanh để áp dụng biện pháp
quản lý cho phù hợp.
Nguyễn Huy Dự
18
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Thuế môn bài áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân có thực tế kinh
doanh. Khai thuế môn bài một lần khi người nộp thuế mới ra hoạt động kinh
doanh chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng bắt đầu hoạt động SXKD.
Trường hợp người nộp thuế mới thành lập cơ sở sản xuất kinh doanh
nhưng chưa hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải kê khai thuế môn bài
trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và đăng ký thuế hoặc ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Đối với người nộp thuế đang thực hiện kinh doanh đã khai, nộp thuế môn bài
thì không phải nộp hồ sơ khai thuế môn bài cho các năm tiếp theo nếu không
thay đổi các yếu tố làm thay đổi về mức thuế môn bài phải nộp. Trường hợp
người nộp thuế có sự thay đổi các yếu tố liên quan đến căn cứ tính thuế làm
thay đổi số thuế môn bài phải nộp của năm tiếp theo, thời hạn khai thuế chậm
nhất là ngày 31/12 của năm có sự thay đổi. Nếu không kê khai thì sẽ bị xử
phạt vi phạm hành chính về thuế và bị ấn định mức thuế môn bài phải nộp.
Các cơ sở kinh doanh là chi nhánh, cửa hàng, cửa hiệu (thuộc công ty
hoặc chi nhánh)… hạch toán phụ thuộc hoặc báo sổ được cấp giấy chứng
nhận ĐKKD, có đăng ký nộp thuế và được cấp mã số thuế thì phải kê khai
nộp thuế MB căn cứ vốn. Các doanh nghiệp có các Chi nhánh (hạch toán phụ
thuộc) tại các quận, huyện, thị xã và các điểm kinh doanh khác thì phải nộp
thuế MB cho các chi nhánh này mỗi chi nhánh là 1.000.000 đồng/năm.
Cách tính thuế Môn bài:
- Tính thuế MB căn cứ vào vốn được áp dụng cho các tổ chức kinh tế
(DN, Cty có vốn).
Bảng 1.1: Tính thuế MB căn cứ vào vốn
Bậc thuế môn bài
Vốn đăng ký
Mức thuế môn bài cả năm
Bậc 1
Trên 10 tỷ đồng
3.000.000
Bậc 2
Từ 5 tỷ đến 10 tỷ
2.000.000
Bậc 3
Từ 2 tỷ đến dưới 5 tỷ
1.500.000
Nguyễn Huy Dự
19
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Bậc 4
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Dưới 2 tỷ đồng
1.000.000
- Tính thuế MB theo thu nhập bình quân tháng được áp dụng cho hộ
KD và cá nhân KD (không có vốn đăng ký).
Bảng 1.2: Tính thuế MB căn cứ thu nhập bình quân tháng
Bậc thuế
Thu nhập một tháng
Mức thuế cả năm
1
Trên 1.500.000
1.000.000
2
Trên 1.000.000 đến 1.500.000
750.000
3
Trên 750.000 đến 1.000.000
500.000
4
Trên 500.000 đến 750.000
300.000
5
Trên 300.000 đến 500.000
100.000
6
Bằng hoặc thấp hơn 300.000
50.000
2.1.2. Thuế GTGT: Thuế GTGT tính trên khoản giá trị tăng thêm của
hàng hóa, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông,
tiêu dùng. Thuế GTGT được hoàn với hàng hóa xuất khẩu sẽ phát huy tốt tác
dụng khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh
tranh trên thị trường quốc tế; thuế GTGT kết hợp với hàng nhập khẩu làm
tăng giá vốn với hàng nhập khẩu, góp phần tích cực bảo vệ hàng sản xuất
trong nước; tăng cường hạch toán kế toán kinh doanh, thúc đẩy việc mua bán
hàng hóa, thực hiện tốt chế độ hóa đơn để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào;
khuyến khích hiện đại hóa; chuyên môn hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ
giá thành sản phẩm,…
Đối tượng đánh thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam,
kể cả hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, hàng tiêu dùng nội bộ
hoặc làm quà biếu, quà tặng đem trao đổi (không thanh toán bằng tiền).
Nguyễn Huy Dự
20
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh
mọi ngành nghề sản xuất, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ
thuộc mọi thành phần kinh tế, hoạt động các ngành hàng, dịch vụ thuộc diện
đánh thuế GTGT.
Giá tính thuế GTGT là giá chưa có thuế, khi bán hàng hoặc cung cấp
dịch vụ, trên hóa đơn phải ghi rõ giá bán hàng (hoặc giá dịch vụ) chưa có thuế
GTGT, tiền thuế GTGT phải nộp và giá bán gồm cả thuế GTGT (tổng giá
thanh toán). Đối với hàng nhập khẩu là giá tính thuế hàng nhập khẩu (giá CIF
hoặc giá do Bộ Tài chính quy định) cộng (+) với thuế nhập khẩu (nếu có). Giá
tính thuế đối với hoạt động hưởng hoa hồng là tiền hoa hồng được hưởng
chưa trừ khoản phí tổn nào từ hoạt động này. Riêng đối với các loại hàng hóa,
dịch vụ mang tính đặc thù, dùng các chứng từ thanh toán gồm cả thuế GTGT
(như vé cước tàu xe, tem bưu điện, giá bìa sách,…) thì giá ghi trên chứng từ
thanh toán hoặc giá bìa sách được công nhận là giá tính thuế đã có thuế
GTGT, cần quy đổi tìm giá chưa có thuế GTGT làm căn cứ tính thuế.
Thuế suất thuế GTGT có 3 mức: thuế suất 0%, 5%, 10%.
Thuế GTGT được thực hiện theo 2 phương pháp: khấu trừ và trực tiếp.
Phương pháp thu có khấu trừ áp dụng với mọi cơ sở kinh doanh phải thực
hiện chế độ hóa đơn GTGT và sổ sách kế toán. Đối với với hộ nhỏ, thuế tính
theo tỷ lệ giá trị gia tăng trên doanh thu, thời gian tính thuế ổn định trong một
năm.
Thuế GTGT chỉ thực hiện việc khấu trừ đầu vào đã nộp của hàng hóa,
nguyên vật liệu, TSCĐ, dịch vụ đầu vào dùng để sản xuất, kinh doanh dịch vụ
thuộc đối tượng tính thuế GTGT khi bán hàng ra.
Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ đối với hàng hóa, nguyên nhiên vật
liệu và dịch vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa tính thuế GTGT, phát
sinh trong tháng nào thì được kê khai khấu trừ khi xác định thuế GTGT phải
nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng, bán ra hay còn trong kho.
Nguyễn Huy Dự
21
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Nếu số thuế GTGT được khấu trừ trong tháng lớn số thuế GTGT đầu ra
của tháng đó thì số thuế GTGT nộp thừa còn lại sẽ được chuyển để tiếp tục
khấu trừ trong tháng sau hoặc được xét hoàn thuế theo quy định theo chế độ.
Đối với hàng hóa dịch vụ đầu vào mua trong nước hoặc nhập khẩu, sử
dụng đồng thời cho cả hoạt động thuộc diện chịu thuế GTGT và không chịu
thuế GTGT, cơ sở kinh doanh chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào đối với hàng
hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa thuộc diện chịu thuế
GTGT.
Đối với hàng hóa nông lâm thủy sản chưa qua chế biến mua của người
sản xuất mà không có hóa đơn GTGT, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ đối
với cơ sở sản xuất, chế biến theo tỷ lệ % đã được quy định trong nghị định
của Chính phủ về “Quy định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT”.
Đối với TSCĐ, về nguyên tắc khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với
TSCĐ được áp dụng như đối với vật tư, hàng hóa và dịch vụ. Nhưng nếu
khấu trừ liên tục trong 3 tháng mà số thuế GTGT đầu vào vẫn chưa được khấu
trừ hết thì cơ sở kinh doanh được làm thủ tục đề nghị cơ quan thuế xét hoàn
lại hết số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ theo chế độ. Điều kiện
chung để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào là cơ sở kinh doanh phải thuộc
đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, hàng hóa, dịch vụ mua
vào phải có hóa đơn GTGT và chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với
những hóa đơn có tổng giá trị thanh toán từ 20 triệu đồng trở lên, hàng hóa
vật tư nhập khẩu phải có chứng từ nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu, hàng
nông lâm thủy sản phải có bảng kê thu mua theo mẫu quy định, trên hóa đơn
ghi rõ số thuế GTGT đầu vào.
Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được xét
hoàn thuế khi cơ sở kinh doanh có lũy kế số thuế GTGT đầu vào được khấu
trừ lớn hơn số thuế GTGT đầu ra phát sinh trong 3 tháng liên tục trở lên
(không phân biệt niên độ kế toán) hoặc sau khi sát nhập, hợp nhất, chia tách,
giải thể có số thuế GTGT nộp thừa.
Nguyễn Huy Dự
22
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Đối với cơ sở kinh doanh xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc xuất
khẩu theo từng lần với số lượng lớn, phát sinh số thuế đầu vào được khấu trừ
cao, thì được hoàn thuế GTGT theo từng thời kỳ hoặc theo tháng.
Cơ quan thuế phải xác định số thuế phải hoàn và ra quyết định hoàn
thuế trong vòng 15 ngày đối với hoàn thuế trước kiểm tra sau và trong vòng
60 ngày đối với trường hợp kiểm tra trước hoàn thuế sau kể từ ngày nhận hồ
sơ hoàn thuế hợp pháp, đầy đủ.
Ngoài ra trong Luật thuế GTGT còn quy định một số trường hợp miễn,
giảm thuế như: một số hàng hóa, dịch vụ sản xuất , kinh doanh đang gặp khó
khăn, hộ cá thể nghỉ kinh doanh trong tháng từ 15 ngày trở lên, những cá nhân
kinh doanh có thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà
nước quy định.
2.1.3. Thuế TNDN: Thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh vào thu
nhập có được của một doanh nghiệp trong kỳ sản xuất kinh doanh nhất định
(gồm thu nhập kinh doanh và các thu nhập khác). Có nhiều nước trên thế giới
gọi thuế này là thuế thu nhập công ty. Dù tên gọi có thể khác nhau nhưng nội
dung cơ bản thì đều giống nhau: đánh vào thu nhập sau khi đã trừ chi phí hợp
lý. Việc ban hành luật thuế TNDN nhằm bao quát và điều tiết được tất cả các
khoản thu nhập đã, đang và sẽ phát sinh của cơ sở kinh doanh trong cơ chế thị
trường, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và khuyến khích các tổ chức
cá nhân trong nước tiết kiệm vốn cho đầu tư phát triển kinh doanh qua các chế
độ miến, giảm thuế, từng bước thu hẹp về chính sách thuế để đảm bảo sự bình
đẳng và cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, hệ thống hóa
những quy định ưu đãi về thuế trong nhiều Luật khác nhau, đảm bảo sự rõ
ràng thống nhất trong việc thực hiện các chế độ ưu đãi thuế.
Đối tượng đánh thuế TNDN là thu nhập chịu thuế (TNCT) phát sinh
trong năm kinh doanh của doanh nghiệp, từ hoạt động sản xuất kinh doanh
dịch vụ, và các khoản thu nhập khác, kể cả thu nhập từ hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài.
Nguyễn Huy Dự
23
Khóa 2012A
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Đối tượng nộp thuế TNDN là các tổ chức kinh tế có hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ có thu nhập chịu thuế.
Đối tượng không thuộc diện chịu thuế TNDN là các hộ gia đình, cá
nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm
trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra đối với Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần mà Chính phủ Việt Nam ký kết có quy định khác thì được
thực hiện theo quy định đó.
TNCT từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ là khoản chênh lệch
giữa doanh thu và các khoản chi phí hợp lý được trừ, có liên quan đến TNCT.
TNCT khác bao gồm: thu nhập từ chênh lệch từ mua bán chứng khoán,
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, lãi về chuyển nhượng cho thuê, thanh lý
tài sản, lãi tiền gửi cho vay vốn, bán ngoại tệ, kết dư cuối năm các khoản dự
phòng, thu các khoản nợ khó đòi đã xử ký xóa sổ nay đòi được, thu các khoản
nợ phải trả không xác định được chủ nợ, các khoản thu nhập từ kinh doanh
của những năm trước bị bỏ sót nay mới phát hiện ra và các khoản thu nhập
khác.
Doanh thu để xác định TNCT là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công,
tiền cung ứng dịch vụ kể cả trợ giá, phụ thu. Nếu có doanh thu bằng ngoại tệ,
thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ lệ giá chính thức do ngân
hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm thu ngoại tệ.
Các khoản chi phí hợp lý được trừ để xác định TNCT là các khoản chi
phí bằng vật chất, thực tế có liên quan đến doanh thu, TNCT trong năm với
mức hợp lý theo các văn bản pháp quy của Nhà nước hiện hành.
Không được tính vào chi phí hợp lý các khoản sau đây: chi phí trích
trước mà thực tế không chi, các khoản chi không có chứng từ hoặc chứng từ
không hợp lệ, các khoản tiền phạt, các khoản chi không liên quan đến doanh
thu, TNCT trong năm, các khoản chi do các nguồn vốn khác đài thọ .
Để khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư
theo chiều sâu, các cơ sở hoạt động ở những vùng miền núi, hải đảo, vùng
Nguyễn Huy Dự
24
Khóa 2012A