Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

TIỂU LUẬN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.28 KB, 81 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
MÔN: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
LỚP ĐÊM 4 – NHÓM 6 – CAO HỌC K23
BÀI TIỂU LUẬN
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
GVGD: TS. Diệp Gia Luật
Học viên: Trần Đình Dũng
Nguyễn Hồng Đức
Nguyễn Thạnh Đức
Tạ Ngọc Hiệu
Trần Ngọc Minh
Lê Thị Minh Hiếu
Nguyễn Thị Hương
Hồng Thanh Thúy
Phan Thị Thùy Trang
Đinh Nguyễn Ngọc Thúy Vy
TP. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 11 năm 2013
Mục Lục

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CQGS Cơ quan giám sát
EU Liên minh châu Âu
GATT Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch
HTGSTC Hệ thống giám sát tài chính
HTTC Hệ thống tài chính
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
NAFTA Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ
OTC Thị trường chứng khoán phi tập trung


TTTC Thị trường tài chính
UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà Nước
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
ADB Ngân hàng Phát triển châu Á
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang i
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Hình 1: Mô tả chức năng của hệ thống tài chính 3
Hình 2: Mô tả các dịch vụ được cung cấp bởi hệ thống tài chính 4
Hình 3: Sơ đồ mô tả thị trường tài chính và chức năng của nó 6
Hình 4: Cơ cấu thị trường tài chính theo thời gian luân chuyển vốn 11
Hình 5: Sơ đồ công cụ tài chính 14
Hình 6: Định chế tài chính 18
Hình 7: Mô tả hoạt động định chế tài chính 18
Hình 8: Mô hình cấu trúc giám sát theo đặc điểm thể chế 42
Hình 9: Mô hình cấu trúc giám sát theo chức năng 45
Hình 10: Mô hình giám sát lưỡng đỉnh 47
Hình 11: Mô hình giám sát hợp nhất 49
Hinh 12: Sơ đồ dẫn đến khủng hoảng tài chính 52
Hình 13: Sơ đồ chu kỳ kinh tế 55
Hình 14: Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ 3 70
Hình 15: Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam 2007-2013 73
Hình 16: Biểu đồ số doanh nghiệp thành lập mới tại Việt Nam 75
Hình 17: Biểu đồ thu hút và giải ngân vốn FDI tại Việt Nam từ năm 2008-8/2013 76
Hình 18: Hệ thống giám sát tài chính Việt Nam 89
Hình 19: Mô hình giám sát hợp nhất 100
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang ii
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những thập niên gần đây, thế giới đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng tài
chính với phạm vi ngày càng lớn, mức độ tác động và tần suất ngày càng gia tăng. Một

trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các bất ổn đó là hoạt động giám sát tài chính
còn yếu kém, không theo kịp sự phát triển nhanh chóng của các định chế tài chính và các
công cụ tài chính.
Sự hưng thịnh của thế giới đã được tăng cường một cách vô hạn bởi sự tăng trưởng
trong các quan hệ kinh tế quốc tế – giao dịch hàng hóa và dịch vụ, sự di cư lao động, vốn
và ý tưởng trên khắp hành tinh. Nguyên tắc của ưu thế cạnh tranh giả thiết rằng sự giàu có
của các quốc gia được nâng lên bởi từng quốc gia tập trung vào những hoạt động kinh tế
mà nó có cơ hội về chi phí thấp. Nhưng tất cả các hoạt động kinh tế này cần phải được cấp
vốn, và sự ổn định của hệ thống tài chính quốc tế là điều quan trọng đối với sự tăng trưởng
liên tục trong thương mại trên thế giới. Điều này sẽ phức tạp thêm bởi thực tế là phần lớn
các quốc gia có tiền tệ của riêng mình, và các quy tắc và điều tiết chi phối các giao dịch tài
chính khác nhau rất nhiều giữa các quốc gia.
Trong khi kinh tế quốc tế và tương tác tài chính đã lớn mạnh, nhu cầu về các quy
tắc ứng xử trở nên lớn mạnh hơn bao giờ hết, ví dụ nguyên tắc kế toán thống nhất, các tiêu
chuẩn quốc tế về hành vi được phép, những điều khoản cho vốn vay khẩn cấp và những
điều tương tự, đặc biệt là sự cần thiết một hệ thống điều tiết và giám sát các hoạt động tài
chính có tính thực tiễn có thể áp dụng linh hoạt cho từng khung quản lý tài chính của từng
quốc gia.
Đề tài này sẽ nghiên cứu về hoạt động điều tiết và giám sát hệ thống tài chính
thông qua tổng quan hệ thống tài chính, cơ sở lý luận về cơ chế điều tiết và giám sát và
thực trạng thực hiện cơ chế này tại thế giới và Việt Nam.
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1.1.Khái quát hệ thống tài chính (HTTC)
1.1.1.Khái niệm hệ thống tài chính
Chúng ta muốn tìm hiểu đúng đắn về hoạt động điều tiết và giám sát hệ thống tài
chính thì phải có cái nhìn tổng quan về hệ thống tài chính. Có nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm hệ thống tài chính.
*Quan điểm 1:
Hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài

chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối
liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định. Các bộ phận trong hệ thống tài
chính hoạt động trên các lĩnh vực: Tạo ra nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn tài chính
và chu chuyển các nguồn tài chính (dẫn vốn). Với các lĩnh vực hoạt động này, toàn bộ hệ
thống tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân là đảm
bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
*Quan điểm 2: Căn cứ theo vai trò kiểm soát của Nhà nước, đặc biệt là kiểm soát
với lãi suất thì: Hệ thống tài chính chia thành 2 mô hình là hệ thống tài chính được kiểm
soát và hệ thống tài chính tự do.
*Quan điểm 3: Hệ thống tài chính được xem xét theo hình thức cung ứng vốn cho
nền kinh tế.
Hệ thống tài chính là một tổng thể bao gồm các thị trường tài chính, các định chế
tài chính trung gian, cơ sở hạ tầng pháp lý - kỹ thuật và các tổ chức giám sát và điều hành
hệ thống tài chính để tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính nhằm đạt được mục tiêu của các
chủ thể trong nền kinh tế. Hệ thống tài chính bao gồm: Thị trường tài chính, các định chế
tài chính trung gian, cơ sở hạ tầng pháp lý - kỹ thuật, tổ chức giám sát và điều hành hệ
thống tài chính.
Ngoài ra, theo Peter S. Rose và James W. Kolari thì hệ thống tài chính bao gồm
một mạng lưới các thị trường tài chính, các định chế tài chính các doanh nghiệp, các cá
nhân hộ gia đình và chính quyền tham gia trong hệ thống đó và điều tiết các hoạt động của
nó.
Hệ thống tài chính là tổng thể các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực khác nhau
của nền kinh tế quốc dân nhưng thống nhất với nhau về bản chất, chức năng và có liên hệ
hữu cơ với nhau về sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội
hoạt động trong các lĩnh vực đó.
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 6
Trong đề tài này, chúng tôi sẽ phân tích khái niệm về hệ thống tài chính theo quan
điểm trên, như vậy hệ thống tài chính gồm: Thị trường tài chính, các định chế tài chính, cơ
sở hạ tầng tài chính.
1.1.2.Chức năng của hệ thống tài chính

Ta có thể hiểu một cách tổng quát chức năng của hệ thống tài chính như sau:
Chuyển tải nguồn vốn nhàn rỗi từ những người tiết kiệm đến những người có cơ hội đầu
tư.
Hình 1: Mô tả chức năng của hệ thống tài chính
Từ chức năng cơ bản này có thể chia ra 3 tiểu chức năng:
*Huy động tiết kiệm: Hệ thống tài chính cung cấp cơ hội tạo ra lợi nhuận trên
những khoản tiền tiết kiệm. Nó khuyến khích và tạo động lực cho các chủ thể tiến hành
tiết kiệm. Hoạt động của các định chế tài chính với các dịch vụ tài chính đa dạng tạo
những cơ hội thuận tiện cho các chủ thể tiết kiệm.
*Cung cấp thông tin: Các thông tin phải được cung cấp đầy đủ và minh bạch cho
các bên tham gia vào hệ thống tài chính để tạo một sân chơi an toàn, lành mạnh và hiệu
quả.
*Quản lý rủi ro: Cho phép thực hiện việc kiểm soát, quản lý và tăng cường hiệu
quả của các quan hệ tài chính. Thu thập và đánh giá những bằng chứng về thông tin liên
quan đến quá trình huy động và phân bổ các nguồn tài chính.
-Tính đúng đắn: Việc tạo lập các quỹ tiền tệ có hợp pháp hay không.
-Tính hiệu quả: Việc sử dụng các quỹ tiền tệ có tiết kiệm, sinh lợi hay không.
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 7
-Tính hiệu lực: việc sử dụng các quỹ tiền tệ có đạt được mục tiêu kế hoạch hay
không.
Hình 2: Mô tả các dịch vụ được cung cấp bởi hệ thống tài chính
1.1.3.Các bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính
- Thị trường tài chính: Là nơi thực hiện việc phát hành và mua bán các công cụ tài
chính bằng cách đó mà vốn được di chuyển từ những nơi dư thừa (theo những thời hạn
khác nhau) sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn. Bằng cơ chế giá và quan hệ cung cầu, thị
trường tài chính còn cho phép vốn được di chuyển đến những nơi được sử dụng hiệu quả
nhất.
- Các định chế tài chính: Là các trung gian tài chính thực hiện việc kết nối các nhu
cầu giao dịch các công cụ tài chính trên thị trường. Vai trò trung gian này được thực hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau, đó có thể là vai trò trung gian đầu tư (vừa đi vay - bán

công cụ nợ, vừa cho vay - mua công cụ nợ), thuộc về nhóm này là các ngân hàng, công ty
bảo hiểm; có thể là tổ chức môi giới cung cầu và hưởng hoa hồng, thuộc nhóm này là các
công ty chứng khoán, có thể là quỹ đầu tư - với chức năng tập trung vốn của các nhà đầu
tư cá thể và tổ chức và chuyên nghiệp hóa hoạt động đầu tư này.
- Cơ sở hạ tầng tài chính của thị trường tài chính: Là hệ thống pháp luật tài chính
(bao gồm cả cơ chế phá sản, quyền chủ nợ,.v.v.), mạng lưới an toàn tài chính, cơ sở hạ
tầng thanh khoản hệ thống; các hệ thống thanh toán bù trừ và hỗ trợ giao dịch; tính minh
bạch và quản trị, cơ sở hạ tầng thông tin .v.v.
1.2.Thị trường tài chính (TTTC)
1.2.1.Khái niệm thị trường tài chính
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 8
Thị trường tài chính có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp và các nhà đầu
tư. Thị trường tài chính tạo điều kiện chuyển giao các quỹ tiền tệ giữa doanh nghiệp
(người cần huy động vốn) và các nhà đầu tư (người đầu tư vốn để kiếm lời).
Ngoài ra, có nhiều khái niệm khác nhau về thị trường tài chính:
* Thị trường tài chính là thị trường tồn tại vật chất hoặc khái niệm, ở đó các tài sản
tài chính được giao dịch mua bán. Mục đích của thị trường tài chính nhằm thúc đẩy dòng
chảy của tiền tệ hoặc nguồn vốn từ thực thể thừa vốn (nhà đầu tư) sang thực thể thiếu vốn
(nhà phát hành chứng khoán) (theo Giáo trình international Financial Market – ATF
Luxembourg).
* Thị trường tài chính là thị trường giao dịch, trao đổi các nguồn vốn và tín dụng
trong nền kinh tế (theo Dictionary of Finance and Investment Terms).
* Thị trường tài chính là những cơ chế giàn xếp cho phép các công cụ tài chính
được mua bán trao đổi (theo Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright).
* Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn tài chính được kết chuyển từ
người có vốn dư thừa sang người thiếu vốn. Thông qua việc mua bán trao đổi các công cụ
tài chính, thị trường tài chính là tổng hòa các quan hệ cung cầu về vốn (theo Giáo trình
Đại cương thị trường tài chính - Học viện ngân hàng).
1.2.2.Chức năng của thị trường tài chính


Hình 3: Sơ đồ mô tả thị trường tài chính và chức năng của nó
Thị trường tài chính thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ
những người đã để dành nhiều vốn, vì họ chi tiêu nhiều hơn thu nhập của họ. Chức năng
này được trình bày ở dạng sơ đồ (Hình 3).
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 9
Trong tài chính trực tiếp những người đi vay vốn trực tiếp từ người cho vay trong
các thị trường tài chính bằng cách bán cho họ những chứng khoán (cũng còn gọi những
công cụ tài chính, những chứng khoán này là những trái quyền (quyền được hưởng) đối
với thu nhập hoặc tài sản trong tương lai của người vay. Trong khi chứng khoán là tài sản
có đối với người mua, thì chúng lại là tài sản nợ (một khoản nợ hay giấy nợ) đối với
những người hay tổ chức phát hành.
Thị trường tài chính cho phép vốn chuyển từ những người không có cơ hội đầu tư
sinh lợi tới những người có những cơ hội như thế. Làm việc này, thị trường tài chính đã
giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Nó cũng trực tiếp cải thiện
mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua của họ tốt
hơn. Nó cung cấp vốn cho mọi người mua cái họ cần và có thể cuối cùng có đủ khả năng
thanh toán trả mà không buộc họ phải chờ cho đến khi họ tiết kiệm đủ món tiền để mua.
Thị trường tài chính lúc đang hoạt động hữu hiệu sẽ cải thiện đời sống kinh tế của mỗi
người trong xã hội.
1.2.3.Cơ cấu thị trường tài chính
Cơ cấu thị trường tài chính có nhiều hình thức phân loại khác nhau tùy theo điều
kiện phân loại.
1.2.3.1.Theo công cụ tài chính
Gồm thị trường nợ và thị trường cổ phiếu.
1.2.3.1.1.Thị trường nợ
Phương pháp chung nhất là đưa ra một công cụ vay nợ, trong đó người vay thanh
toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong những khoảng thời gian đều đặn
(thanh toán lãi) cho tới một thời điểm qui định trước (ngày đáo hạn) là lúc đợt thanh toán
cuối cùng được thực hiện. Kỳ hạn của một công cụ nợ là thời gian tính tới ngày kết thúc
của công cụ. Một công cụ vay nợ là ngắn hạn nếu kỳ hạn thanh toán của nó là 1 năm hay ít

hơn và là dài hạn nếu kỳ hạn thanh toán của nó là 10 năm hoặc lâu hơn. Công cụ vay nợ
có kỳ hạn thanh toán giữa 1 và 10 năm được gọi là trung hạn.
1.2.3.1.2.Thị trường cổ phiếu
Phương pháp thứ hai để vay vốn là phát hành những cổ phần ví dụ như cổ phiếu
thường. Chúng là những quyền được đòi chia phần trong thu nhập ròng (sau khi trừ chi
phí và thuế) và tài sản của một hãng kinh doanh. Nếu bạn sở hữu một cổ phần trong một
công ty đã phát hành 1 triệu cổ phần, thì bạn được quyền có 1 phần triệu của thu nhập
ròng của công ty và 1 phần triệu tài sản của công ty. Cổ đông thường được thanh toán
định kỳ (lãi cổ phần) và những cổ phần vốn đó được coi là những chứng khoán dài hạn vì
chúng không có ngày đáo hạn. Điều bất tiện chính của việc sở hữu những cổ phần vốn của
một công ty khác với cho công ty vay một món nợ là ở chỗ một cổ đông là một người có
quyền đòi hưởng sau cùng, tức là công ty phải thanh toán cho tất cả những chủ nợ trước
khi thanh toán cho những cổ đông của công ty. Lợi ích của việc giữ các cổ phần vốn là ở
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 10
chỗ cổ đông được hưởng lợi trực tiếp do lợi nhuận và hoặc giá trị tài sản của công ty tăng
lên vì các cổ phần vốn ban quyền chủ sở hữu cho những cổ đông.
1.2.3.2.Theo nguồn gốc chứng khoán
Gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
1.2.3.2.1.Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành chứng khoán lần đầu tiên.
Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà chứng khoán đem lại vốn cho nhà phát hành.
Sau đó, việc mua bán các chứng khoán này trên thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không
làm ảnh hưởng đến số vốn của nhà phát hành. Cũng từ thị trường này mà lượng vốn đầu
tư cho nền kinh tế. Giá của chứng khoán trên thị trường sơ cấp (giá phát hành) do tổ chức
phát hành quy định.
Việc phát hành lần đầu tiên chứng khoán ra công chúng là giai đoạn quan trọng
nhất, vì nếu không đạt được kết quả tốt thì chứng khoán phát hành sẽ không tiêu thụ được
và làm mất uy tín của đơn vị phát hành. Không phải nhà phát hành nào cũng có đủ điều
kiện để thực hiện tốt việc phát hành nên trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung
gian giữa nhà phát hành và người đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành. Tùy thuộc vào

cung cầu, giá chứng khoán ở thị trường sơ cấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị danh
nghĩa của chứng khoán.
*Người bán và người mua trên thị trường sơ cấp: Hoạt động giao dịch ở thị trường
này thường được thực hiện theo hình thức bán buôn giữa nhà phát hành là bên cần huy
động vốn (công ty, các tổ chức tài chính, Chính phủ,.v.v ) và các nhà đầu tư lớn (các công
ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm,.v.v.).
Các nhà đầu tư đóng vai trò như nhà bảo lãnh đợt phát hành chứng khoán. Họ sẽ
mua lại toàn bộ số chứng khoán phát hành ra theo mức giá thoả thuận (thường là thấp hơn
mức giá công bố) rồi sau đó tiến hành bán lẻ ra thị trường cho các nhà đầu tư khác. Các
thỏa thuận về bảo lãnh chứng khoán thường được tổ chức riêng, kín nên hoạt động giao
dịch cụ thể tại thị trường sơ cấp thương không công khai. Là thị trường bán buôn chứng
khoán, hoạt động không liên tục.
1.2.3.2.2.Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán. Việc mua đi bán lại chứng
khoán trên thị trường thứ cấp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các chứng khoán chứ không
gia tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế (không trực tiếp mang lại vốn cho nhà phát hành). Giá
cả của chứng khoán giao dịch do quan hệ cung cầu quyết định. Trên thị trường thứ cấp
người mua và người bán là các nhà đầu tư. Thị trường thứ cấp là thị trường bán lẻ chứng
khoán, hoạt động liên tục.
*Mối quan hệ, tác động qua lại giữa hai thị trường:
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 11
Thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề để cho thị trường thứ cấp hoạt
động, nó tạo hàng hoá để mua bán trên thị trường thứ cấp.
Ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó có thể hoạt
động một cách trôi chảy được. Thị trường thứ cấp sẽ tạo tính lỏng cho các hàng hoá được
cung cấp từ thị trường sơ cấp (qua đó làm tăng tính hấp dẫn và tạo sự thuận lợi cho các
chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp). Thị trường thứ cấp cũng góp phần
xác định giá các chứng khoán phát hành trên thị trường sơ cấp.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý

thuyết. Trong thực tế, hoạt động của thị trường chứng khoán chúng ta không thể chỉ rõ ra
được đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp, bởi vì trong hoạt động của thị
trường chứng khoán vừa diễn ra việc phát hành chứng khoán vừa diễn ra việc mua đi bán
lại chứng khoán.
1.2.3.3.Theo phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường
Gồm thị trường tập trung và thị trường phi tập trung (OTC).
1.2.3.3.1.Thị trường tập trung
Thị trường tập trung là thị trường mà việc giao dịch mua bán chứng khoán được
thực hiện có tổ chức và tập trung tại một địa điểm nhất định. Ví dụ về thị trường tập trung
là các Sở giao dịch (thường được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ phần). Nơi đây sẽ
cung cấp các phương tiện và dịch vụ cần thiết để tiến hành giao dịch như: lưu ký chứng
khoán, bảng báo giá điện tử .v.v. Hoạt động mua bán chứng khoán tại Sở giao dịch buộc
phải thông qua các trung gian môi giới gọi là các nhà môi giới chứng khoán. Ghép lệnh
tập trung để hình thành giá giao dịch.
Các chứng khoán giao dịch tại thị trường này là những chứng khoán đã được đăng
ký yết giá (niêm yết).
1.2.3.3.2.Thị trường phi tập trung (OTC)
Thị trường phi tập trung là thị trường mà việc mua bán các chứng khoán chưa hoặc
không được niêm yết trên thị trường tập trung, được thực hiện phân tán ở những địa điểm
khác nhau. Các giao dịch này thường được thực hiện thông qua mạng máy vi tính.
Đặc điểm của thị trường OTC là: Nó không phải là thị trường hiện hữu và không có
địa điểm tập trung nhất định. Giao dịch diễn ra tại các quầy thông qua mạng máy vi tính.
Những ai bán hay mua loại chứng khoán nào với mức giá nào đều được hiển thị hết qua
mạng vi tính, do vậy tính cạnh tranh của thị trường này rất cao. Ngoài ra có thể bán trao
tay các chứng khoán (thị trường chợ đen, thị trường tự do). Giá cả trên thị trường này do
đó được hình thành theo nguyên tắc thoả thuận. Lượng giao dịch và giá trị giao dịch là lớn
hơn nhiều so với mua bán tại Sở giao dịch (theo thống kê của các nước phát triển).
1.2.3.4.Theo thời gian luân chuyển vốn
Gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 12

Hình 4: Cơ cấu thị trường tài chính theo thời gian luân chuyển vốn
1.2.3.4.1.Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn có thời gian
luân chuyển vốn không quá 1 năm. Thông thường các chủ thể đi vay trên thị trường này là
những chủ thể tạm thời thiếu hụt tiền tệ phục vụ cho các nhu cầu thanh toán. Do vậy, khi
thông qua các giao dịch mua bán quyền sử dụng vốn ngắn hạn mà thị trường tiền tệ đã
cung ứng một lượng tiền tệ cho các bên cần vốn nhằm thoả mãn nhu cầu thanh toán (cũng
chính vì lý do này mà nó được gọi là thị trường tiền tệ).
Những chủ thể cung vốn (cho vay) thì lại là những chủ thể tạm thời có vốn nhàn rỗi
(có thể là do chưa dùng tới hoặc đang tìm kiếm cơ hội đầu tư), do vậy họ tranh thủ chuyển
nhượng quyền sử dụng các khoản vốn nhàn rỗi của họ trong thời gian ngắn để hưởng lãi.
Tuy nhiên vì là đầu tư thời gian ngắn, đầu tư mang tính nhất thời những nhà đầu tư này
quan tâm không nhiều tới mức lãi mà quan tâm hơn tới độ an toàn, tính thanh khoản để có
thể rút vốn ngay khi cần. Các hình thức đầu tư như thế trên thị trường tiền tệ thường có độ
an toàn tương đối cao, nhưng lại thường có mức lợi tức thấp.
Khối lượng và giá trị giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có quy mô lớn nên
bên cho vay thường là các ngân hàng, công ty tài chính hoặc phi tài chính; còn bên vay
vốn thường là Chính phủ, các công ty và ngân hàng.
Chứng khoán mua bán trên thị trường tiền tệ thường được mua bán rộng rãi hơn
chứng khoán dài hạn và như vậy có xu hướng lỏng hơn. Chứng khoán ngắn hạn cũng có
biên độ dao động giá nhỏ hơn các chứng khoán dài hạn và do vậy chúng là khoản đầu tư
an toàn hơn.
Cấu trúc thị trường tiền tệ bao gồm: Thị trường cho vay ngắn hạn trực tiếp gồm có
thị trường chính thức và không chính thức, thị trường liên ngân hàng, thị trường mở, thị
trường hối đoái.
1.2.3.4.2.Thị trường vốn
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 13
Thị trường vốn là thị trường mua bán các chứng khoán nợ dài hạn (có thời gian
luân chuyển vốn trên 1 năm) và các chứng khoán vốn. Thị trường này cung cấp vốn cho
các khoản đầu tư dài hạn các doanh nghiệp, của chính phủ, và các hộ gia đình. Do thời

gian luân chuyển vốn trên thị trường này dài hạn hơn so với thị trường tiền tệ nên các
công cụ trên thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn và đi theo nó là mức lợi tức kỳ vọng cũng
cao hơn.
Thị trường tiền tệ là thị trường được hình thành trước vì ban đầu do kinh tế chưa
phát triển nên nhu cầu vốn và nhu cầu tiết kiệm vốn chưa nhiều chủ yếu là ngắn hạn. Sau
khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về các nguồn vốn dài hạn cho đầu tư xuất hiện thì thị
trường vốn ra đời. Bên cạnh việc huy động vốn dài hạn thông qua các định chế tài chính
trung gian thì chính phủ và các doanh nghiệp còn tự huy động vốn bằng cách phát hành
chứng khoán. Một khi chứng khoán ra đời thì tất yếu sẽ xuất hiện nhu cầu mua bán chứng
khoán. Chính vì thế mà thị trường chứng khoán ra đời với tư cách là một bộ phận của thị
trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi chứng khoán.
Cấu trúc thị trường vốn bao gồm: Thị trường tín dụng dài hạn gồm thị trường cho
vay thế chấp và thị trường cho thuê tài chính, thị trường chứng khoán.

Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn:
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên thị trường tài
chính cùng thực hiện một chức năng là cung cấp vốn cho nền kinh tế. Do đó các nghiệp vụ
hoạt động ở trên hai thị trường có mối liên quan bổ sung và tác động qua lại.
Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán
chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất của các ngân hàng trả cho người tiết kiệm
cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất
và rủi ro thấp hơn so với việc đầu tư vào chứng khoán. Bên cạnh đó, các biến đổi về giá cả
và lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn
như quan hệ cung cầu và giá của cổ phiếu và trái phiếu. Chẳng hạn như, một số chứng
khoán dài hạn có lãi suất thả nổi, căn cứ để điều chỉnh lãi suất là lãi suất tiền gửi ngắn hạn
của ngân hàng. Hay khi định giá của cổ phiếu hay trái phiếu tại một thời điểm bất kỳ nào
đó trên thị trường, người ta phải tham khảo lãi suất của ngân hàng được hình thành trên thị
trường tiền tệ. Giữa lãi suất thị trường và giá của trái phiếu có mối quan hệ tỷ lệ nghịch:
khi lãi suất của ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, trái phiếu sẽ sụt giá và tình hình
ngược lại khi lãi suất ngân hàng hạ xuống hơn lãi trái phiếu.

Ngược lại, các thay đổi về chỉ số giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng phản ảnh các
hiện tượng tốt hay xấu, đã đang hoặc sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ. Đối với thị trường
vốn, việc duy trì một lãi suất ổn định không thăng trầm quá đáng là cần thiết cho sự ổn
định của thị trường.
Trên thực tế, các hoạt động của thị trường tiền tệ và thị trường vốn được thực hiện
đồng bộ xen lẫn nhau, tác động và chịu sự ảnh hưởng của nhau, tạo thành cơ cấu hoàn
chỉnh của một thị trường tài chính.
1.2.4.Các công cụ của thị trường tài chính
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 14
Để tìm hiểu một cách đầy đủ về việc làm cách nào thị trường tài chính thực hiện
đươc vai trò quan trọng trong việc giúp vốn được chuyển từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu
vốn, ta sẽ đi nghiên cứu các phương tiện giúp thị trường tài chính lưu chuyển các khoản
vốn, đó chính là các công cụ tài chính hay còn gọi là các chứng khoán. Theo cách phân
loại thị trường tài chính dựa vào thời gian luân chuyển vốn, ta sẽ chia làm hai nhóm công
cụ, gồm: Các công cụ trên thị trường tiền tệ và các công cụ trên thị trường vốn.
Hình 5: Sơ đồ công cụ tài chính
*Các công cụ trên thị trường tiền tệ gồm: Tín phiếu kho bạc, các chứng chỉ tiền gửi
có thể chuyển nhượng được, thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng, hợp đồng mua lại, Euro
dollar, dự trữ vượt mức.
*Các công cụ trên thị trường vốn gồm: Trái phiếu (trái phiếu chính phủ và trái
phiếu công ty), cổ phiếu, các khoản vay thế chấp.
1.2.4.1.Các công cụ trên thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ mua bán các loại chứng khoán có tính lỏng cao – khả năng
chuyển đổi ra tiền cao, kỳ hạn dưới 1 năm. Thị trường tiền tệ là nơi để đầu tư ngắn hạn, có
đặc điểm: Tính thanh khoản cao và an toàn. Vì vậy lãi suất được hình thành trên thị trường
tiền tệ được xem là lãi suất cơ bản, đặc biệt lãi suất liên ngân hàng. Các công cụ trên thị
trường tiền tệ bao gồm:
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 15
*Tín phiếu kho bạc Nhà nước: Tín phiếu kho bạc Nhà nước là công cụ vay nợ ngắn
hạn của chính phủ do kho bạc phát hành để bù đắp những thiếu hụt tạm thời của NSNN.

Tín phiếu Kho bạc Nhà nước có các kỳ hạn 3; 6; và 12 tháng.
*Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được: Chứng chỉ tiền gửi là một
công cụ nợ do các ngân hàng phát hành, cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ
hoàn trả cả vốn gốc cho người gửi tiền khi đáo hạn. Đối với các khoản tiền dân cư gửi tiết
kiệm vào ngân hàng cũng được coi là chứng chỉ tiền gửi, cùng bản chất là khoản tiền gửi
vào ngân hàng và được ngân hàng cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi, trả gốc khi
đáo hạn nhưng chứng chỉ cho khoản tiết kiệm lại không chuyển nhượng được.
*Thương phiếu: Thương phiếu là giấy nhận nợ mà các công ty uy tín hoặc ngân
hàng phát hành để vay vốn ngắn hạn từ thị trường tài chính.
*Chấp phiếu ngân hàng: Chấp phiếu ngân hàng là các hối phiếu kỳ hạn do các công
ty ký phát và được ngân hàng đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu “chấp nhận” lên tờ
hối phiếu.
*Hợp đồng mua lại (REPO): Hợp đồng mua lại là hợp đồng trong đó ngân hàng
bán một lượng tín phiếu kho bạc mà nó đang nắm giữ kèm theo điều khoản cam kết rằng
sẽ mua lại số tín phiếu đó sau một khoảng thời gian nhất định với mức giá cao hơn.
*Dự trữ vượt mức: Mỗi ngân hàng khi nhận được một khoản tiền gửi sẽ phải trích
một tỷ lệ phần trăm nhất định gửi lên NHTW làm khoản dự trữ bắt buộc. Phần dự trũ bắt
buộc này sẽ một phần giúp cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán.
Lượng tiền vượt quá số tiền dự trữ bắt buộc thì được gọi là dự trữ vượt mức. Có số
tiền này là do số lượng tiền được gửi và ngân hàng mỗi ngày không như nhau và do đó
lượng dự trữ bắt buộc của ngày trước đó tính cho ngày hôm nay là thừa hoặc đôi khi một
số ngân hàng cần tăng mức dự trữ để gia tăng hệ số an toàn cho khả năng thanh toán, hoặc
do thị trường tài chính biến động ở mức khó dự báo .v.v.
Khi một ngân hàng nào đó chưa đủ lượng dự trữ bắt buộc tại NHTW, trường hợp
để đảm bảo yêu cầu đủ lượng dự trữ vượt mức theo luật định thì ngân hàng này sẽ vay
ngắn hạn lượng dự trữ vượt mức của ngân hàng khác bù vào số thiếu hụt đó.
*Euro dollars: Euro dollars là những đồng dollar Mỹ do các ngân hàng ngoại quốc
ở bên ngoài nước Mỹ hoặc do những chi nhánh ngân hàng Mỹ ở ngoại quốc nắm giữ.
Thời hạn giao dịch: Khi cần vốn, các ngân hàng của Mỹ có thể huy động dollar từ
nguồn cung như trên. Các giao dịch của đồng euro dolllar rất phổ biến và linh hoạt, đặc

biệt thời hạn có thể từ một ngày đến 6 tháng (hiếm các giao dịch kéo dài hơn 5 năm).
1.2.4.2.Các công cụ trên thị trường vốn
Công cụ thị trường vốn là các công cụ nợ và các công cụ vốn với kỳ hạn giao dịch
trên 1 năm. Kỳ luân chuyển vốn trên thị trường này dài hơn so với thị trường tiền tệ, độ
lệch chuẩn lớn hơn nhiều độ lệch của các công cụ trên thị trường tiền tệ nên rủi ro khi đầu
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 16
tư vào các công cụ này cũng cao hơn và lợi suất đem lại từ việc đầu tư cũng vì thế mà
nhiều hơn.
Như đã đề cập ở phần trên, thị trường vốn bao gồm thị trường chứng khoán và thị
trường vay nợ dài hạn. Các công cụ tài chính trên thị trường này biểu hiện dưới hình thức
công cụ vốn (cổ phiếu), các công cụ nợ dài hạn (các loại trái phiếu), các khoản vay thế
chấp. Ngoài ra tại các thị trường phát triển còn có các chứng từ có giá khác gọi là những
công cụ tài chính phái sinh được phát sinh trên cơ sở những chứng khoán đang lưu hành
như những chứng chỉ đầu tư do các công ty tín thác đầu tư phát hành, chứng chỉ đặc quyền
mua ngắn hạn rights, chứng chỉ đặc quyền mua dài hạn warrants; hợp đồng quyền chọn
options, future,.v.v. Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu hai công cụ điển hình và phổ biến
nhất là trái phiếu và cổ phiếu.
• Cổ phiếu:
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút
toán ghi sổ xác định rõ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối
với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần.
• Trái phiếu:
Trái phiếu là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của tổ chức phát hành phải trả
định kỳ cho người nắm giữ trái phiếu một khoản tiền xác định và hoàn trả vốn gốc khi trái
phiếu đáo hạn.
• Các khoản vay thế chấp:
Vay thế chấp là khoản tiền cho các cá nhân hoặc công ty vay đầu tư (mua hoặc xây
dựng) vào nhà, đất, hoặc những bất động sản khác, các bất động sản và đất đó sau đó lại
trở thành vật thế chấp để đảm bảo cho chính các khoản vay.
• Các khoản vay thương mại và tiêu dùng:

Đây là các món vay dành cho những công ty kinh doanh và người tiêu dùng, chủ
yếu là do các ngân hàng cung cấp. Riêng các khoản cho vay tiêu dùng cũng có thể do các
công ty tài chính cung cấp.
Các khoản vay này thường không chuyển nhượng được nên chúng kém lỏng nhất
trong các công cụ của thị trường vốn.
1.3.Các định chế tài chính
1.3.1.Khái niệm định chế tài chính
*Thuật ngữ định chế tài chính được hiểu theo gốc độ:
-Các tổ chức.
-Các nguyên tắc hoạt động của tổ chức.
*Định chế tài chính là tổ chức huy động các nguồn vốn để tài trợ cho các nhà đầu
tư (cho vay, chiết khấu .v.v.).
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 17
*Định chế trung gian tài chính là những tổ chức thực hiện huy động tiền của những
người tiết kiệm cuối cùng và sau đó cung cấp cho những người cần vốn cuối cùng.
Những người tiết kiệm (cuốicùng)
 Hộ gia đình
 Doanh nghiệp
 Chính phủ
Định chế tài chính
Những người cần vay vốn cuối cùng
 Hộ gia đình
 Doanh nghiệp
 Chính phủ
Hình 6: Định chế tài chính
1.3.2.Đặc điểm của định chế tài chính
*Các định chế tài chính là cơ sở kinh doanh được tổ chức và hoạt động để đạt được
các mục tiêu sinh lời nhất định.
*Mô tả hoạt động:
Các đầu vào

 Đất đai
 Lao động
 Vốn pháp định
 Quản lý
Định chế tài chính
Các đầu ra
 Huy động các khoản tiền tiết kiệm
 Cho vay
 Các dịch vụ tài chính khác
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 18
Hình 7: Mô tả hoạt động định chế tài chính
*Tiến trình tạo ra các đầu ra của các định chế tài chính gồm 2 giai đoạn:
• Huy động nguồn tiền của những người tiết kiệm cuối cùng: Các định chế tài chính phát
hành các loại tài sản tài chính của riêng nó như trái phiếu, kỳ phiếu, chức chỉ gửi tiền tiết
kiệm, tài khoản thanh toán để thu hút tiền nhàn rỗi của xã hội.
• Chuyển số vốn tiết kiệm này cho 1 số người cần vốn cuối cùng: Các định chế tài chính
tiến hành mua lại các loại tài sản tài chính do những đơn vị cần vốn cuối cùng phát hành
như thương phiếu, trái phiếu, các hợp đồng vay nợ, hợp đồng bảo hiểm .v.v.
*Các định chế tài chính đảm nhận những hoạt động trung gian như sau: Trung gian
mệnh giá, trung gian rủi ro ngầm định, trung gian kỳ hạn, trung gian thanh khoản, trung
gian thông tin.
1.3.3.Phân loại
Phân loại theo căn cứ vào đặc điểm hoạt động: Ngân hàng thương mại, các quỹ tiết
kiệm, các quỹ tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các loại quỹ tương
hỗ, các quỹ đầu tư .v.v.
1.3.4.Vai trò của định chế tài chính
*Các giả định:
-Các định chế tài chính trung gian là những nhà phân tích có năng lực.
-Các định chế tài chính trung gian tập trung nhiều và giá cả thị trường và điều
chỉnh danh mục đầu tư hợp lý. Vậy, vai trò của các định chế tài chính là:

*Khắc phục tình trạng thông tin bất đối xứng trên thị trường tài chính.
Trong giao dịch vốn: Người đầu tư lúc nào cũng nắm rõ thông tin về mức độ rủi ro
và tỷ suất sinh lời của dự án đầu tư mà anh ta đang tiến hành hơn là người cung cấp vốn.
Người cho vay ít có thông tin về nhà đầu tư.

Vấn đề này còn gọi là thông tin bất cân xứng: Khi đó sẽ xảy ra 2 vấn đề là làm
sao người thừa vốn không sẵn lòng cung cấp cho người cần vốn đó là: Lựa chọn bất lợi
và rủi ro đạo đức.
 Lựa chọn đối nghịch: Xảy ra trước khi giao dịch vốn.
Về phía doanh nghiệp: những người cần vốn gặp khó khăn về huy động vốn
thường có khuynh hướng đưa ra mức lãi suất huy động vốn rất cao (thị trường không phân
biệt tốt xấu, nếu doanh nghiệp tốt thì họ không đáng bị trừng phạt với lãi suất cao như
thế).
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 19
Về phía người tiết kiệm: do không biết rõ lịch sử và đặc điểm của người cần vốn
nên người cung cấp vốn không sẵn lòng cung cấp vốn hoặc nếu có cung cấp vốn thì mức
giá cho vay cũng tương hợp với tình trạng tài chính của người đi vay.
 Rủi ro đạo đức: Xảy ra sau khi thực hiện giao dịch vốn (cố ý làm liều).
Những hợp đồng vay nợ có đặc điểm là mức lãi suất cố định, vì vậy khi vay được
vốn các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng vốn vay đầu tư vào những dự án có lãi suất
cao hơn nhưng lại có nhiều rủi ro tiềm năng
Trong khi đó, người cho vay không có đủ khả năng để giám sát những hoạt động
của người đi vay sau khi đã cung cấp vốn để đảm bảo rằng người đi vay không dùng số
tiền vay đầu tư vào những dự án có nhiều rủi ro.
*Các định chế trung gian tài chính có khả năng vượt trội trong việc giải quyết vấn
đề “thông tin bất cân xứng và hai vấn đề liên đới là lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức”
,tiếp cận các thông tin cá nhân của người vay tiền và kiểm soát những hoạt động đầu tư
của người đi vay.
*Góp phần giảm chi phí giao dịch của xã hội:
-Chi phí giao dịch là chi phí liên quan đến tiền và thời gian để thực hiện các giao

dịch tài chính. Trong giao dịch trực tiếp, người vay vốn phải bỏ ra thời gian để tìm kiếm
những người cho vay vốn với mức lãi suất hợp lý.
-Đối với người tiết kiệm để quyết định cho vay vốn cần phải trải qua 2 công đoạn:
(1)Tìm người cần vốn đáng tin cậy, (2)Thiết lập hợp đồng vay vốn chặt chẽ.
-Thực hiện các hợp đồng này đòi hỏi người tiết kiệm phải bỏ ra một lượng chi phí
nhất định.
Các định chế tài chính trung gian có ưu thế tạo ra kinh tế quy mô thông qua tập
trung những quỹ tiền tệ có quy mô nhỏ của những cá nhân tiết kiệm và đa dạng hóa các
nghiệp vụ sử dụng vốn. Với kinh tế quy mô, các định chế trung gian tài chính đã gộp tất cả
giao dịch tài chính riêng lẻ của từng cá nhân nên đã làm giảm đi nhiều chi phí giao dịch
của xã hội rất lớn. Bằng việc giảm đi chi phí giao dịch, các định chế trung gian tài chính
mang lại lợi ích cho người tiết kiệm và người đi vay.
1.4.Cơ sở hạ tầng tài chính
Cơ sở hạ tầng tài chính là khuôn khổ các luật lệ và hệ thống làm nền tảng để các
doanh nghiệp, nhà đầu tư, cá nhân lập kế hoạch và thực hiện các giao dịch tài chính với
các trung gian tài chính. Cơ sở hạ tầng tài chính hỗ trợ và thúc đẩy sự hoạt động hiệu quả
các hệ thống tài chính. Cơ sở hạ tầng tài chính phải được phát triển dựa trên sáng kiến của
người tham gia thị trường. Thị trường hoạt động hiệu quả khi những người tham gia thị
trường tự điều tiết các cơ chế điều tiết, tạo ra sự tương thích giữa các động cơ khuyến
khích và hành vi. Theo kinh nghiệm, việc thành lập các hiệp hội tự quản để điều tiết thị
trường tỏ ra rất hiệu quả. Tuy nhiên, cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng phát huy
tác dụng, mà cần có sự tác động của nhà nước. Các thành phần của cơ sở hạ tầng bao gồm:
*Hệ thống luật pháp và quản lý nhà nước: Nhà nước có vai trò quan trọng trong
phát triển cơ sở hạ tầng tài chính. Đặc biệt để đáp ứng mục tiêu can thiệp và đảm bảo sự
ổn định tài chính cũng như giải quyết các vấn đề ngoại tác, thông tin bất cân xứng, tâm lý
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 20
ỷ lại (cố ý làm liều), các quy định của nhà nước cần tập trung là: Quy định cấu trúc, quy
định an toàn, bảo vệ nhà đầu tư. Cụ thể là quy định về cấp giấy phép hành nghề, những
yêu cầu mình bạch thông tin, bảo hiểm tiền gởi, giới hạn các nghiệp vụ hoạt động, quy
định tính lỏng, dự trữ ngân quỹ, quy định vốn pháp định, quy định các giao dịch tài chính

(ngoại hối .v.v.).
*Hệ thống giám sát, thực thi: Nguồn nhân lực và hệ thống giám sát có ảnh hưởng
quyết định đến hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật dù có đầy đủ và hoàn thiện nhưng
hiểu không đúng thực hiện không tốt và giám sát không hiệu quả sẽ làm hệ thống tài chính
phát triển không bên vững.
*Hệ thống thông tin: Luật và thông lệ kế toán, kiểm toán, phòng đăng ký và lưu trữ
thông tin tín dụng, tổ chức định mức tín nhiệm.
*Hệ thống thanh toán và hỗ trợ dịch vụ chứng khoán: Là một nghiệp vụ thanh
toán không dùng tiền mặt do các ngân hàng trung gian cung cấp nhằm phục vụ các dịch vụ
chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Hệ thống nay thường ở một ngân hàng đứng ra
đảm nhận với mục tiêu tạo ra sự thuận lợi trong việc đối chiếu, kiểm soát khi thanh toán
và giảm thời gian thanh toán cho các giao dịch.
*Nguồn nhân lực làm việc trong ngành tài chính.
1.5.Đo lường sự phát triển của hệ thống tài chính
Mức độ phát triển tài chính được đo bởi các yếu tố sau:
*Tỷ lệ của tín dụng cho khu vực tư nhân so với GDP và so với tổng tín dụng.
*Độ sâu tài chính [M2(M3)/GDP]: Cho biết quy mô của khu vực trung gian tài
chính so với nền kinh tế. Hệ thống tài chính với nhiều loại tài sản tài chính sẽ khuyến
khích tiết kiệm và gia tăng đầu tư. Khi đó người tiết kiệm sẽ tìm thấy nhiều cơ hội đầu tư
trong hệ thống tài chính và nhà đầu tư có thể tiếp cận nguồn tiết kiệm trên thị trường để
gia tăng vốn đầu tư.
*Số lượng vốn hóa của thị trường tài chính.
*Biên lãi suất.
*Vai trò tương đối của các ngân hàng thương mại so với ngân hàng trung ương.
*Chỉ số tự do hóa khu vực tài chính, ngân hàng v.v.
1.6.Hệ thống tài chính một số nước tiêu biểu
1.6.1.Hệ thống tài chính Mỹ
Trước tiên ta cần tìm hiểu qua về đồng USD của Mỹ. Đồng USD là một đồng tiền
được xem là mạnh nhất thế giới hiện nay. USD được coi là đồng tiền quốc tế, biến động
của nó ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới. USD được mọi quốc gia trên thế giới tin dùng,

vì đứng sau nó là hệ thống tài chính hùng mạnh nhất thế giới. Chính sách kinh tế thương
mại đều được quy định bởi mô thức phát triển, tính chất và trình độ của sức sản xuất, vai
trò và vị thế của chúng trong nền kinh tế thế giới. Chính sách kinh tế thương mại của Mỹ
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 21
mang đặc tính chi phối thế giới và các xu hướng phát triển quốc tế. Điều này được quy
định bởi đặc điểm và tiềm lực của nền kinh tế Mỹ. Thứ nhất, kinh tế Mỹ là một nền kinh
tế hùng hậu và hiệu quả nhất. Thứ hai, Hoa Kỳ là một quốc gia chi phối hầu hết các tổ
chức kinh tế quốc tế như: GATT, WTO, WB, IMF.v.v. Thứ ba, đồng USD có vai trò thống
trị thế giới.
Sự ra đời của GATT, EU, sự xuất hiện của NAFTA, AFTA, sự hình thành của WTO
đều mang dấu ấn của Mỹ hay Mỹ luôn giữ vai trò chủ đạo hoặc chí ít có ảnh hưởng đến sự
vận hành của chúng. Hoa Kỳ giữ vai trò chủ chốt trong NAFTA, vai trò dẫn dắt APEC và
WTO. Ngay cả đối với ASEAN và AFTA, Hoa Kỳ không là thành viên song lại là một bên
đối thoại quan trọng nhất của các tổ chức này.
1.6.2.Hệ thống tài chính Châu Âu
Châu Âu có một hệ thống tài chính khá lớn và hoàn thiện. Trung tâm Châu Âu
ngày càng trở nên hấp dẫn với bên ngoài bởi độ lớn và tính tin cậy, khả năng thanh khoản
cao của thị trường này. Đồng EURO ra đời được dự đoán là sẽ có ảnh hưởng lên cấu trúc
của hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính Châu Âu có truyền thống phụ thuộc vào hệ
thống ngân hàng thương mại, đây là điểm yếu của Châu Âu trong quá trình cạnh tranh với
Mỹ về vấn đề tài chính. Đồng EURO ra đời sẽ khắc phục điểm yếu này, đem lại sức mạnh
mới cho hệ thống tài chính của mình. Đồng EURO ra đời, thị trường tiền tệ Châu Âu
nhanh chóng hội nhập, tính thanh khoản ở thị trường tiền tệ châu Âu đã nhanh chóng đạt
được mức tương đối cao.
Việc hội nhập ở mức độ cao các thị trường tiền tệ khu vực đồng EURO trước tiên
là kết quả của một chính sách tiền tệ duy nhất, được điều hành thông qua một khung hoạt
động hài hòa của hệ thống đồng EURO. Sự hội nhập này còn là kết quả từ sự hội nhập
nhanh chóng và có ý nghĩa của hệ thống thanh toán. Việc thanh toán qua biên giới các
nước, qua hệ thống TARGET (Transeuropcan Automated Read Time Gross Settlement
Express Transfer- hệ thống thanh toán tự động đồng EURO toàn châu Âu), sử dụng liên

tục ở mức độ cao mô hình đại lý giữa các NHTW các nước thành viên- mô hình mà các
đối tác sử dụng trong hoạt động chính sách tiền tệ - để chuyển giao đồ vật ký quỹ qua biên
giới giữa các quốc gia là những dấu hiệu cho thấy sự hội nhập rộng rãi trên toàn khu vực.
Những người tham gia vào thị trường trên cả 11 nước thành viên của khu vực đồng EURO
đều có xu hướng tin tưởng vào các công cụ tài chính được giao dịch.
1.6.3.Hệ thống tài chính Trung Quốc
Về hình thức, hệ thống tài chính Trung Quốc có cấu trúc kiểu châu Âu. Các ngân
hàng thống lĩnh hệ thống tài chính Trung Quốc, cung cấp khoảng 3/5 tổng lượng tín dụng
cho khu vực tư nhân. Hệ thống ngân hàng Trung Quốc khá tập trung với năm ngân hàng
lớn chia nhau nắm giữ tới 50% thị trường cho vay. Khác biệt đáng kể nhất ở Trung Quốc
là mức độ sở hữu và kiểm soát cao của Nhà nước với hệ thống tài chính. Ngân hàng trung
ương có sở hữu lớn tại năm ngân hàng lớn nhất nước này. Nhà nước cũng nắm phần lớn
cổ phần tại nhiều ngân hàng khác. Hơn thế, Nhà nước còn có khả năng can thiệp vào các
quyết định của ngân hàng với mức độ chủ động vượt xa phương Tây. Quan trọng nhất,
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 22
ngân hàng trung ương đặt ra mức trần lãi suất tiền gửi và mức sàn lãi suất cho vay, và
cũng thường đưa ra luôn cả các mức mục tiêu về khối lượng cho vay. Các nhà lãnh đạo ở
các cấp khác nhau đều có thể tác động vào quyết định của ngân hàng, bao gồm cả việc tác
động vào sự nghiệp của các quan chức ngân hàng, những người thường được luân chuyển
vào các vị trí trong chính quyền.
Thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc đang nỗ lực định hình lại nền kinh tế Trung
Quốc, chuẩn bị cho một thời kỳ tăng trưởng thấp, đồng thời, giải quyết hàng loạt thách
thức chính sách khác – chẳng hạn như cải thiện chất lượng sống và thu hẹp khoảng cách
giàu nghèo. Cải cách hệ thống tài chính giữ vai trò then chốt với kết cục thành công của
các chương trình cải cách trong các lĩnh vực khác ở Trung Quốc, bởi những điều chỉnh
trong khu vực tài chính sẽ làm thay đổi cách thức xác định giá và phân bổ tín dụng trong
nền kinh tế, tạo ra động lực đúng cho quá trình thay đổi. Nếu các ngân hàng Trung Quốc
vẫn tiếp tục cho các công ty nhà nước vay không giới hạn thì các doanh nghiệp tư nhân –
khu vực tạo ra động lực tăng trưởng đáng kể cho kinh tế Trung Quốc – không còn cách
nào khác là tìm tới hệ thống ngân hàng phi chính thức. Thực tế này lý giải sự tăng trưởng

mạnh mẽ của hệ thống “shadow banking” vốn hầu chỉ bị kiểm soát lỏng lẻo.
CHƯƠNG 2. CƠ CHẾ ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG
TÀI CHÍNH
Sự phát triển của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh việc mang lại những cơ hội
lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ khủng
hoảng. Trước tình hình kinh tế ngày càng phát triển và có nhiều biến động phức tạp,
những hiện tượng như sự sụp đổ của thị trường cổ phiếu, sự nổ tung của các bong bóng
giá tài sản tài chính, khủng hoảng tiền tệ, vỡ nợ quốc gia .v.v. là những thất bại tài chính
nghiêm trọng. Một trong những lý do quan trọng chính là sự thất bại của hệ thống điều tiết
và giám sát hệ thống tài chính. Do vậy, việc điều tiết và giám sát hệ thống tài chính hiệu
quả ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng.
2.1.Khái niệm hoạt động điều tiết và giám sát hệ thống tài chính
Hoạt động điều tiết và giám sát hệ thống tài chính là hoạt động điều tiết, giám sát
đối với các định chế tài chính, thị trường tài chính và hạ tầng cơ sở tài chính được thực
hiện bởi các cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động này được thực hiện nhằm đảm bảo việc
tuân thủ các quy định quản lý hiện hành đối với khu vực tài chính, với mục đích cuối cùng
là để duy trì tính ổn định của thị trường tài chính.
2.2.Mục đích của hoat động điều tiết và giám sát tài chính
*Đảm bảo sự ổn định và phát triển của khu vực tài chính:
Mục đích của giám sát tài chính nhằm đảm bảo các định chế tài chính tuân thủ các
chuẩn mực an toàn do các chủ thể giám sát đặt ra. Bằng cách đó khu vực tài chính có đủ
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 23
sức chống đỡ các cú sốc bên ngoài cũng như các tác động tiêu cực từ các thị trường khác
trong và ngoài nước. Điều này cũng có nghĩa là đảm bảo cho các định chế tài chính đủ sức
tham gia thị trường và cạnh tranh một cách bình đẳng, đồng thời loại bỏ các định chế
không đủ điều kiện tham gia và cạnh tranh cung ứng dịch vụ tài chính trên thị trường.
*Đảm bảo sự lành mạnh của các định chế tài chính:
Một trong những yêu cầu của hoạt động điều tiết và giám sát tài chính là đảm bảo
sự cạnh tranh lành mạnh giữa những chủ thể cung cấp sản phẩm, dịch vụ tài chính trên thị
trường, giám sát yêu cầu minh bạch thông tin và tạo cơ chế khai thác và công bố thông tin,

giám sát tiêu chí gia nhập thị trường, hạn chế tình trạng độc quyền và sự chi phối của các
chủ thể điều tiết có nguy cơ làm suy giảm mức độ cạnh tranh của khu vực tài chính. Cạnh
tranh sẽ làm tăng hiệu quả của thị trường tài chính thông qua việc cải thiện khả năng tiếp
cận và định giá các dịch vụ tài chính, hạn chế các hoạt động làm tổn thương đến thị trường
tài chính, phân bổ hợp lý nguồn lực đối với các tổ chức trên thị trường.
*Bảo vệ người tiêu dùng:
Các quy định quản lý đối với khu vực tài chính được thiếp lập thông qua các quy
định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các định chế tài chính cũng như các quy
định về đạo đức kinh doanh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng trên
thị trường tài chính (người gửi tiền, các nhà đầu tư nhỏ lẻ trên thị trường chứng khoán,
những người tham gia/ mua bảo hiểm). Bảo vệ người tiêu dùng là điều chỉnh những sự
không hoàn hảo của thị trường (tình trạng thông tin bất cân xứng, năng lực tư vấn khách
hàng yếu kém, xử lý tranh chấp không công bằng.v.v.) gây ra và do đó cho phép người
tiêu dùng có thể tiếp cận với các dịch vụ, sản phẩm tài chính với mức giá tương xứng với
chất lượng dịch vụ, sản phẩm và được xử lý tranh chấp, khiếu kiện một cách công bằng.
*Đảm bảo hiệu quả của hệ thống tài chính:
Hiểu rõ tình hình tài chính của một quốc gia từ đó có những chính sách điều tiết và
giám sát hiểu quả. Để góp phần làm cho quốc gia phát triển ổn định tránh những rủi ro
trong hệ thống tài chính.
2.3.Chức năng của giám sát hệ thống tài chính
- Giám sát ổn định vĩ mô.
- Giám sát an toàn vi mô.
- Giám sát hành vi kinh doanh.
2.4.Nội dung của hoạt động điều tiết và giám sát tài chính
*Giám sát sự an toàn, lành mạnh tài chính của các định chế tài chính, đặc biệt là
của các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm nhân thọ vì nếu xảy ra việc phá sản
của các định chế này sẽ gây ra hiệu ứng lan truyền và tạo ra sự bất ổn cho khu vực tài
chính.
*Điều tiết và giám sát các hành vi giao dịch của các định chế tài chính trên thị
trường tài chính (đặc biệt là hành vi giao dịch của các công ty môi giới chứng khoán, các

ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 24
quỹ đầu tư, .v.v. trên thị trường chứng khoán) nhằm đảm bảo môi trường giao dịch tài
chính lành mạnh, minh bạch, bình đẳng đối với tất cả người tiêu dùng tham gia trên thị
trường tài chính.
*Điều tiết và giám sát diễn biến của thị trường tài chính (lãi suất, tỷ giá, giá cả các
công cụ tài chính, khối lượng giao dịch, tính thanh khoản,.v.v.) nhằm đảm bảo phát hiện,
giảm thiểu những bất cập, rủi ro của thị trường, góp phần thúc đẩy sự vận hành hiệu quả
của thị trường tài chính đối với việc phân bổ hợp lý các nguồn vốn cho nền kinh tế.
*Điều tiết và giám sát hạ tầng cơ sở tài chính (hệ thống pháp lý về hoạt động tài
chính, về hoạt động giám sát tài chính, hệ thống hỗ trợ thanh khoản, hệ thống bảo hiểm
tiền gửi,.v.v.) nhằm đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho sự vận hành hiệu quả của thị
trường tài chính đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
2.5.Quy định điều tiết khu vực tài chính
2.5.1.Khu vực ngân hàng
Khu vực ngân hàng được quản lý bởi Ngân hàng thanh toán Quốc tế (Bis) với các
nguyên tắc về giám sát ngân hàng.
Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), hiểu một cách đơn giản là hiệp hội ngân
hàng trung ương của các nước phát triển với các cấu phần quan trọng như: Ủy ban Basel
về giám sát hoạt động ngân hàng, Ủy ban về hệ thống thanh toán toàn cầu, Ủy ban về hệ
thống tài chính toàn cầu, đóng vai trò như một tổ chức chuyên nghiên cứu và xây dựng
các chuẩn mực cho hoạt động tài chính toàn cầu, ví dụ như Basel II với ba trụ cột là đủ
vốn, giám sát hoạt động và tuân thủ kỷ luật thị trường được xem là chuẩn mực chung và
quan trọng nhất đối với hoạt động tài chính toàn cầu.
Theo BIS, nguyên tắc cơ bản đầu tiên mà các cơ quan giám sát phải tuân thủ trong
giám sát ngân hàng là có mục tiêu và trách nhiệm rõ ràng, độc lập trong hoạt động chức
năng và có đủ các nguồn lực cần thiết. Một khung pháp lý phù hợp cũng được xem như là
điều kiện tiên quyết nhằm giám sát ngân hàng hiệu quả. Thông qua khung pháp lý này, cơ
quan giám sát có quyền lực phù hợp để thực thi nhiệm vụ chức năng của mình và tuân thủ
nghiêm ngặt pháp luật. Cơ quan giám sát có quyền hạn giải quyết mọi vấn đề nảy sinh
nhằm bảo đảm an toàn và lành mạnh cho hệ thống ngân hàng, kiểm soát hoạt động ngân

hàng thông qua kiểm soát việc cấp phép tham gia hoạt động ngân hàng, có khả năng hạn
chế hoạt động mua lại ngân hàng và kiểm soát sự chuyển giao quyền sở hữu ngân hàng.
Đối với các ngân hàng cung cấp dịch vụ quốc tế, nguyên tắc của BIS nêu rõ, cơ quan giám
sát nên thực hiện hoạt động giám sát tổng thể chặt chẽ trên phạm vi toàn cầu, kiểm soát và
áp dụng đầy đủ các tiêu chuẩn thận trọng đối với mọi mặt của hoạt động kinh doanh của
ngân hàng quốc tế trên toàn cầu, chủ yếu là tại các chi nhánh nước ngoài.Sự nhấn mạnh
vào hoạt động giám sát tổng thể chặt chẽ trên phạm vi toàn cầu này đã phản ánh những
quan ngại của BIS về sự bất ổn của hệ thống ngân hàng. Nhằm đạt được sự giám sát tổng
thể chặt chẽ đòi hỏi sự phối kết hợp của các cơ quan giám sát khác nhau.
Hiện nay, có rất nhiều quốc gia trên thế giới quản lý hệ thống tài chính ngân hàng
của mình theo những nguyên tắc giám sát do Basel đưa ra.Uỷ ban Basel về giám sát
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Trang 25

×