! "#$%&#'()
*+, /0123'3/4/
567,'4-892%-8:;!82<
-=>>?<@A8>B:3-28C8-DE
Đề tài:
LÃI SUẤT VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở
VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
,80F,G!G!0HIJ*K< L
! "#$%&#'()
,80F ,G!G!0HIJ*K<
%"F 2M%&#
N F '(#)
"F #$
<1212
CHƯƠNG I 5
,80F,G!G!0HIJ*K< &
;!8O2P<Q
#RS&#LL
! "#$%&#'()
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 5
7-<T'U>
,80F,G!G!0HIJ*K< R
! "#$%&#'()
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, nền kinh
tế toàn cầu hồi phục chậm sau cuộc khủng hoảng, nhưng nền kinh tế Việt Nam đã sớm
thoát ra khỏi tình trạng suy giảm này và lấy lại đà tăng trưởng. Tuy nhiên, Việt Nam
vẫn đang đối mặc với những khó khăn và thách thức trước mắt về các vấn đề như lạm
phát, nhập siêu và nợ công. Những bất ổn này không chỉ cản trở tăng trưởng kinh tế
trong ngắn hạn, mà còn làm xói mòn sự tăng trưởng bền vững trong trung hạn, và có
thể làm suy yếu đi tiềm năng tăng trưởng trong dài hạn.
Vì vậy, mục tiêu trước mắt của nền kinh tế Việt Nam vẫn là ổn định kinh tế vĩ
mô, duy trì tăng trưởng kinh tế, đồng thời từng bước chuyển đổi mô hình kinh tế. Để
thực hiện những điều này, Ngân hàng Nhà nước giữ một vai trò quan trọng trong việc
điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ và các hoạt động của ngân hàng.
Trong đó, vẫn đề về lãi suất và tỷ gá hối đoái là hai vấn đề có ảnh hưởng rất lớn đến
nền kinh tế hiện nay.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó, nhóm 06 quyết định chọn đề tài tiểu luận
nghiên cứu cho nhóm mình là “Lãi suất và tỷ giá hối đoái ở Việt Nam – Thực trạng và
giải pháp”. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là khái quát về tình hình lãi suất và tỷ giá
hối đoái ở Việt Nam trong thời gian qua, cũng như ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế
Việt Nam. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp nhằm
ổn định lãi suất và tỷ giá hoái đoái trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài nghiên cứu gồm 02 phần chính, cụ thế:
- Chương 1: Lý luận chung về lãi suất và tỷ giá hối đoái.
- Chương 2: Thực trạng và giải pháp về lãi suất và tỷ giá hối đoái ở Việt
Nam hiện nay.
Do thời gian nghiên cứu của đề tài ngắn và trước những biến động bất thường
của nền kinh tế thế giới, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam, do vậy, trong
quá trình phân tích không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự hướng dẫn chỉnh
sửa bổ sung của cô và các bạn đề đề tài được hoàn thiện.
,80F,G!G!0HIJ*K< V
! "#$%&#'()
286W,-
A>?28>,DX-G>Y3Z, 8[-'/
L!L!
L!L!L! % \]]F
L!L!L!L! %F
Lãi suất là tỷ lệ số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời
gian nhất định. Lãi suất là cái mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở
hữu của họ và là lợi tức mà người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
,80F,G!G!0HIJ*K< )
! "#$%&#'()
L!L!L!&! ;\]F
a) Phân loại theo tính chất của khoản vay:
^ Lãi suất cơ bản: là lãi suất gốc để các tổ chức tín dụng căn cứ vào đó hoặc
tham chiếu mà hình thành lãi suất kinh doanh của mình. Ở Việt Nam, lãi suất cơ bản do
NHNN quy định.
- Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình
thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của
khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá.
- Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi NHNN cho các ngân hàng trung gian
vay dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa
đến hạn thanh toán của các ngân hàng này.
- Lãi suất thị trường tiền tệ: Là lãi suất cho vay lẫn nhau giữa các ngân hàng
được hình thành trên thị trường tiền tệ.
b) Phân loại theo giá trị thực của tiền lãi:
^Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ hay
nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
- Lãi suất thực: là lãi suất điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về
lạm phát, hay nói cách khác, là loại lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Ngoài ra còn nhiều cách phân loại khác như: phân loại theo thời gian, phân
loại theo loại tiền vay….
L!L!&! 2\H_]F
L!L!&!L! <`abF
Cung cầu tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để giao dịch thanh toán trên thị
trường.
- Khi NHNN muốn kiềm chế lạm phát sẽ thực hiện một chính sách thắt chặt tiền
tệ thông qua các công cụ: dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, hạn mức tín dụng làm cho
mức cung tiền tệ giảm, dẫn đến tăng lãi suất.
- Khi nền kinh tế suy thoái, NHNN thực hiện tăng mức cung tiền tệ bằng cách
bơm tiền ra lưu thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ dẫn đến lãi suất có xu hướng
giảm xuống, lượng tín dụng cho nền kinh tế được mở rộng.
L!L!&!&! GcdaPefF
^Cung tín dụng là khối lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể
khác nhau trong xã hội.
- Cầu tín dụng là nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng
của các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế.
- Ảnh hưởng của cung – cầu tín dụng đến hình thành lãi suất trên thị trường
không phải là tác động một chiều. Lãi suất tăng hay giảm cũng tác động mạnh mẽ đến
cung – cầu vốn tín dụng.
L!L!&!R! Gcd]]
- Nhân tố này có ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của lãi suất. Bởi lẽ sự tăng
hay giảm tỷ lệ lạm phát kéo theo sự biến động của giá trị tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến lợi
ích kinh tế của người cho vay. Nếu tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất phải tăng theo và ngược
lại. NHNN sử dụng lãi suất tín dụng làm công cụ kiềm chế lạm phát. Khi lạm phát tăng
cao, NHNN điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi để làm hạ cơn sốt lạm phát.
- Mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất được biểu hiện qua công thức:
Lãi suất danh thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát
L!L!R! gd]F
,80F,G!G!0HIJ*K< $
! "#$%&#'()
L!L!R!L! %PP]hPijklb_l
Một trong những hình thức đầu tư có tính an toàn khá cao đối với người dân là
gửi tiền vào ngân hàng. Để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, lãi suất
là một trong những biện pháp hấp dẫn mà các ngân hàng thường sử dụng.
L!L!R!&! ]mf \ QlPPnef"o
bpcaH
Trong nền kinh tế thị trường, nếu tạo ra được mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ
suất lợi nhuận bình quân sẽ có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư,
mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn
vay ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng làm tổng thu nhập quốc dân tăng lên.
L!L!R!R! ]mf]HqK`lrdbl_
Mỗi một sự biến động, dù là nhỏ nhất cũng ảnh hưởng đến hoạt động của mỗi cá
nhân, tổ chức và của cả nền kinh tế. Người ta có thể căn cứ vào sự biến động của lãi suất
để dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức
lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách. Các yếu tố này hợp thành chỉ tiêu “sức khỏe”
của nền kinh tế. Người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình
kinh tế trong tương lai.
L!L!R!V! ]mfb_l_smd8
- Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, NHNN có thể tăng lãi suất tiền gửi để
rút tiền từ lưu thông về làm giảm tỷ lệ lạm phát, tạo điều kiện để sức mua của ổn định,
đảm bảo cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế đã suy
thoái, NHNN thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ để chống suy thoái và lãi suất giảm
xuống.
- Thông qua lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh khối lượng cho vay đối với các
NHTM, nghĩa là điều chỉnh khối lượng cung ứng tiền vào lưu thông. Từ đó mở rộng hay
thu hẹp sản xuất, tăng hay giảm công ăn việc làm.
- Tăng hay giảm lãi suất tín dụng, sẽ ảnh hưởng đến tăng hay giảm số lượng
ngoại tệ trong nước. Vì vậy ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ, dẫn đến sự thay đổi
tỷ giá do đó ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu hàng hóa trong từng thời kỳ.
L!&!F
L!&!L! %F
Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là ) là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai
đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá của một đồng tiền
này tính bằng giá của một đồng tiền khác.
L!&!&! 2\H_
L!&!&!L! GtHuudbl_F
Mức độ tăng giảm GDP thực tế sẽ làm tăng, giảm cung cầu về ngoại tệ từ đó làm
cho tỷ giá đồng nội tệ so với ngoại tệ giảm đi hoặc tăng lên.
L!&!&!&! ]] dbl_F
,80F,G!G!0HIJ*K< v
! "#$%&#'()
Lạm phát làm suy giảm sức mua đối ngoại của đồng tiền trong nước so với ngoại
tệ và làm cho tỷ giá hối đoái của tiền trong nước biến động. Nếu mức lạm phát của một
nước mà cao hơn so với một nước khác thì đồng tiền nước đó sẽ có sức mua thấp hơn và
do đó tỷ giá hối đoái của đồng tiền đó so với tiền nước ngoài sẽ giảm (nói cách khác tỷ giá
ngoại tệ khi đó sẽ tăng lên). Nếu tỷ lệ lạm phát tăng cao và kéo dài, đồng tiền càng mất
giá mạnh và tỷ giá hối đoái của nó sẽ giảm nhiều.
L!&!&!R! 8\o_F
Cán cân thanh toán quốc tế có thể rơi vào 1 trong các trạng thái sau: Cân bằng,
bội chi, bội thu.
Nếu cán cân thanh toán quốc tế thăng bằng, thì cung cầu về ngoại tệ cân bằng,
khi đó tỷ giá hối đoái sẽ ổn định.
Nếu cán cân thanh toán bội chi thì cầu về ngoại tệ vượt cung về ngoại tệ dẫn đến
tỷ giá ngoại tệ tăng lên.
Nếu cán cân thanh toán quốc tế bội thu thì cung về ngoại tệ lớn hơn cầu về ngoại
tệ, khi đó tỷ giá ngoại tệ giảm.
L!&!&!V! <`(]]F
Ở thị trường nào có mức lãi suất ngoại tệ ngắn hạn cao hơn thì những luồng vốn
ngoại tệ ngắn hạn có xu hướng đổ về thị trường đó để tìm kiếm lợi nhuận, do đó làm cho
cung về ngoại tệ tăng lên, cầu về ngoại tệ giảm đi, làm cho tỷ giá ngoại tệ đi theo xu
hướng giảm.
Sự chênh lệch lãi suất giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ sẽ tác động đến xu
hướng đầu tư và ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Nếu lãi suất ngoại tệ cao hơn lãi suất nội
tệ thì sẽ có xu hướng chuyển sang đầu tư vào đồng ngoại tệ, cầu về ngoại tệ sẽ tăng, dẫn
đến tỷ giá ngoại tệ tăng và ngược lại.
L!&!&!)! 8caIF
Hoạt động này trực tiếp tác động đến cung cầu về ngoại tệ từ đó làm cho tỷ giá
hối đoái biến động. Khi một nhà đầu cơ dự đoán giá của một ngoại tệ nào đó trong thời
gian tới sẽ tăng họ sẽ dùng nội tệ mua ồ ạt số lượng ngoại tệ trên thị trường làm cho ngoại
tệ này trở nên khan hiếm dẫn đến tỷ giá ngoại tệ sẽ tăng. Ngược lại, nếu anh ta dự đoán
ngoại tệ nào đó sẽ sụt giá thì sẽ bán mạnh số ngoại tệ đó ra thị trường làm cung vượt cầu,
do đó tỷ giá ngoại tệ sẽ giảm.
L!&!&!$! 2\lF
Sự ưa thích hàng ngoại so với hàng nội: Khi dân chúng “sùng bái” hàng ngoại
thì nhu cầu ngoại tệ sẽ tăng, dẫn đến tỷ giá ngoại tệ tăng.
,80F,G!G!0HIJ*K< w
! "#$%&#'()
Tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại làm tăng nhu cầu chi ngoại tệ, làm
thất thoát ngoại tệ và vàng mà Nhà nước không kiểm soát được, do đó cũng có tác động
đến tỷ giá hối đoái.
Sự tác động của các sự kiện bất thường về kinh tế xã hội như chiến tranh, khủng
bố, khủng hoảng chính trị, sự cố thiên tai, dịch bệnh cũng có những tác động nhất định
đến sự biến động của tỷ giá hối đoái.
L!&!R! gdPNtHl_
L!&!R!L! 'N\F
Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với một quốc gia vì trước
tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng xuất nhập khẩu của chính quốc gia đó. Khi
TGHĐ tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm tăng giá trong nước của hàng nhập khẩu và
giảm giá ngoài nước của hàng xuất khẩu của nước đó, cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của
hàng trong nước.
L!&!R!&! N] ]
Khi các yếu tố khác không đổi TGHĐ tăng làm tăng giá các mặt hàng nhập khẩu
tính bằng nội tệ. Các hộ gia đình,các nhà sản xuất sử dụng đầu vào nhập khẩu phải tiêu
dùng hàng nhập khẩu với mức giá tăng cùng tỷ lệ phá giá. Kết quả mức giá chung trong
nền kinh tế trở nên cao hơn đặc biệt là nền kinh tế nhỏ, mở cửa với thế giới bên ngoài có
xuất khẩu và nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao so với GDP. Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng
liên tục qua các năm có nghĩa là lạm phát đã tăng. Nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải có thể
kiểm soát sẽ kích thích tăng trưởng nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm lãi
xuất tăng làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế giảm sút.
L!&!R!R! N]Hh]
Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước thì khi
TGHĐ tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh
vực này giúp phát triển sản xuất từ đó tạo thêm công ăn việc làm giảm thất nghiệp, sản
lượng quốc gia có thể tăng lên và ngược lại.
L!&!R!V! 'NaHo_
a) Đầu tư trực tiếp:
TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư hoặc góp
vốn liên doanh. Bên cạnh đó tỷ giá còn có tác động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các
hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự thay đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành
,80F,G!G!0HIJ*K< x
! "#$%&#'()
vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay
không.
b) Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế
cũng như việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.
Lợi tức từ khoản cho vay bằng ngoại tệ = lãi suất ngoại tệ + giảm giá đồng nội tệ.
Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng tổng lợi
tức từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng luồng vốn
chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi các
quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm mức độ rủi ro
trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
L!&!R!)! NhHN
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước đó hoặc
những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng nghĩa với sự tăng lên của gánh
nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân chuyển vốn quốc tế ngày càng tự do thì các
nước đặc biệt các nước đang phát triển càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ
giá để đảm bảo tăng trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài.
L!&!V! 2_cF
- Tỷ giá cố định.
- Tỷ giá thả nổi.
- Tỷ giá thả nổi có điều tiết.
L!R! <oy]F
- Lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách gián tiếp,
chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả. Các yếu tố để hình thành lãi suất và
tỷ giá không giống nhau. Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung cầu của vốn
cho vay. Lãi suất có thể biến động trong phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một
tình hình đặc biệt, có thể vượt quá tỷ suất lợi nhận bình quân. Còn TGHĐ thì do quan hệ
cung cầu về ngoại hối quyết định, mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân thanh toán
dư thừa hay thiếu hụt quyết định. Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không
giống nhau, do đó biến động của lãi suất (lên cao chẳng hạn) không nhất thiết đưa đến
TGHĐ biến động theo (hạ xuống chẳng hạn). Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn
của nước ngoài chạy vào, nhưng khi tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước
không ổn định, thì không nhất thiết thực hiện được, bởi vì với vốn nước ngoài, vấn đề lúc
,80F,G!G!0HIJ*K< L#
! "#$%&#'()
đó lại đặt ra trước tiên là sự đảm bảo an toàn cho số vốn chứ không phải là vấn đề thu hút
được lãi nhiều.
z2u_HN]F
- Lạm phát giữa các quốc gia.
- Cung-cầu ngoại hối.
- Cán cân thanh toán quốc tế ( hệ quả của Cung- cầu ngoại tệ).
- Chính sách ngoại thương.
- Hoạt động đầu cơ.
- Tình hình chính trị trong nước và quốc tế
(1) Lãi suất thực tế (đồng nội tệ) = Lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát dự kiến = Lãi
suất ngoại tệ + (-) khoản tăng (giảm) giá dự tính
286W,&
8{254,3,-|-;8.;DX-G>Y3Z, 8[-'/ T
-E}<8-E}B
&!L!
&!L!L! P]qoF
&!L!L!L! ,~tLxwx_)!Lxx&F2I_P]J
Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên
tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh
,80F,G!G!0HIJ*K< LL
! "#$%&#'()
nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động
của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường
tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ
này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế
lãi suất thực dương.
&!L!L!&! ,~$!Lxx&_Lxx)F2I_bl]
Đặc trưng của cơ chế này là NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất,
quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các NHTM,
các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của NHNN để đưa ra các lãi suất thích hợp cho
mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất
dương, đảm bảo cho các NHTM, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ
chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
&!L!L!R! ,~Lxx$_v!&###F2I_b]a
Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là NHNN đã thay đổi căn bản
cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động
(lãi suất đầu vào của NHTM) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi
suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua
của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ
năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.
&!L!L!V! ,~)SwS&###_LS$S&##&F2I_]I•l€•(c
Quyết định số 244/QĐ-NHNN1 ngày 2/8/2000 qui định từ ngày 5/8 cơ chế điều
hành trần lãi suất sẽ đ
ư
ợc thay thế bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho
vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay
bằng ngoại tệ. Theo đó các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng
trên cơ sở:
Lãi suất cho vay = Lãi suất cơ bản ± biên độ dao động lãi suất cơ bản.
Biên độ dao động này do NHNN qui định và công bố. Thống đốc NHNN Việt
Nam đã quyết định mức lãi suất cơ bản và biên độ dao động nh
ư
sau:
0 >G0
Lãi suất cơ bản
0,75%/tháng
(9%/năm)
SIBOR 3,6 tháng
Biên độ đối với
cho vay ngắn hạn
+0,3%/tháng
(3,6%/năm)
+1%/năm
,80F,G!G!0HIJ*K< L&
! "#$%&#'()
Biên độ đối với
cho vay trung và dài hạn
+0,5%/tháng
(6%/năm)
+2,5%/năm
Lãi suất cho vay
tối đa ngắn hạn
1,05%/tháng
(12,6%/năm)
SIBOR 3 tháng
+1%/năm
Lãi suất cho vay
tối đa trung và dài hạn
1,25%/tháng
(15%/năm)
SIBOR 6tháng
+2,5 năm
(SIBOR: lãi suất đôla Mỹ trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore)
Lãi suất cơ bản do NHNN đưa ra dựa trên nguyên tắc tham khảo mức lãi suất cho
vay ngắn hạn thông thường đối với các khách hàng có uy tín của một nhóm NHTM, trong
đó có bốn NHTM quốc doanh, hai NHTM cổ phần, hai chi nhánh ngân hàng n
ư
ớc ngoài
và một ngân hàng liên doanh.
1. Ngân hàng Ngoại th
ư
ơng Việt Nam
2. Ngân hàng Công th
ư
ơng Việt Nam
3. Ngân hàng Đầu t
ư
và phát triển Việt Nam
4. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
5. Ngân hàng Th
ư
ơng mại cổ phần Á Châu
6. Ngân hàng Th
ư
ơng mại cổ phần Quân Đội
7. Ngân hàng ANZ
8. Ngân hàng Hồng Kông và Th
ư
ợng Hải
9. Ngân hàng VID Public
Thực tế trong khoảng thời gian từ tháng 8/2000 đến tháng 5/2002, lãi suất cơ bản
điều chỉnh t
ư
ơng đối phù hợp với việc thực thi chính sách tiền tệ “ nới lỏng” một cách
thận trọng; với biên độ khá rộng, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất
cho phù hợp với quan hệ cung cầu vốn ở thành thị và nông thôn.
Cơ chế lãi suất cơ bản đã thể hiện một b
ư
ớc đổi mới cơ bản là NHNN đã điều
hành lãi suất theo tín hiệu thị tr
ư
ờng, chú trọng đến cung- cầu vốn tín dụng và mục tiêu
của chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản cộng với một biên độ xác định trong từng thời
kỳ, mặc dù vẫn còn mang tính chất hành chính, nh
ư
ng sự can thiệp chỉ mang tính qui
định và nguyên tắc chung của NHNN mà không qui định cụ thể, trực tiếp các mức lãi
suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Việc điều chỉnh các mức lãi suất cơ bản hàng
tháng một cách linh hoạt đã tạo điều kiện bám sát thị tr
ư
ờng, cung cầu vốn tín dụng, huy
động tối đa nguồn lực trong n
ư
ớc phục vụ cho đầu t
ư
phát triển, tạo khả năng cho thị
trường tài chính phát triển theo chiều sâu, đáp ứng mục tiêu của chính sách tiền tệ, đảm
bảo sự kiểm soát của NHNN trên thị trường tiền tệ.
,80F,G!G!0HIJ*K< LR
! "#$%&#'()
Tuy nhiên, nhìn lại cơ chế điều hành lãi suất cơ bản thời gian vừa qua, chúng ta
vẫn thấy một số tồn tại:
- Lãi suất cơ bản đ
ư
ợc cộng thêm một biên độ (0,3% đối với vay ngắn hạn
và 0,5% đối với vay trung và dài hạn) thực chất đã tạo nên một trần lãi suất tối đa cho
các tổ chức tín dụng đ
ư
ợc phép cho vay. So với mức lãi suất cơ bản đ
ư
ợc công bố
đầu tiên vào tháng 8/2000 là 0,75%/tháng và hạ xuống còn 0,6%/tháng, thì biên độ
này đ
ư
ợc xem nh
ư
khá rộng cho các tổ chức tín dụng định đoạt các mức lãi suất cho
vay, kể cả cộng thêm các khoản phí liên quan đến khoản vay mà không v
ư
ợt quá biên độ
tối đa cho phép.
- Nh
ư
ng trên thực tế, sau gần hai năm áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản
cho thấy, biên độ lãi suất này phù hợp với các tổ chức tín dụng Nhà n
ư
ớc và các khoản
tín dụng cho khu vực thành thị. Còn đôí với các tổ chức tín dụng cổ phần (trừ quỹ tín
dụng nhân dân đ
ư
ợc áp dụng cho vay thành viên theo mức lãi suất qui định riêng) và
các khoản tín dụng cho vay khu vực nông thôn ch
ư
a thoả đáng. Lãi suất cho vay ở địa
bàn nông thôn ch
ư
a bám sát biên độ, làm cho lãi suất nhiều khi không phản ánh đúng
cung cầu vốn thị tr
ư
ờng, các tổ chức tín dụng gặp trở ngại trong việc huy động và cho
vay vốn.
- Do việc khống chế biên độ làm cho các tổ chức tín dụng không thể phản
ứng kịp thời để phòng tránh rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất thị tr
ư
ờng tiền tệ
trong và ngoài n
ư
ớc biến động theo h
ư
ớng tăng, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động
bị thu hẹp do lãi suất huy động tăng nh
ư
ng lãi suất cho vay không tăng.
- Cơ chế lãi suất có sự kiểm soát bằng công cụ hành chính không phù
hợp với yêu cầu của việc phát huy và khai thác vốn nội lực đáp ứng yêu cầu Công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đất n
ư
ớc, vì với t
ư
cách là “ hàng hoá” , nó vận hành theo quan hệ
cung-cầu, nếu lãi suất thấp việc huy động vốn sẽ khó khăn.
&!L!L!)! ,~u#LS#$S&##&_uF
Ngày 30/05/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 564/2002/QĐ-
NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng
th
ư
ơng mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Đây là b
ư
ớc
chuyển đổi quan trọng, mạnh mẽ và cần thiết trong chính sách tín dụng, phù hợp với
nguyên tắc thị trường, nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính đ
ư
ợc sử dụng và phân bổ
một cách hiệu quả hơn.
,80F,G!G!0HIJ*K< LV
! "#$%&#'()
Theo cơ chế lãi suất thoả thuận thì chẳng cần ai phát động, cả kinh tế đều phải
chuyển động – một sự chuyển động tự giác có mục tiêu, biện pháp phù hợp để có thể
đững vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt trên th
ư
ơng trường. Như
vậy, cơ chế lãi suất thoả thuận có thể xem như là một tác nhân chủ yếu làm tan biến mọi
sự bảo thủ, trì trệ, sức ỳ, sự ỷ lại vốn có của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp, góp phần quan trọng vào việc thực hiện tốt chính sách kinh tế xã hội của đất
n
ư
ớc nh
ư
vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà n
ư
ớc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
xoá đói giảm nghèo, chống tham nhũng, công bằng xã hội…
Tuy nhiên, do những điều kiện cần thiết, chủ yếu, có tính nguyên tắc đều đ
ư
ợc
tính toán, tôn trọng khi thực hiện lãi suất thoả thuận, tiến đến tự do hoá lãi suất nh
ư
môi
trường kinh tế vĩ mô thực sự ổn định, hệ thống tài chính vững mạnh, dự trữ quốc gia và
ngoại tệ đủ mạnh, môi trường pháp lý hoàn chỉnh, sự phát triển đồng đều cả về năng
lực tài chính và trình độ quản lý giữa các thành phần kinh tế, kinh nghiệm về xây dựng,
quản lý điều hành, giảm sát và tác động vào mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo
theo cơ chế thị trường…vẫn chưa hội đủ, nên trước mắt “ NHNN Việt Nam vẫn tiếp
tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo và định h
ư
ớng lãi suất thị trường, phù
hợp với qui định của Luật NHNN Việt Nam, đồng thời chủ động áp dụng các biện pháp
để kiểm soát biến động của lãi suất thị tr
ư
ờng, đảm bảo đ
ư
ợc yêu cầu và mục tiêu cuả
chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ”. Rõ ràng là với qui định này thì việc thoả thuận
giữa ng
ư
ời đi vay và người cho vay không hề đồng nghĩa với việc thả nổi hoàn toàn lãi
suất. Rằng buộc này nhằm mục đích tạo ra một sân chơi lành mạnh, bình đẳng cho các tổ
chức tín dụng cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để đi đúng “ định h
ư
ớng
lãi suất thị trờng” nh
ư
đã qui định ở điều 2 của quyết định 546.
Ngày 26/02/2010 NHNN ban hành thông tư 07/2010/TT-NHNN quy định về cho
vay VND theo lãi suất thỏa thuận cho khoản vay trung và dài hạn của TCTD. Điều đó có
nghĩa là ngân hàng có thể thỏa thuận với khách hàng để cho vay với lãi suất cao hơn lãi
suất trần cho các khoản vay trung dài hạn. Trước khi có thông tư này, các ngân hàng rất e
ngại trong việc cho vay trung dài hạn vì các khoản vay này được thực hiện trong thời gian
dài, tức chi phí đầu vào cao hơn, mà lãi suất cũng không thể cao hơn lãi suất các khoản
vay ngắn hạn, cao nhất chỉ bằng 150% lãi suất cơ bản. Do hạn chế về lãi suất đầu ra, nên
các ngân hàng, một là cộng thêm các loại phí để nâng lãi suất của các món vay trung dài
hạn, hoặc là hạn chế cho vay. Một số ngân hàng còn chia nhỏ các khoản vay dài hạn thành
nhiều khoản ngắn hạn để cho vay. Việc chia nhỏ này còn có thể giúp các ngân hàng không
vi phạm quy định chỉ được lấy 30% vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Thực tế
,80F,G!G!0HIJ*K< L)
! "#$%&#'()
nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng rất hạn chế do lãi suất huy động kỳ hạn dài
không hấp dẫn so với các kỳ hạn ngắn nên người gửi tiền chỉ thích chọn các kỳ hạn ngắn.
Thông tư mới của NHNN đã giúp các ngân hàng có thể thu hút được tiền gửi các kỳ hạn
dài vì có thể đưa lãi suất huy động các kỳ hạn dài lên cao hơn so với kỳ hạn ngắn cũng
như đẩy lãi suất cho vay lên cao hơn trần lãi suất hiện nay. Sự thông thoáng về lãi suất
cũng sẽ đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng cũng như vốn trung dài hạn cho các doanh
nghiệp phục vụ mục đích đầu tư, mở rộng sản suất.
Ngày 14/04/2010 NHNN ban hành thông tư số 12/2010/TT-NHNN hướng dẫn các
tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay ngắn hạn. Với
thông tư này, chỉ đạo của Chính phủ về việc mở cơ chế thỏa thuận lãi suất đối với các
khoản vay ngắn hạn chính thức được triển khai, sau khi cơ chế trên đã được mở đối với
các khoản vay trung và dài hạn trước đó. Theo nội dung Thông tư, các tổ chức tín dụng
thực hiện cho vay bằng VND phải niêm yết công khai lãi suất cho vay ở mức hợp lý, trên
cơ sở cung – cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng
vay, tiết kiệm chi phí hoạt động, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn vay để phát
triển sản xuất – kinh doanh, nhất là khu vực nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp xuất
khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tổ chức tín dụng điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp với
mức biến động của lãi suất huy động vốn bằng VND và mục tiêu, giải pháp điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN.
Thị trường diễn ra với tất cả những diễn biến “bình lặng“ trong 10 tháng. Tới ngày
5 tháng 11 NHNN ban hành qui định nâng tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn lên 9% (thông tư
13/2010/TT-NHNN của NHNN Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/10/2010 quy định về các
tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, và Thông tư 19 với nội dung
sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13 về các tỷ lệ bảo đảm an toàn vốn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng vừa được NHNN (SBV) công bố tối ngày 27/09/2010, 3 ngày
sau khi nhận được yêu cầu từ Văn phòng Chính phủ). Hầu như chỉ đợi có vậy sự “bình
lặng” hầu như không thể chờ đợi lâu hơn, ngay lập tức thị trường lên tiếng, phần lớn các
ngân hàng tăng lãi suất huy động lên hết mức 12% năm. Tuy nhiên, 12% năm chỉ mang
tính thủ tục, một số ngân hàng khát vốn nhiều tháng đã âm thầm tăng lãi suất huy động
với khá nhiều hình thức, theo báo chí ghi nhận đến cuối tháng 11 lãi suất lên đến 14%.
Đầu tháng 12 Hiệp hội ngân hàng đã phải yêu cầu có một cuộc ngồi lại với nhau và đưa ra
một thuật ngữ mới cho lãi suất mang tên “lãi suất đồng thuận”. Mức 12% là lãi suất đồng
thuận được đưa ra ít nhất là 12 ngân hàng tham gia.
,80F,G!G!0HIJ*K< L$
! "#$%&#'()
Sự “bình lặng” thật sự đáng sợ chỉ sau vài ngày áp dụng loại hình lãi suất đồng
thuận 12% thì quả “bom” Techcombank tung chiêu được xem là vô tiền khoán hậu trong
năm 2010. Đó là chiến dịch mang tên “3 ngày vàng” từ ngày 8 tháng 12 đến 10 tháng 12,
theo đó tất cả khách hàng gửi tiền tại đây sẽ được hưởng lãi suất 17%. Ngay lập tức thị
trường vô cùng bối rối, mức lãi suất huy động các ngân hàng từ nhỏ đến lớn được ghi
nhận từ mức 14% đến thương lượng đặc biệt có thể lên đến 18%.
14/12/2010, Hiệp hội ngân hàng tiếp tục đưa ra một lãi suất đồng thuận, lần này số lượng
ngân hàng tham gia đông hơn và dùng biện pháp mạnh hơn, theo đó biên độ lãi suất huy
động được nâng lên là 14% kể cả các hình thức khuyến mãi. Trước khi có sự cam kết
đồng thuận này, dù nhiều ngân hàng không công khai bằng biểu lãi suất nhưng trên thực
tế khách hàng có thể thỏa thuận lãi suất huy động VND lên tới 16%”. Diễn tiến cho đến
những ngày cuối năm cũng không mấy khác biệt, trên thị trường có vẻ như vẫn tồn tại 2
loại lãi suất.
Với thái độ “đổng đảnh” của lãi suất huy động như trên nên khả năng tiếp cận
được vay vốn của ngân hàng là việc vô cùng khó khăn cho hầu hết đối tượng. Tất nhiên
bản chất kinh doanh của của ngân hàng là huy động rồi cho vay, nếu chấp nhận lãi suất
cao vút thì ngân hàng vẫn cho vay. Nhưng phải vay với mức từ 19 - 22% để kinh doanh
và tiêu dùng thì có mấy ai. Ngân hàng không thể làm khác khi đầu vào của họ lên đến
17% như nói ở trên.
&!L!&! , buF
&!L!&!L! yl"ltoKujI_]i!
a) Những khó khăn chung:
T h
ứ n
h ấ t
, xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam quá thấp. Trải qua nhiều
năm cố gắng vực dậy nền kinh tế song về cơ bản nền kinh tế vĩ mô chưa ổn định: tích
luỹ từ nội bộ nền kinh tế thấp, thiếu vốn đầu
tư,
phụ thuộc nhiều vào vốn đầu t
ư
n
ư
ớc
ngoài.
T h
ứ h
a i
, công tác quản lý nền kinh tế của cơ quan quản lý vĩ mô dù có nhiều cải
thiện song vẫn ch
ư
a thể coi là hoạt động có hiệu quả, đội ngũ cán bộ còn kém về trình độ
chuyên môn.
Thứ ba, khu vực sản xuất gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với hàng
hoá n
ư
ớc ngoài. Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp quốc doanh diễn ra với tiến độ
chậm
b) Bên cạnh những khó khăn chung nh
ư
vậy, ngay sau khi chúng ta áp dụng
cơ chế lãi suất này đã xuất hiện những bất cập cần xử lý ngay:
,80F,G!G!0HIJ*K< Lv
! "#$%&#'()
- Tỷ lệ lạm phát ngày một tăng qua các năm.
- Ở khu vực nông thôn, cầu vốn tín dụng th
ư
ờng lớn hơn cung (huy động
vốn của các địa ph
ư
ơng th
ư
ờng chỉ đạt 50% nhu cầu); lãi suất cho vay ở khu vực này
không bám sát biên độ, khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận, lãi suất cho vay có thể
tăng, sẽ có phản ứng không thuận lợi từ phía một số địa ph
ư
ơng.
- Thị trường bất động sản, thị tr
ư
ờng ngọại hối không chính thức biến động
khá “ thất th
ư
ờng” , ảnh h
ư
ởng không nhỏ đến thị trường tiền tệ.
&!L!&!&! y F
a) Những giải pháp mang tầm vĩ mô.
- Tiếp tục hoàn thiện tổ chức và qui chế điều hành thị tr
ư
ờng mở, tăng cường
khả năng dự báo vốn khả dụng, thúc đẩy sự phát triển của các công cụ tài chính trên thị
tr
ư
ờng mở, xây dựng thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển sôi động tăng cường
khả năng điều hành bằng các công cụ gián tiếp của NHNN.
- Tăng cường công tác thanh tra, giám sát nhằm bảo đảm ổn định và an toàn hệ
thống tài chính – tiền tệ. phối hợp với các hiệp hội ngân hàng tăng cường kiểm tra giám
sát để tạo sự đồng thuận về mặt bằng lãi suất. Đồng thời tăng cường công tác truyền
thông, đưa thông tin đầy đủ, kịp thời về các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt
động ngân hàng được triển khai theo chỉ đạo của Chính phủ, coi đây là yếu tố quan trọng
trong điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Tập trung vốn tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
- Các chính sách hỗ trợ đi kèm:
+ Khi thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, cần thực hiện
chính sách tỷ giá t
ư
ơng đối ổn định, chính sách tài khoá t
ư
ơng đối thắt chặt.
+ Xây dựng mức lãi suất liên ngân hàng định h
ư
ớng trên cơ sở lãi suất
thực của thị tr
ư
ờng, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kỳ và diễn biến
lãi suất trên thị tr
ư
ờng quốc tế.
+ Tính toán mức tăng, giảm vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng để
NHNN thực hiện thị trường mở, qua đó đạt đ
ư
ợc mức lãi suất liên ngân hàng định
h
ư
ớng.
+ Lãi suất liên ngân hàng định h
ư
ớng phải là lãi suất chuẩn để h
ư
ớng các
NHTM thực hiện cho vay lẫn nhau theo lãi suất này, và qua đó ảnh h
ư
ởng đến lãi suất
cho vay đối với nền kinh tế.
* Đ ể thực hi
ệ n
c h
ín h
s ách h
ỗ t
rợ N
HN N
c ầ n:
,80F,G!G!0HIJ*K< Lw
! "#$%&#'()
+ Tách các khoản vay theo chỉ định của Chính phủ ra khỏi hệ thống
NHTM để phân tách chức năng kinh doanh với chức năng cho vay theo chỉ định và
với lãi suất
ưu
đãi. Còn hiện tại đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, ngoài các
khoản vay
ưu
đãi đã đ
ư
ợc chính phủ có qui định cụ thể các mức lãi suất thấp với các
khoản cho vay chỉ định, sẽ là những khoản tín dụng th
ư
ơng mại cần đ
ư
ợc thực hiện
theo lãi suất thị trường.
+ Sử dụng các mô hình kinh tế l
ư
ợng để dự đoán các chỉ số kinh tế vĩ
mô nh
ư
: lạm phát, lãi suất và tỷ giá để có đối sách kịp thời can thiệp vào lãi suất và tỷ
giá thông qua các công cụ chính sách khác nh
ư
: dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, tái
chiết khấu và hoạt động thị tr
ư
ờng mở.
+ Nâng cao mức dự trữ ngoại hối của Nhà n
ư
ớc.
- Chủ động dự báo chiều h
ư
ớng biến động của lãi suất thị tr
ư
ờng, các tình
huống có thể phát sinh và áp dụng các biện pháp thích hợp để định h
ư
ớng lãi suất
thị trường biến động phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô.
- NHNN thực hiện tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng theo hình thức chiết
khấu, tái chiết khấu, cho vay đảm bảo bằng thế chấp hồ sơ tín dụng hoặc cầm cố
th
ư
ơng phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác và cho vay qua c
ư
ả sổ chiết khấu
đặc biệt.
Lãi suất các hình thức tái cấp vốn này do NHNN th
ư
ờng cao hơn các mức lãi
suất khác để nhằm thực hiện điều tiết và chỉ đạo mặt bằng lãi suất trên thị trường cũng
nh
ư
thực hiện vai trò của NHNN là ng
ư
ời cho vay cuối cùng. Lãi suất này qui định
từng thời kỳ tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ nói chung, có chú ý đên cung cầu
tín dụng nội địa và quốc tế, đặc biệt chú ý đến lãi suất trên thị tr
ư
ờng vốn và tỷ giá ngoại
tệ.
- Các tổ chức tín dụng có thể tự do và không hạn chế số l
ư
ợng gửi tiền tại
NHNN. Nh
ư
ng để hạn chế hoặc khuyến khích, thì NHNN qui định mức lãi suất tiền
gửi cao hoặc thấp, thậm chí có lúc tiền gửi này không có lãi suất (lãi suất = 0). Mức lãi
suất tiền gửi tiền gửi luôn có khoảng cách nhất định với lãi suất chiết khấu và cho vay
qua đêm nói trên. Đối với hai loại lãi suất này, NHNN sẽ tạo ra một khoảng giới hạn
nhất định có tính chất khung lãi suất cho thị trường tiền tệ.
- Lãi suất thị tr
ư
ờng mở (open market operation): là lãi suất đấu thầu các loại
tín phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn. NHNN tham gia tổ chức nghiệp vụ thị tr
ư
ờng mở
và chi phối mức lãi suất đấu thầu. Mức lãi suất này th
ư
ờng nằm giữa hai loại lãi suất tái
chiết khấu, lãi suất qua đêm và lãi suất tiền gửi tại đây.
,80F,G!G!0HIJ*K< Lx
! "#$%&#'()
b) Những biện pháp ở tầm vi mô (đối với các NHTM):
- Cần bổ sung lực lượng cán bộ có trình độ trong khâu quản lý nguồn vốn và
duy trì tính thanh khoản hợp lý của NHTM và dự báo biến động lãi suất và tỷ giá.
- Tham gia tích cực hoạt động thị trường mở, và các nghiệp vụ khác như
chiết khấu, tái chiết khấu.
- Nâng cao năng lực điều hành nguồn vốn trong từng hệ thống tổ chức tín dụng
để tránh hiện tượng nơi thừa vốn, nơi thiếu vốn cục bộ, đồng thời tăng tính thanh khoản
cho các tổ chức tín dụng.
&!&!
&!&!L! dyta\uF
&!&!L!L! ,&##L^&##)
Năm 2001 là năm đầu tiên hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) có hiệu lực nên
thu hút lượng ngoại tệ lớn, do đó từ ngày 01/06/2001, NHNN chính thức chuyển sang
thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất ngoại tệ.
Bước qua năm 2002 biến động không nhiều. Tỷ giá bình quân trên thị trường liên
ngân hàng tính đến ngày 31.12.2002 tăng 1.97% so với cuối năm 2001. Tỷ giá giao dịch
của các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng tăng 2.13% so với cuối năm 2001. Biên
độ quy định tỷ giá các NHTM được phép giao dịch cũng không ngừng đổi mới. Trong giai
đoạn từ ngày 01/07/2002 NHNN quy định 5 kỳ hạn với biên độ tiếp tục được nới rộng:
tăng lên ±0.25% so với mức ±0.1% trước đó đối với nghiệp vụ giao ngay; lên ±0.5% so
với mức ±0.4% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn 30 ngày, lên ±2.5% so với mức 2.35% của
nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn trên 90 ngày… Việc điều chỉnh tăng này đáp ứng được yêu
cầu của các NHTM cũng như các DN có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các ngân hàng
không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp trước đây.
Năm 2003 tỷ giá VND/USD ở nước ta khá ổn định mặc dù USD mất giá mạnh so
với các loại ngoại tệ chủ chốt khác và có diễn biến phức tạp trên thị trường ngoại hối quốc
tế. Tại thị trường ngoại hối Việt Nam, USD giảm giá nhẹ vào tháng 2/2003, khoảng
0,05% so với tháng 1/2003, sau đó lại tăng giá trở lại. Đầu tháng 12/2003, tỷ giá biến
động cao do tin đồn thất thiệt về việc NHNN phát hành 5 loại tiền mới ra lưu thông, trên
thị trường tự do tỷ giá có lúc đạt 16.000 VND/USD, sau đó lại giảm xuống.
Năm 2004 tỷ giá tương đối ổn định. Trong 8 tháng đầu năm tỷ giá giao dịch
VND/USD của các NHTM xoay quanh mức 15.705-15.740 VND/USD, còn trên thị
trường tự do là 15.740-15.790 VND/USD.
,80F,G!G!0HIJ*K< &#
! "#$%&#'()
Sang năm 2005, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi, chú ý đến
việc điều tiết mức tăng giá cả và hỗ trợ sự phát triển kinh tế. Tỷ giá hối đoái ổn định và
mức tăng lãi suất tiền VND giúp cho NHNN mua được ngoại tệ làm tăng dự trữ ngoại hối.
Cũng trong năm này, NHNN cho phép NHTM đưa vào triển khai Options giữa ngoại tệ
với VND, giúp các nhà xuất nhập khẩu vừa có thể hạn chế rủi ro tỷ giá vừa có thể đặt kỳ
vọng với mức tỷ giá ngoại tệ phù hợp với tình hình kinh doanh của mình, nhất là tỷ giá
USD/VND.
Nhìn chung, trong giai đoạn này nhờ chính sách tỷ giá linh hoạt cùng với các
chính sách khác hỗ trợ, nền kinh tế đã có những bước khởi sắc, thoát khỏi ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Nam Á năm 1997. Kim ngạch xuất nhập kẩhu
gia tăng đáng kể, quỹ dự trữ ngoại hối ngày càng được tăng cường, tâm lý găm giữ USD
giảm hẳn, thậm chí còn có sự chuyển dịch từ USD sang VND ở trong nước.
&!&!L!&! ,&##$^&##v
Cuối năm 2006, nền kinh tế Việt Nam nổi lên với nhiều sự kiện cũng như nhiều
thay đổi đầy hứa hẹn về một nền kinh tế thị trường bước đầu hội nhập.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
và thực hiện cam kết PNTR (Permanent Normal Trade Relations - Quy chế Thương mại
bình thường vĩnh viễn) với Hoa Kỳ. Thực trạng tỷ giá có những diễn biến phức tạp hơn so
với thời gian trước, cụ thế, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều sẽ gây khó khăn trong
việc kiểm soát khối lượng tiền và kiềm chế lạm phát, một lượng tăng cung USD trên thị
trường sẽ gia tăng áp lực nâng giá đồng nội tệ.
Đối mặt với sự thay đổi của nền kinh tế, cùng với sự linh hoạt trong các chính
sách tiền tệ và tài khóa, NHNN đã có những biện pháp can thiệp vào chính sách tỷ giá.
Tính tới tháng 6/2007, NHNN đã tăng cung VND hơn 110% so với năm 2006, và
tăng tổng cộng 135% tính từ cuối năm 2005, nhằm mua lại lượng ngoại tệ, mục đích giữ
VND yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh về giá cả của hàng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, nới rộng biên độ tỷ giá từ
0,25% lên 0,5% vào đầu năm, và tới 12/12/2007 tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%.
Tỷ giá tháng 1 là 1USD = 16.080VND và tới cuối năm tỷ giá ở mức 1USD = 16.164VND.
Mặt khác tác động của nới rộng biên độ tỷ giá cũng làm cho các ngân hàng,
doanh nghiệp và nhà đầu tư có được sự chủ động và linh hoạt hơn trong tính toán hiệu quả
đầu tư, làm cho tỷ giá sát với điều kiện thị trường hơn, hỗ trợ khó khăn cho các doanh
nghiệp xuất khẩu, đồng thời hạn chế doanh nghiệp nhập khẩu.
,80F,G!G!0HIJ*K< &L
! "#$%&#'()
Bên cạnh đó, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá danh nghĩa trên thị trường cũng khuyến
khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Một tỷ giá thực thấp hơn kết hợp với sự đa dạng
của các sản phẩm tín dụng đã giúp cho vay đầu tư mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
có điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn,
hỗ trợ hộ sản xuất kinh doanh khó khăn cũng được mở rộng góp phần tích cực thực hiện
mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Tuy nhiên, trong năm 2007, nền kinh tế toàn cầu chịu nhiều ảnh hưởng bởi
những biến động lớn về giá hàng hoá, chủ yếu là do giá nguyên, nhiên liệu, nông sản, thực
phẩm tăng cao liên tục. Những biến động thất thường của giá dầu thô, giá vàng cùng với
dấu hiệu suy thoái kinh tế Hoa Kỳ, đồng USD mất giá nhanh so với các ngoại tệ mạnh
khác đã tác động không tốt và lan tỏa tới nhiều nền kinh tế.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2007 đạt 111,2 tỷ USD,
tăng 31,3% so với năm 2006, trong đó xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9% so với
năm 2006, vượt 3,8% kế hoạch năm và nhập khẩu là 62,7 tỷ USD, tăng xấp xỉ 40%, cao
gấp gần 2 lần tốc độ tăng xuất khẩu.
Khoảng cách rất lớn về tốc độ tăng của nhập khẩu so với xuất khẩu đã đẩy nhập
siêu lên một mức cao nhất từ trước đến nay (14,12 tỷ USD), gấp 2,8 lần của nhập siêu
năm 2006 (là 5,06 tỷ USD) và gấp 12,4 lần của nhập siêu năm 2001 (là 1,12 tỷ USD)
Bên cạnh đó, mặt trái của chính sách thị trường mở của NHNN cũng đã đem lại
nhiều thách thức. Về nguyên tắc, do lượng tiền trong lưu thông tăng, nên để tránh hậu quả
lạm phát, NHNN phải tiến hành một giao dịch trên thị trường mở bằng cách bán các
chứng khoán để hút bớt tiền từ lưu thông tương đương với lượng VND bơm vào. Tuy
nhiên, điều này chỉ khả thi nếu như nền kinh tế trong nước hấp thụ được lượng vốn ngoại
đưa vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo ra thêm của cải cho xã hội, khi dòng
vốn được lưu thông thì NHNN sẽ dễ dàng hút tiền đồng về. Thế nhưng trên thực tế, lượng
FDI giải ngân trong năm 2007 chỉ hơn 40%.
Bên cạnh đó, cuối năm 2006 tới cuối năm 2007, USD mất giá mạnh trên thị
trường thế giới, lãi suất của nó liên tục giảm, Việt Nam lại liên tục theo chính sách duy trì
VND yếu, cùng với việc gia nhập WTO đầu năm 2007 thì đây là cơ hội tuyệt vời cho các
quỹ đầu cơ tài chính huy động vốn với lãi suất thấp để đầu cơ vào Việt Nam. Thực tế đã
cho thấy năm 2007 thị trường chứng khoán Việt Nam nóng lên nhanh chóng, dòng vốn
đầu tư của các nhà đầu tư không được đưa vào đầu tư thực sự mà chạy lòng vòng từ túi
người này sang người khác rồi quay trở lại túi nhà đầu cơ với giá trị tăng lên gấp nhiều
,80F,G!G!0HIJ*K< &&
! "#$%&#'()
lần. Điều này gây cản trở cho quá trình hút VND về của NHNN. Doanh nghiệp sau khi
huy động vốn lại tiếp tục đầu tư vào thị trường chứng khoán, do đó số tiền đầu tư vào sản
xuất kinh doanh tạo ra thêm của cải cho xã hội cũng giảm đáng kể. Kết quả là con số lạm
phát năm 2007 lên tới 12.63%, với chỉ số tăng GDP là 8,9% - nghĩa là về thực chất chúng
ta tăng trưởng âm.
&!&!L!R! ,t&##w
Năm 2008, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sụt giảm đáng kể, các nền kinh tế phát
triển đều rơi vào suy thoái. Diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới khiến cho kinh tế Việt
Nam gặp nhiều thách thức. Có thể nói chưa bao giờ tình hình tỷ giá Việt Nam lại biến
động thất thường với cường độ mạnh mẽ như trong năm 2008.
a) Giai đoạn 1 (1/1/2008 – 25/3/2008): Tỷ giá VND/USD giảm
Đầu năm 2008, tỷ giá dao dộng quanh mức 16.000 – 16.200 VND/USD, đến
giữa tháng 3/2008, tỷ giá giảm xuống còn 15.400 VND/USD.
Cùng thời điểm trên thị trường thế giới giá USD vẫn tiếp tục sụt giảm, Cục dự
trữ liên bang Mỹ (FED) vẫn tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản. Người dân không còn giữ
USD như trước mà chuyển qua nắm giữ vàng hoặc VND để gửi tiết kiệm hưởng lãi suất
cao. Hoạt động arbitrage (kinh doanh chênh lệch tỷ giá và lãi suất) của giới đầu tư và đầu
cơ nước ngoài đã đưa vào Việt Nam một lượng ngoại tệ lớn. Số tiền này được đổi ra VND
để hưởng chênh lệch lãi suất thông qua gửi tiết kiệm hoặc đầu tư vào trái phiếu chính phủ.
Một lượng kiều hối cũng được chuyển về Việt Nam nhằm hưởng chênh lệch lãi suất và
chuyển cho người thân nhân dịp Tết. Các NHTM phải cầu cứu NHNN mua bớt ngoại tệ
để khai thông dòng chảy USD, đồng thời chạy đua lãi suất gay gắt nhằm thu hút lượng
VND để đủ tiền mua tín phiếu bắt buộc của NHNN. Các doanh nghiệp nhập khẩu thì
không thể bán USD vì lỗ nặng.
Hậu quả của các biện pháp trên là dòng VND bị chặn lại, gây ra hiện tượng
khan hiếm tiền mặt, thừa USD giữa các ngân hàng, giá USD giảm liên tục, mức giảm tới
1,8%. Mặc dù giảm giá USD là phù hợp trong điều kiện lạm phát trong nước và thế giới
tăng cao, thế nhưng trước tình hình này, để hệ thống ngân hàng không rơi vào tình trạng
mất thanh khoản, nhưng vẫn theo chủ trương tăng giá VND và kiềm chế lạm phát, ngày
10/3/2008, NHNN đã quyết định nới rộng biên độ tỷ giá từ lên . Bên cạnh đó,
NHNN cũng tung ra thị trường 33.000 tỷ đồng cho vay ngắn hạn, gấp 1,5 lần số lượng
tiền định rút về qua tín phiếu bắt buộc, làm cho lạm phát tăng nhanh hơn ở những tháng
sau ảnh hưởng tới tỷ giá.
,80F,G!G!0HIJ*K< &R
! "#$%&#'()
b) Giai đoạn 2 (26/3/2008 – 16/7/2008): Tỷ giá tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn
sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.
Trong giai đoạn này tỷ giá tăng dần đều: Giá USD/VND tăng kịch trần
cuối tháng 3, tính đến cuối tháng 5 giá USD/VND đã tăng 1,02% so với tháng trước đó;
và đặc biệt trung tuần giữa tháng 6, cơn sốt USD bùng nổ lên 19.400VND/USD, trên thị
trường tự do lên tới 19.800VND/USD.
Lạm phát tăng cao có thể coi là nguyên nhân khởi đầu cho sự đảo chiều đột
ngột của tỷ giá giai đoạn này. Chỉ số CPI tháng 3 lên tới 9,16%, lạm phát tháng 5 tiếp tục
tăng 3,91%, cao nhất kể từ đầu năm, đẩy chỉ số giá tiêu dùng CPI lên tới 15,96%. Tâm lý
lo sợ VND mất giá bắt đầu xuất hiện. Mặc dù NHNN đã nâng lãi suất cơ bản lên
12%/năm vào tháng 5 nhưng việc áp dụng trần lãi suất lại làm cho các NHTM không thể
đẩy lãi suất lên. Chỉ số giá tiêu dùng 15,96% gấp gần 2,5 lần lãi suất tiết kiệm
(1,2%/tháng) làm cho lãi suất thực âm. Do đó không thể thu hút tiền từ trong lưu thông về
trong bối cảnh lạm phát cao, người dân muốn nắm giữ tiền để mua hàng hóa hơn là gửi
tiết kiệm ngân hàng.
Bên cạnh đó, nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam khi lo ngại
về tình hình kinh tế Việt Nam và do tình hình thanh khoản yếu trên thị trường thế giới đẩy
nhu cầu USD chuyển vốn về nước lên cao. Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép
vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu, dưới áp lực thâm hụt cán cân thương mại
(7,2 tỷ USD trong 3 tháng từ tháng 4 đến tháng 6), nhu cầu mua ngoại tệ để trả nợ của
doanh nghiệp tăng cao lại càng đẩy tỷ giá tăng vọt. Đặc biệt trong thời gian này tỷ giá
chênh lệch giữa thị trường chính thức và thị trường tự do tăng rất cao, có lúc lên đến
2.500VND/USD chứng rỏ sự quản lý việc thu đổi ngoại tệ và sự phối hợp giữa NHNN với
các ngành chưa được tốt, điều này lại càng làm cho việc điều hành chính sách tỷ giá của
NHNN phức tạp thêm gấp bội. Ngày 27/6, NHNN tiếp tục nới rộng biên độ dao động tỷ
giá lên 2%.
• Giai đoạn 3 (17/7/2008 – 15/10/2008)FTỷ giá giảm mạnh và dần đi vào bình
ổn
Trong tháng 7, chênh lệch lãi suất giữa thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị
trường tự do không quá cách biệt, giá USD trên thị trường tự do đã lùi xuống dưới 17.000
đồng. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng tháng 8 ổn định quanh mức 16.490VND/USD, tỷ
giá thị trường tự do cũng ổn định quanh mức 16.580 – 16.610VND/USD.
,80F,G!G!0HIJ*K< &V
! "#$%&#'()
Nguyên nhân là do tình trạng sốt USD đang ở mức báo động, lần đầu tiên trong
lịch sử NHNN công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị
trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm. Đồng thời giai đoạn này NHNN thực hiện
kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để
lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng, bán ngoại tệ can thiệp thị
trường thông qua các NHTM lớn.
Tỷ giá VND/USD trong tháng 9/2008 không có sự biến động nhiều, chỉ có tăng
mạnh từ 16.620 lên 16.740 (ngày 15/9 đến ngày 19/9), sau đó giảm xuống chỉ còn 16.630
VND/USD trong ngày 24/9. Nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính tại Mỹ: ngày 15/9, tập đoàn tài chính Lehman Brothers lớn thứ tư nước Mỹ, có
thời gian hoạt động 158 năm, đã chính thức tuyên bố phá sản; và tối 16/9, khi FED được
sự ủng hộ của Bộ Tài chính nước này đã đồng ý để Ngân hàng New York chi 85 tỷ USD
cứu AIG, một trong những tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới có giá trị tài sản khoảng
một nghìn tỷ USD và có 116.000 nhân viên tại hơn 100 quốc gia.
GIOF0‚•_>G0S0t&##w
OF*-0
d) Giai đoạn 4 (16/10/2008 – 30/12/2008): Tỷ giá USD tăng trở lại
Tỷ giá USD/VDN tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là
16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Sau khi NHNN tăng biên độ
tỷ giá từ lên vào ngày 7/11/2008 thì tỷ giá tăng lên mức 17.440VNDUSD. Sự
tăng tỷ giá giai đoạn này do ảnh hưởng của nhiều yếu tố:
,80F,G!G!0HIJ*K< &)