Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Một số giải pháp phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi ở khu vực đồng bằng sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 131 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
*****





NGUYỄN VĂN THẮNG





MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHOẺ VẬT NUÔI
Ở KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG


CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60 34 05



LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH






Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THUÝ HỒNG





Hà Nội - 2007


i
MỤC LỤC
Trang

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA SỰ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC
KHOẺ VẬT NUÔI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI
7
1.1. Khái niệm phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi trong ngành chăn nuôi
7
1.1.1 Phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi 7
1.1.2 Đặc điểm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi 10
1.1.3 Lợi ích & vai trò của dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi 12
1.2. Các nhân tố cơ bản ảnh hƣởng đến sự phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật
nuôi
20

1.2.1 Nhóm các nhân tố về điều kiện tự nhiên 21
1.2.2 Nhóm các nhân tố về kỹ thuật 24

1.2.3 Nhóm các nhân tố về kinh tế 26
1.2.4 Một số nhân tố khác 32
1.3. Kinh nghiệm tổ chức chăm sóc sức khoẻ vật nuôi của một số nƣớc châu
Á
32

1.3.1 Hoạt động chăm sóc sức khoẻ vật nuôi tại một số nước châu
á 33
1.3.2 Hệ thống chính sách nhà nước về dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật
nuôi 36
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC
KHOẺ VẬT NUÔI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
39
2.1. Đặc điểm ngành chăn nuôi ở đồng bằng sông Hồng
39

2.1.1 Vị trí của đồng bằng sông Hồng so với cả nước 39
2.1.2 Điều kiện tự nhiên vùng đồng bằng sông Hồng 39
2.2. Phân tích thực trạng hoạt động cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi ở khu
vực đồng bằng sông Hồng
42
2.2.1 Hiện trạng chăn nuôi và các loại hình dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi 42
2.2.2 Các thành phần tham gia dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi 50
2.3. Điều tra & khảo sát thực trạng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi
55

2.3.1 Mục tiêu điều tra 55

2.3.2 Đối tượng điều tra
55

2.3.2 Mẫu điều tra 55


ii
2.4. Kết quả thu đƣợc
56

2.4.1 Kết quả điều tra Đại lý kinh doanh thuốc thú y và thú y viên tham gia sử dụng
dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi ở địa
phương 56
2.4.2 Kết quả điều tra trại chăn nuôi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi

60
2.5. Tổng hợp kết quả điều tra và nguyên nhân chính ảnh hƣởng tới chất lƣợng dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ vật nuôi trong phát triển chăn nuôi ở đồng bằng sông Hồng
72
2.5.1 Đánh giá tổng hợp nguồn cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi 72
2.5.2 Một số nguyên nhân chính ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
vật nuôi trong phát triển chăn nuôi ở đồng bằng sông Hồng 73
2.5.3 Doanh nghiệp - nguồn cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi tác động trực
tiếp đến sự phát triển chăn nuôi 74
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHOẺ
VẬT NUÔI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
77
3.1. Phƣơng hƣớng phát triển ngành chăn nuôi Việt Nam & phát triển dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ vật nuôi đồng bằng sông Hồng
77
3.1.1 Phương hướng phát triển ngành chăn nuôi Việt
Nam 77
3.1.2 Những căn cứ chủ yếu để phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi khu vực

đồng bằng sông Hồng 77
3.1.3 Những mục tiêu chủ yếu của phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi ở khu
vực đồng bằng sông Hồng 79
3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi ở khu vực đồng
bằng sông Hồng
80
3.2.1 Các giải pháp về kỹ thuật và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ 81
3.2.2 Một số giải pháp hỗ trợ phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi 83
3.2.3 Mở rộng thị trường tiêu thụ 86
3.3. Giải pháp xúc tiến liên kết: Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp - Nhà chăn nuôi
89
3.3.1 Nhà khoa học 89
3.3.2 Nhà doanh nghiệp 89
3.3.3 Nhà chăn nuôi 93
3.4. Một số kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan hữu quan trong việc phát triển dịch
vụ chăm sóc sức khoẻ vật
nuôi
93
3.4.1 Chính sách quy hoạch và đầu tư chăn nuôi vùng đồng bằng sông Hồng 93
3.4.2 Chính sách tín dụng 95
3.4.3 Chính sách bảo hiểm 96


iii
3.4.4 Chính sách khuyến khích và tăng cường công tác giám sát hoạt động phát triển
dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi 97
KẾT LUẬN
1 01
PHỤ LỤC
105

TÀI LIỆU THAM KHẢO
116


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ
Trang
Bảng 2.1: Tình hình chăn nuôi gia súc gia cầm qua các giai đoạn chính 43
Bảng 3.1: Mục tiêu phát triển đàn vật nuôi đến năm 2010 80
Đồ thị 2.1: Cơ cấu khách hàng trong hoạt động của đại lý 57
Đồ thị 2.2: Mô hình trình độ của hệ thống thú y viên tại địa phương 59
Đồ thị 2.3: Mức độ quan trọng của các yếu tố trong hoạt động chăn nuôi 61
Đồ thị 2.4: Nguồn vốn đầu tư vào chăn
nuôi 61
Đồ thị 2.5: Cơ cấu nguồn tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi 65
Sơ đồ 1.1: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe
vật
nuôi 21
Sơ đồ 2.1: Mô hình cung cấp – tiếp nhận dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi 51
Sơ đồ 2.2: Hệ thống ngành dọc quản lý thú y 53
Sơ đồ 3.1 : Mô hình mạng lưới liên kết phân phối hợp tác cùng phát
triển 90














1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vòng 10 năm qua, ngành chăn nuôi tăng trưởng với tốc độ bình quân
hàng năm là 4,4%, tương đương tốc độ tăng trưởng của ngành trồng trọt, nhưng
mức đóng góp vào GDP của ngành nông nghiệp mới chỉ đạt mức 13%. Điều này
cho thấy, tiềm năng phát triển của ngành chăn nuôi sẽ còn lớn hơn nữa bởi những
lợi thế như: tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của nước ta trong thập niên qua
luôn đạt trên 7%, chất lượng cuộc sống được nâng cao đòi hỏi những sản phẩm chế
biến từ động vật ngày càng nhiều; khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và
kiểm soát chất lượng đầu vào có tính khả thi; lợi ích kinh tế đạt giá trị cao cả về thời
gian và tính trên đơn vị diện tích sử dụng so với trồng trọt, nhất là trong bối cảnh
các nguồn tài nguyên đất đai của Việt Nam đang bị thu hẹp chuyển sang ngành
khác; thu hút số lượng lớn các lao động tham gia vào hoạt động chăn nuôi và các
dịch vụ cung ứng cho chăn nuôi hoạt động quanh năm và xa hơn nữa là khả năng
nâng cao kim ngach xuất khẩu theo định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá của
Đảng, nhà nước và chính phủ đề ra vào năm 2020 đòi hỏi sự chuyển đổi mạnh mẽ
để ngành chăn nuôi có thể theo kịp với đòi hỏi phát triển kinh tế của đất nước.
Nghị quyết của Bộ Chính trị số 06-NQ/TW ngày 10 tháng 11 năm 1998 đã
khẳng định: “khuyến khích kinh tế hộ, hợp tác xã và trang trại chăn nuôi qui mô vừa
và lớn, chú trọng khâu giống và công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu sản
phẩm chăn nuôi, thực hiện các biện pháp để nâng cao năng suất và hạ giá thành, đưa
chăn nuôi thực sự trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp”
Chăn nuôi Việt Nam đã góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tham gia tích cực vào chương trình xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn trên phạm vi cả nước.

Những thành tựu của ngành chăn nuôi đã có đóng góp vào sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội của đất nước nói chung và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nói riêng. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi với vai trò đóng góp cho một qui
trình đồng bộ trong quá trình chăn nuôi nhằm tạo ra những sản phẩm chăn nuôi vừa
đạt hiệu quả cao trong kinh tế và cao hơn nữa là đưa ra được các sản phẩm chăn


2
nuôi sạch thiết thực phục vụ cho nhu cầu người tiêu dùng trong nước và hướng
mạnh tới xuất khẩu
Trong những năm gần đây, việc đưa ra một qui trình chăm sóc sức khoẻ vật
nuôi đối với mỗi giống, loài đã có những bước tiến nhất định. Nhờ đó, tình hình
dịch bệnh diễn biến ở mức độ thấp, qui mô chăn nuôi nhờ đó được mở rộng và qua
đó chất lượng các sản phẩm khi đưa ra thị trường được ưa chuộng với giá thành hợp
lý. Chăn nuôi xuất khẩu của Viêt Nam đã bước đầu đáp ứng được các nhu cầu của
người tiêu dùng thế giới như: Hồng Kông, Pháp
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thực tế hơn, đối tượng chăn nuôi đem lại hiệu
quả kinh tế chưa đa dạng, chủ yếu vẫn là nuôi lợn, gia cầm chiếm đến trên 95% số
lượng gia súc và gia cầm ở nước ta hiện nay; dịch bệnh và tình trạng ô nhiễm môi
trường vẫn còn xảy ra…Điều đó xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu như: dịch
vụ thú y chưa phát triển, qui mô nuôi còn nhỏ lẻ và công tác chọn giống, thức ăn
còn yếu kém.
Bối cảnh trong nước và quốc tế đang đặt ra cho ngành chăn nuôi mà cụ thể là
chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi nhiều cơ hội và thách thức mới. Để
có thể vượt qua thách thức và tận dụng những cơ hội trên đòi hỏi ngành chăn nuôi
phải xây dựng hệ thống các qui trình chăm sóc sức khoẻ vật nuôi và triển khai áp
dụng thực tế trong ngành chăn nuôi
Do đó, tác giả chọn vấn đề nghiên cứu: "Một số giải pháp phát triển dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ vật nuôi ở khu vực đồng bằng sông Hồng" làm đề tài luận
văn, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng

cao tổ chức và phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ trong chăn nuôi ở vùng đồng
bằng sông Hồng, đồng thời tăng cường sự đóng góp thiết thực đối với ngành chăn
nuôi Việt Nam
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam vấn đề tăng cường hoạt động dịch vụ vật nuôi nhằm phát triển
ngành chăn nuôi chưa được nghiên cứu một cách hoàn chỉnh và đầy đủ. Các nghiên
cứu về phát triển chăn nuôi mới chỉ được nghiên cứu ở một vài khía cạnh khác
nhau. Trong đó có một số cách tiếp cận cơ bản sau:
a/ Cách tiếp cận theo giác độ kinh tế- kỹ thuật


3
Cách tiếp cận này dựa trên những áp dụng thực tế của các qui trình tổng hợp
vào quá trình thúc đẩy sản xuất chăn nuôi phát triển. Các đề tài khoa học theo xu
hướng này chủ yếu được thực hiện bởi các Trường Đại học Nông nghiệp 1, Trường
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, Viện nghiên cứu Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh với kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tiễn đem lại hiệu quả cao
như:
- Đề tài: “Thực trạng & những giải pháp chủ yếu để phát triển chăn nuôi bò sữa
trong các hộ nông dân ngoại thành Hà Nội”, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp; Mã số:
5.02.07/ Phạm Thị Minh Nguyệt, Trường ĐH Nông nghiệp 1 Hà Nội
- Đề tài: “Nghiên cứu mô hình chăn nuôi bò sữa ở một số vùng trọng điểm thuộc
Bắc bộ”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế; Mã số: 5.02.07/ Dương Văn Hiểu, Trường ĐH
Nông nghiệp 1 Hà Nội
- Đề tài: “Những vấn đề kinh tế chủ yếu của thị trường tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp Việt Nam” Luận án Phó tiến sĩ Kinh tế; Mã số: 5.02.05/ Trần Đình Hiền,
Trường ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội
- Đề tài: “Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở miền Bắc nước ta; diễn biến, thực
trạng và hướng đổi mới” Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Kinh tế; Mã số: 5.02.04/
Chu Thị Lan, Trường ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội

- Đề tài: “ Kinh tế hộ nông dân Việt Nam trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý
nông nghiệp ” Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Kinh tế; Mã số: 5.02.01/ Hoàng Thị
Thành, Viện nghiên cứu Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
- Đề tài: “Đổi mới và hoàn thiện một số chính sách nhằm đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp” Luận án Tiến sĩ Kinh tế; Mã số: 5.02.05/
Nguyễn Tiến Dũng, Trường ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội
b/ Cách tiếp cận trên giác độ chính sách phát triển chăn nuôi bền vững
Cách tiếp cận này dựa trên những quan điểm cơ bản trong chính sách phát triển
trong chăn nuôi. Các đề tài khoa học theo xu hướng này được thực hiện có sự hỗ trợ
kỹ thuật và kinh phí từ các tổ chức nước ngoài như :
- Báo cáo: “ Lựa chọn chính sách sử dụng chăn nuôi nhằm thúc đẩy tăng trưởng và
đa dạng nguồn thu nhập vùng nông thôn Việt Nam.”, Chương trình hỗ trợ ngành
nông nghiệp ASPS-DANIDA (2001), Trung tâm thông tin NN & PTNT


4
- Hội nghị khoa học: “ Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y 1999-2000”, Nguyễn Thu
Hồng, Nguyễn Thuý Duyên, Đỗ Văn Thử (2001), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội
- Hội thảo tập huấn: “ Tập huấn - hội thảo giải pháp phòng chống dịch cúm, khôi
phục và phát triển chăn nuôi gia cầm bền vững”, Lê Văn Năm, Hoàng Kim Giao,
Nguyễn Như So (2005), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội
- Dự án: “Nghiên cứu nhu cầu nông dân”, Dự án VIE/98/004/01/99 - Hỗ trợ chương
trình cải cách hành chính (2003), Nxb Thống Kê, Hà Nội
c/ Cách tiếp cận trên giác độ quản lý ngành chăn nuôi
Cách tiếp cận này dựa trên những quan điểm chính sách về quản lý kinh tế của
ngành chăn nuôi để xây dựng những cơ chế thúc đẩy quá trình phát triển và tạo lập
những qui trình nhằm kiểm soát chất lượng các đầu vào trong qui trình chăn nuôi.
Những nhà khoa học tiếp cận theo hướng này chủ yếu ở Bộ Nông nghiệp và phát
triển chăn nuôi, Viện Chăn nuôi , Trường Đại học Nông nghiệp 1, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân,….

d/ Cách tiếp cận trên quan điểm nền kinh tế thị trường
Cách tiếp cận này xuất phát chính từ nhu cầu tất yếu của sự phát triển nền kinh
tế thị trường và ngay trong ngành chăn nuôi. Khi qui mô chăn nuôi ngày càng phát
triển thì yêu cầu về sự chuyên nghiệp trong cung ứng các dịch vụ ngày càng lớn. Sự
xuất hiện các ngành dịch vụ không chỉ trong ngành chăn nuôi là một xu thế có tính
ràng buộc và tương hỗ cùng phát triển trong môi trường kinh doanh mới ngày nay
Dù cách tiếp cận khác nhau nhưng nét chung nhất từ kết quả nghiên cứu của
các tác giả nói trên là:
- Vận dụng các qui trình quản lý về chất lượng đầu vào trong chăn nuôi là yêu cầu
tất yếu và có ý nghĩa nhiều mặt.
- Việc vận dụng các hoạt động dịch vụ thú y vào chăn nuôi đòi hỏi phải giải quyết
hàng loạt các vấn đề quan điểm chính sách, cơ chế, những vấn đề kinh tế, kỹ thuật
và xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô.
- Tất cả các hoạt động kinh doanh luôn đặt trong thế giữa cung và cầu xuất phát
chính từ nhu cầu thực tế của cuộc sống. Với mỗi giai đoạn phát triển kinh tế thì các
nhu cầu cũng có sự thay đổi phù hợp với hiện trạng của nền kinh tế giai đoạn đó.


5
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào bàn về
vấn đề đóng góp của hoạt động dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi đối với phát
triển ngành chăn nuôi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận xác định rõ vai trò, sự đóng góp của các yếu tố
đầu vào hoạt động dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi đối với phát triển ngành
chăn nuôi
- Phân tích sự đóng góp của dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi đối với phát triển
ngành chăn nuôi ở đồng bằng sông Hồng để thấy được những vấn đề đang đặt ra
hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi đối với

phát triển ngành chăn nuôi
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong những năm qua, ngành chăn nuôi phát triển được phải kể đến sự hỗ trợ
từ các hoạt động dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi, nhờ đó mà ngành đã có đóng
góp rất lớn cho phát triển của nền nông nghiệp và kinh tế Việt Nam nói chung. Tuy
nhiên, do giới hạn về thời gian nghiên cứu, luận văn chủ yếu tập trung đối tượng
nghiên cứu vào các nhân tố đầu vào trong chăn nuôi và nổi bật là hoạt động dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ vật nuôi đối với phát triển chăn nuôi ở vùng đồng bằng sông
Hồng, từ đó đề ra những phương hướng và giải pháp cơ bản để áp dụng có hiệu quả
hoạt động dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi một cách đồng bộ trong sự phát triển
của ngành chăn nuôi bền vững ở vùng đồng bằng sông Hồng
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp chung: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương
pháp nghiên cứu hệ thống, tư duy trừu tượng.
- Phương pháp cụ thể:
 Luận văn sử dụng các phương pháp thống kê, phương pháp điều tra mẫu,
phương pháp phân tích tổng hợp.


6
 Luận văn có sự kết hợp giữa kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu thực tế
nhằm làm rõ hơn những đóng góp của chất lượng dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ vật nuôi đối với phát triển của ngành chăn nuôi
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá những lý luận, quan điểm, chính sách liên quan đến vai trò và sự
đóng góp của hoạt động dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi đối với phát triển của
ngành chăn nuôi
- Đánh giá thực trạng sự đóng góp của hoạt động dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật
nuôi cũng như các dịch vụ đầu vào khác đối với phát triển ngành chăn nuôi, từ đó

cho thấy những ưu và nhược điểm của hệ thống các dịch vụ này nhằm góp phần cải
tiến để đáp ứng hơn nữa nhu cầu thực tế của người tiêu dùng và sự hoà nhập vào
nền kinh tế thế giới của nước ta.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi, đồng thời
tăng cường sự đóng góp của bốn nhà: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà cung ứng
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi - Nhà chăn nuôi đối với phát triển ngành chăn
nuôi ở vùng đồng bằng sông Hồng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng I : Cơ sở lý thuyết của sự phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi
đối với phát triển chăn nuôi
Chƣơng II : Thực trạng hoạt động cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi
đối với chăn nuôi ở đồng bằng sông Hồng
Chƣơng III : Một số giải pháp phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi ở
đồng bằng sông Hồng



7
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA SỰ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHĂM SÓC
SỨC KHOẺ VẬT NUÔI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI
1.1. Khái niệm phát triển dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi trong ngành chăn
nuôi
1.1.1 Phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi
Trước hết, việc xem xét khái niệm trong mục này được nhìn nhận trong hoạt
động của ngành chăn nuôi nói chung mà ở đó các khái niệm dịch vụ được hiểu theo
nghĩa mang tính tổ chức, thực hiện cung cấp thông qua hoạt động tư vấn, hỗ trợ
cùng với việc cung cấp sản phẩm bổ xung đi kèm, mà mục đích cuối cùng là mang

lại hiệu quả cho ngành chăn nuôi từ đầy đủ hoạt động cung cấp về khía cạnh thú y.
Dịch vụ chăm sóc được bao hàm trong cách tổ chức ở đây được diễn giải theo
trình tự nội dung sau:
1.1.1.1 Dịch vụ:
Xét theo nghĩa hẹp và nguồn gốc của từ thì dịch vụ là một công việc mà hiệu
quả của nó đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người như vận chuyển, cung cấp
nước, khí đốt, điện, bảo dưỡng và sửa chữa xe cộ, máy móc… Theo C.Mac, dịch vụ
là hàng hoá, “cũng như các hàng hoá khác, có giá trị sử dụng, đồng thời có giá trị
trao đổi”. Trên nghĩa rộng và hiện đại, dịch vụ là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt
động mà kết quả hoạt động của chúng không tồn tại dưới hình thái vật thể. Đó là
các hoạt động thương nghiệp, vận tải, bưu điện, tài chính, tín dụng, ngân hàng, cung
ứng vật tư, y tế, giáo dục, tư vấn thông tin vv….Các hoạt động này đã phát triển
thành những ngành độc lập, có vai trò và chức năng riêng trong nền kinh tế và trong
đời sống xã hội. Như vậy, dịch vụ xét từ góc độ cơ cấu tổ chức của nền kinh tế là
một lĩnh vực bao gồm nhiều ngành, nhiều bộ phận trong nền kinh tế quốc dân. Dịch
vụ giúp cho các chủ thể sản xuất thực hiện quá trình sản xuất và tái sản xuất một
cách thuận lợi hơn, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn và đáp ứng tốt hơn những nhu cầu
sinh hoạt ngày càng phong phú của con người.
Do vậy, có thể định nghĩa một cách chung nhất: Dịch vụ là những hoạt động
lao động mang tính chất xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hoá không tồn tại dưới
hình thái vật thể nhằm thoả mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu quả hơn các nhu cầu sản


8
xuất và đời sống của con người. Dịch vụ là lĩnh vực “mở”, nó thay đổi, phát triển
tuỳ thuộc vào sự phát triển sâu rộng của phân công lao động xã hội, của những tiến
bộ khoa học, công nghệ phục vụ cho sản xuất, đời sống con người. Dịch vụ không
bao gồm những hoạt động lao động nhằm mục đích tự phục vụ cho quá trình sản
xuất của chủ thể sản xuất, tự phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt của một người nào
đó.

Dịch vụ có những đặc điểm sau đây khác với hàng hoá thông thường:
- Là sản phẩm vô hình có thể cảm nhận về chất lượng.
- Việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời không có khả năng lưu kho,
để dành, tích trữ làm phần đệm để điều chỉnh sự thay đổi thất thường của nhu cầu
thị trường như các hàng hoá thông thường. Dịch vụ thường không mang hình thái
độc lập, kể cả trong trường hợp nó có tính chất sản xuất vật chất, nó hoà nhập hay
gắn liền với một sản phẩm hay một giai đoạn nào đó. Tất cả các dịch vụ có ích đều
được thực hiện đồng thời với quá trình sản sinh ra nó, cho nên lao động dịch vụ
mang tính xã hội cao.
- Dịch vụ cần phải tận dụng tối đa công suất một cách có hiệu quả nhất.
- Có nhiều dịch vụ không đòi hỏi nhiều vốn, vốn lớn, không cần có tổ chức cồng
kềnh…nhưng có nhiều dịch vụ lại gắn liền với sự phát triển đồng bộ nhiều ngành
kinh tế, đòi hỏi kết cấu hạ tầng đồng bộ về giao thông, thông tin liên lạc, điện, nhà
phải đi trước một bước.
1.1.1.2. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi
Dịch vụ chăm sóc ở đây là thuật ngữ để chỉ hàng loạt các hành động thực hiện
trên cả mặt thời gian, công sức và vật chất cung cấp trực tiếp trên đối tượng tiếp
nhận cụ thể nhằm mang lại lợi ích về mặt vật chất hay thoả mãn về mặt tinh thần
của người chăm sóc hoặc sở hữu. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi xét trong đối
tượng tiếp nhận là vật nuôi - sinh vật sống trong trường hợp này được chia thành
theo 2 nhóm dưới đây:
- Động vật nuôi nhốt khai thác: đối tượng này được hiểu là qui lại trong các chuồng
nuôi đơn lẻ hay nuôi tập trung với qui mô lớn nhằm khai thác chính yếu về mặt kinh
tế và đảm bảo an toàn cho người chăn nuôi. Các tính toán theo qui trình luôn được
người chăn nuôi cân nhắc lựa chọn loài vật nuôi, giống nuôi và một loạt các chế độ


9
chăm sóc phù hợp. Xét trên góc độ khai thác kinh tế người chủ sở hữu khi đầu tư
cho một dự án này luôn phải tính toán đến một số khía cạnh chủ yếu sau:

 Hoạt động này phải đồng nghĩa đảm bảo cho vật nuôi phát triển mạnh khoẻ
theo đúng biểu đồ tăng trưởng với giống loài, cho đến một kết quả đạt được
trên cả 2 tiêu chí: chất lượng sản phẩm cuối cùng và thời gian kết thúc nuôi
 Đảm bảo sự an toàn không chỉ cho động vật nuôi trong một môi trường tập
trung, đồng thời với môi trường là con người và các sinh vật xung quanh. Kế
đến là ý nghĩa đảm bảo an toàn đầy đủ về việc sử dụng các sản phẩm từ vật
nuôi phục vụ cho nhu cầu của con người
 Thị trường đầu ra luôn được tính toán trên hết để nhà đầu tư cho chăn nuôi
có được hiệu quả kinh tế mang lại sau khi đã xem xét đầy đủ các khoản chi
phí đầu tư
- Động vật nuôi cảnh: mang ý nghĩa về việc tạo cảm nhận tâm lý thụ hưởng của
người chủ sở hữu, ý nghĩa kinh tế trong trường hợp này được chủ sở hữu xem xét và
quyết định lựa chọn bất kể giá trị về mặt vật chất. Tuy nhiên, trên thực tế đối tượng
vật nuôi này thường tập trung trong các khu vực đô thị có thu nhập kinh tế tốt mới
lựa chọn.
Sự kết hợp thành thuật ngữ “dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi” trong chăn
nuôi sẽ là một khái niệm mới trong ngành chăn nuôi ở nước ta bởi ý nghĩa tích cực
mang lại không chỉ cho mỗi nhà chăn nuôi, mà còn gắn kết được với các nhà kinh
doanh, các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu, quản lý và cao hơn là sự hình
thành và phát triển của một thành viên mới trong hệ thống dịch vụ ở nước ta.
1.1.1.3. Phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi
Phát triển là tiến trình mà sự vận động đạt được đến một giai đoạn ở mức cao
hơn, ở một cấp độ tiên tiến hơn và trưởng thành hơn. Khái niệm “phát triển” trong
thời đại hiện nay đã có những thay đổi quan trọng khi nói đến phát triển cho các
hoạt động kinh tế là “phát triển bền vững” và trở nên thông dụng trong định hướng
nghiên cứu và phát triển của con người. Hội đồng thế giới về Môi trường và Phát
triển định nghĩa phát triển bền vững như sau: “Phát triển bền vững là sự phát triển
nhằm đáp ứng những nhu cầu của hiện tại mà không gây trở ngại cho việc đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ mai sau”.



10
Trong chăn nuôi, phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi là một hoạt
động mà sự phát triển cũng gắn liền với sự phát triển của ngành chăn nuôi, bởi lẽ
dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi chỉ xuất hiện khi ngành chăn nuôi bước sang
một giai đoạn mà các yêu cầu chất lượng và nhu cầu chuyên môn cao của ngành đòi
hỏi và xuất hiện. Sự liên quan mật thiết giữa dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi
với bản thân trong ngành chăn nuôi và các dịch vụ liên quan nhìn nhận phát triển
dịch vụ dưới 2 góc độ sau:
 Phát triển chiều rộng: là các hoạt động gồm nhiều dịch vụ cung ứng cho nội
tại ngành chăn nuôi đóng góp trực tiếp cho sự phát triển của ngành chăn
nuôi, như các dịch vụ: thức ăn, con giống và dịch vụ ngoài ngành như dịch
vụ bảo hiểm, dịch vụ tín dụng. Các loại dịch vụ nói chung đều có những tác
động đến sự phát triển đồng đều trên các mặt của cả chu trình chăn nuôi. Do
đó, trong sự phát triển ngành chăn nuôi sự phối hợp liên kết đóng vai trò
quan trọng để mang đến kết quả cuối cùng là hiệu quả của chăn nuôi đầu ra
 Phát triển chiều sâu: là dịch vụ chuyên môn gắn chặt từng công đoạn và qui
trình chăm sóc sức khỏe vật nuôi (dịch vụ thú y). Nổi bật nhất là: dịch vụ tư
vấn - hỗ trợ điều trị và dịch vụ cung ứng sản phẩm thuốc bao hàm đồng thời
tư vấn, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe vật nuôi kết hợp cùng các hoạt động mua
bán đóng vai trò tương hỗ duy trì và tạo sự phát triển của hoạt động dịch vụ
cũng như hiệu quả trên từng vật nuôi nhận được dịch vụ chăm sóc cung ứng
1.1.2 Đặc điểm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi
Chăm sóc sức khoẻ vật nuôi là một loạt các hành động được tiến hành nhằm
đảm bảo cho vật nuôi vừa có được một tốc độ phát triển đúng qui trình, vừa đảm
bảo an toàn trong phòng chống dịch bệnh qua các công tác phối hợp nắm tình hình,
giúp cho vật nuôi đạt hiệu quả cao trong chăn nuôi và đặc biệt là an toàn cho người
sử dụng
Ngoài những đặc điểm nói trên, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi còn mang
những nét riêng do đặc trưng của ngành chăn nuôi chi phối. Đối tượng của ngành

chăn nuôi là vật nuôi - sinh vật sống. Chăn nuôi là hoạt động nhằm khai thác sức
sản xuất của vật nuôi thông qua việc tạo ra những điều kiện thuận lợi cho chúng
phát triển ở một địa bàn nhất định, trong môi trường thiên nhiên phức tạp và thường


11
xuyên thay đổi. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi trước hết mang những nét
chung của dịch vụ, đồng thời còn mang những đặc điểm riêng sau đây :
Một là, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi vốn là những khâu của quá trình
chăn nuôi được tách riêng ra. Người chăn nuôi tự cấp tự túc cho bản thân họ vừa
chăn nuôi vừa tự phục vụ quá trình chăn nuôi của mình. Hợp tác xã nông nghiệp với
tư cách là một đơn vị sản xuất theo kiểu tập trung trước đây cũng tự đảm bảo các
khâu phục vụ cho chăn nuôi, ít cần đến dịch vụ. Nhưng để sản xuất hàng hoá, hộ gia
đình với tư cách là đơn vị tự chủ chăn nuôi, có những hạn chế về vốn, vật tư kỹ
thuật, khả năng ứng phó với những diễn biến của thời tiết, dịch bệnh nên nhu cầu về
dịch vụ tăng lên. Tuy vậy người chăn nuôi chỉ sử dụng dịch vụ chừng nào họ không
tự đảm nhiệm được hoặc dịch vụ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Hai là, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi gắn liền với sự khai thác và sử dụng
tiềm năng động vật - sinh vật sống. Trong điều kiện chăn nuôi ngày nay khi những
biến đổi thời tiết trở nên khắc nghiệt, những ảnh hưởng của các ngành kinh tế tác
động lớn đến chính sự phát triển của ngành chăn nuôi và nhất là sự xuất hiện ngày
càng nhiều các dịch bệnh mới gây những ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của nhà
chăn nuôi. Đối với vật nuôi trong mỗi chu kỳ phát triển hoặc trong các điều kiện
thời tiết khác nhau thì nhu cầu dinh dưỡng và sức đề kháng không giống nhau và
ngay cả giữa các giống vật nuôi các nhu cầu về thức ăn, nước uống, thuốc thú y
cũng có nhiều điểm khác biệt. Vì thế dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi ra đời kết
hợp với những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và được tổ chức và hoạt động tốt là
một nhân tố đóng góp quan trọng làm tăng hiệu quả chăn nuôi. Thêm nữa, chăn
nuôi chịu ảnh hưởng sâu sắc của thời tiết khí hậu và điều này tác động mạnh mẽ tới
các hoạt động của dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi trong việc chủ động tư vấn

hỗ trợ cho nhà chăn nuôi. Do vậy nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật
nuôi của người chăn nuôi phụ thuộc nhiều theo diễn biến của thời tiết, khí hậu nên
tính chủ động trong công tác phòng ngừa luôn được đề cao. Dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ vật nuôi là sự bao hàm những kiến thức, kinh nghiệm quí và khả năng giúp ích
một cách thiết thực đóng góp cho quá trình chăn nuôi mà nhà chăn nuôi bị hạn chế
bởi tầm hiểu biết chưa đầy đủ, gây ít nhiều khó khăn khi thực hiện dẫn tới hiệu quả
kinh tế thấp và thậm chí là không có khi đầu tư. Vì vậy, sự cần thiết phải tiếp nhận


12
các tác động tích cực như là điều kiện, yếu tố từ bên ngoài dưới những cách thức
khác nhau như: mua, bán, trao đổi, thuê là một nhu cầu tất yếu trong sự phát triển
đi lên của xã hội.
Ba là, chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe vật nuôi gắn chặt với công tác
phòng ngừa - kiểm soát tình hình dịch bệnh. Từ trước đến nay ở nước ta hoàn toàn
thông qua hệ thống từ cơ sở (kiêm nhiệm tại xã) lên trung ương với nhiều tầng nấc
mà chính sách và trình độ hạn chế làm cho công tác thu thập tình hình chăn nuôi &
kiểm soát dịch bệnh ít được coi trọng. Kèm theo là các hệ thống thông báo, theo
dõi, báo cáo không theo một qui trình cụ thể định kỳ làm cho công tác này càng mất
tính chính xác trong đánh giá số liệu. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi là một
kênh kiểm soát sử dụng trong việc nắm bắt chính xác tình hình thực tế tại địa
phương, trực tiếp hỗ trợ - tư vấn và cung cấp đầy đủ sản phẩm thú y theo đúng nhu
cầu thực tế từ địa phương. Qua đấy, hệ thống dịch vụ sẽ đóng góp rất lớn trong việc
đề xuất các giải pháp cho cơ quan quản lý thú y các chương trình phòng ngừa và
kiểm soát dịch bệnh hiệu quả.
1.1.3 Lợi ích và vai trò của dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi
Trong nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc, người chăn nuôi sản xuất ra sản
phẩm là nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của họ. Hầu hết nhu cầu cho sản xuất và
tiêu dùng cá nhân được tính toán và thoả mãn chỉ trong phạm vi kinh tế gia đình.
Chọn giống cho vụ sau ngay từ sản phẩm đã được thu hoạch vụ này là một tập quán

thường thấy ở đa số những hộ chăn nuôi gia đình qui mô nhỏ. Và bản thân họ ít khi
nghĩ đến việc sử dụng các điều kiện sản xuất ngoài gia đình mình chính bởi những
toan tính về chi phí và lợi nhuận đơn thuần. Sản xuất và tái sản xuất gần như khép
kín trong phạm vi gia đình nên người chăn nuôi không có các điều kiện để tiếp thu
khoa học - kỹ thuật, phải dựa vào kinh nghiệm và sự thuận hoà của thời tiết là
chính. Hiệu quả và năng suất lao động thấp. Hầu như nhu cầu về dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ vật nuôi không thấy và nếu có là rất ít trong cách thức tổ chức chăn nuôi
theo hình thức này.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người chăn nuôi bắt đầu chuyển biến thành nhà
chăn nuôi bước từ sản xuất ra sản phẩm không chỉ để tự tiêu dùng mà chủ yếu là để
trao đổi mua bán. Sản xuất kinh tế hàng hoá hình thành và phát triển theo qui luật


13
vốn có của nó như qui luật cung cầu, qui luật giá trị thặng dư, lưu thông tiền tệ,…và
các phạm trù kinh tế như: giá cả, hàng hoá, tiền tệ vv…các phạm trù kinh tế này đòi
hỏi các chủ thể tham gia nền kinh tế phải năng động, linh hoạt tìm mọi cách để
giảm hao phí lao động xã hội cá biệt thấp hơn so với lao động xã hội cần thiết có thể
bù đắp được chi phí và tiến tới có lãi. Muốn vậy họ phải tìm mọi cách để cải tiến kỹ
thuật, áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến hiện đại vào chăn nuôi, nhằm tăng
năng suất lao động, cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm. Do tính đặc thù riêng về
chăn nuôi, cho nên để có nhiều sản phẩm với chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của
thị trường cần phải tính đến tác động của dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi mang
đến hiệu quả đối với nhà chăn nuôi ở những mặt nào: ở đây dễ thấy nhất là dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ vật nuôi sẽ làm cho qui mô chăn nuôi được mở rộng, năng suất
lao động được nâng cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển vv…
Trong công tác chăm sóc sức khoẻ nói chung, yêu cầu đặt ra với bất cứ một sản
phẩm và dịch vụ nào đưa ra phải đảm bảo được 2 nhân tố quan trọng hàng đầu đó
chính là: An toàn và Hiệu quả. Đi sâu tìm hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của chúng
sẽ cho ta một cái nhìn đúng đắn hơn trong hoạt động của dịch vụ chăm sóc sức khoẻ

vật nuôi
- Đảm bảo an toàn
Một xã hội phát triển kéo theo các nhu cầu đảm bảo an toàn từ chính môi
trường sinh sống cho mỗi người. Tuy rằng, với nhu cầu về tinh thần và vật chất tăng
lên làm cho chính con người đang trở nên đối kháng với việc duy trì một môi
trường lành mạnh cho cuộc sống của cá nhân và xã hội. Chăn nuôi công nghiệp theo
qui mô trang trại lớn nói chung hay chăn nuôi theo gia trại luôn là nguồn dễ gây
những tác hại cho chính môi trường bởi các nguồn thải ra từ động vật chăn nuôi, bởi
động vật chăn nuôi có thể là vật chủ trung gian hoặc lan truyền trực tiếp bệnh cho
người tiếp xúc qua không khí, nguồn nước thải không được xử lý cũng như nguồn
thực phẩm sử dụng cho người tiêu dùng. Rất nhiều căn bệnh lây truyền gây ảnh
hưởng trực tiếp đến người: bệnh lợn gạo, các bệnh xuất phát từ ký sinh trùng đường
máu, qua chất thải vào môi trường, trong đó mối nguy hại dễ ảnh hưởng hướng tới
con người nhất chính là các bệnh lây thông qua đường hô hấp và mới đây là những
giả định có thể về nguy cơ khả năng nhiễm cúm do virut H5N1 trên người lây


14
truyền từ gia cầm, thuỷ cầm cho thấy sự nguy hiểm rất lớn đối với cuộc sống của
loài người nói chung trước những hiểm hoạ từ tự nhiên. Tất cả điều này đang đặt ra
một hệ thống có khả năng theo dõi, giám sát và chủ động trong các công tác phòng
ngừa thông qua dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi
- Đảm bảo hiệu quả
Khi xác định hoạt động chăm sóc sức khoẻ vật nuôi, nhìn chung luôn đặt trong
một đánh giá bao trùm về hiệu quả sử dụng. Hiệu quả có nghĩa là tính chất tác động
từ việc sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ sẽ giúp cho công tác phòng ngừa và điều trị
mang đến cho vật nuôi có sức khoẻ tốt hơn, giúp cho quá trình chăn nuôi theo đúng
qui trình (phòng ngừa), hay rút ngắn thời gian điều trị (khi bị bệnh), tiết kiệm chính
chi phí sử dụng thuốc, thức ăn cho giai đoạn bị bệnh và hồi phục Hiệu quả rất
thiết thực và quan trọng đặc biệt khi chăn nuôi qui mô lớn bởi với việc tiết kiệm

trên từng đầu vật nuôi sẽ mang lại lợi ích rất lớn về tài chính trong cả ngắn hạn và
dài hạn đối với nhà chăn nuôi.
Thêm nữa, sự chuyên nghiệp hoá trong chăn nuôi đòi hỏi sự đầu tư của nhà
chăn nuôi với các qui trình một cách đồng bộ có tính toán để đảm bảo sự hiệu quả
cao nhất trong mỗi khoản đầu tư. Sự liên kết trong việc phối hợp cùng lựa chọn dịch
vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi sẽ vừa giúp cho nhà chăn nuôi tiết giảm được các
khoản đầu tư ít hiệu quả, mà điều quan trọng hơn tính chuyên nghiệp và khoản đầu
tư phù hợp nhờ triển khai rộng rãi sẽ giúp cho sự phát triển của dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ vật nuôi phát triển theo đúng ý nghĩa mang lại.
Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi có vai trò rất quan trọng thúc đẩy ngành
chăn nuôi và tương tác với các dịch vụ khác phát triển, thể hiện như sau :
Thứ nhất, góp phần mở rộng qui mô chăn nuôi, làm tăng năng suất lao động.
Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi là nhân tố rất quan trọng đối với sự phát triển
của ngành chăn nuôi trong điều kiện nền nông nghiệp hàng hoá. Dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ vật nuôi bao gồm: tiêm phòng, điều trị ký sinh trùng, dịch vụ thiến/ hoạn,
chẩn đoán và điều trị bệnh, tẩy trùng, thụ tinh nhân tạo, khám và chữa trị định kỳ,
bổ xung dinh dưỡng Chúng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả chăn nuôi, sản
lượng vật nuôi. Dịch vụ tư vấn và cung cấp thuốc thú y có bản chất chính là dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ vật nuôi khi thực hiện đồng thời. Nó quyết định đến hiệu quả


15
chăn nuôi bởi vừa mang tính chất tự nguyện, vừa có tính chất cần thiết bắt buộc
trong quá trình chăn nuôi. Đối tượng của ngành chăn nuôi là những sinh vật sống
sinh trưởng và phát triển theo qui luật riêng, đồng thời chịu tác động và ảnh hưởng
lớn ở trên cả chiều đối nhau với môi trường thiên nhiên. Khi có sự tác động tích cực
từ phía con người giúp cho chúng sinh trưởng và phát triển tốt giảm được nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường và bệnh tật cho sinh vật xung quanh. Để chăn nuôi phát
triển, nhu cầu tăng sản lượng và duy trì năng suất ở mức tối ưu đối với vật nuôi đòi
hỏi nhà chăn nuôi thường xuyên xem xét và lựa chọn sử dụng các giống mới có

hiệu quả cao, có ưu thế trong việc khắc phục những tác động tiêu cực của thời tiết,
dịch bệnh. Chính vì vậy, sản xuất con giống trên qui mô rộng lớn, đảm bảo các yêu
cầu kỹ thuật là hết sức cần thiết. Điều này từng người chăn nuôi không thể tự thực
hiện được mà phải có dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi tốt mới đáp ứng được
nhu cầu đó.
Trong chăn nuôi, vật nuôi còn mang tính cộng đồng, sống theo quần thể lớn,
chịu sự tác động qua lại lẫn nhau, kìm hãm hoặc thúc đẩy nhau cùng phát triển. Một
vật nuôi bị bệnh dịch nếu không phát hiện và xử lý kịp thời, nhất định sẽ lây sang
vật nuôi khác xung quanh, có khi thành dịch lớn, làm thiệt hại cả đàn vật nuôi. Một
con bò bị bệnh dịch, không được điều trị kịp thời chắc chắn sẽ lây sang các con nuôi
nhốt chung và thông qua nhiều đường lây truyền khác nhau sẽ nhanh chóng tác
động đến ngay địa bàn chăn nuôi, thậm chí ảnh hưởng đến cả khu vực trở thành
dịch lớn. Vì thế nếu làm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi tốt sẽ góp phần giải
quyết được những vấn đề trên. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi yêu cầu trình
độ, khả năng chuyên môn kỹ thuật, không phải ai cũng có thể làm được và nếu để
hoạt động này cho người chăn nuôi tự làm và thiếu sự giám sát hỗ trợ sẽ có nhiều
điều bất lợi: nhiều nhà chăn nuôi không đủ trình độ để xác định bệnh và loại bệnh,
thiếu các trang thiết bị chẩn đoán - xét nghiệm, việc lựa chọn đúng thuốc điều trị và
sử dụng cũng như có chất lượng khó phân biệt được, và khi sử dụng thuốc thường
không nắm chắc các qui trình - thao tác sử dụng theo hướng dẫn Để từng hộ làm
không thể phòng trừ bệnh đồng loạt, nhất là khi có dịch lớn xảy ra. Nhiều vấn đề
nổi cộm trong chăn nuôi thường được nhà chăn nuôi xử lý mang tính tự phát, chủ
quan không có sự nhìn nhận đầy đủ về vấn đề cho vật nuôi nhà mình và cộng đồng


16
chăn nuôi địa phương. Và một nguyên nhân cũng nhận thấy là việc tiết kiệm các chi
phí đầu tư đúng mức cho công tác thú y để lại những hậu quả lớn về sau không dự
liệu được dễ gây những tổn thất lớn cho chính mỗi cá nhân chăn nuôi và cộng đồng
chăn nuôi xung quanh. Vì vậy, sự cần thiết thấy rõ đối với việc có những tổ chức,

người chuyên nghiệp cung ứng dịch vụ rất thiết thực này.
Thứ hai, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi tốt sẽ góp phần thúc đẩy ngành
chăn nuôi phát triển mạnh mẽ và ổn định. Sản xuất nông nghiệp khi chuyển sang
sản xuất hàng hoá phụ thuộc nhiều vào thị trường sản phẩm. Thị trường tiêu thụ sản
phẩm vừa là điều kiện, vừa là phương tiện tiến hành quá trình chăn nuôi, là đầu mối
tập trung và phản hồi mọi quan hệ giữa người chăn nuôi và người tiêu dùng. Chăn
nuôi tạo ra và cung cấp sản phẩm cho tiêu dùng, thông qua lưu thông trao đổi hàng
hoá. Thị trường tiêu dùng tác động trở lại người chăn nuôi “buộc” người chăn nuôi
phải ngày càng hoàn thiện sản phẩm với chất lượng ngày càng cao, giá bán hợp lý
mới tồn tại và phát triển. Khi đầu ra của ngành chăn nuôi được đảm bảo sẽ trở thành
chất kích thích mạnh đối với chăn nuôi. Đối với thị trường xuất khẩu lại càng đòi
hỏi nghiêm ngặt về chất lượng sản phẩm, qui cách tiêu chuẩn qui định và có khối
lượng sản phẩm lớn.
Thứ ba, đa dạng hóa giống loài chăn nuôi làm tăng giá trị sử dụng và hiệu quả
kinh tế. Cơ cấu giống loài trong chăn nuôi ở Việt Nam từ trước đến nay mới chỉ chú
trọng vào những đối tượng vật nuôi thân thuộc có hàm lượng giá trị về mặt kinh tế
thấp bởi chất lượng sản phẩm khai thác thấp, số lượng ít, phụ phẩm khai thác ít có
giá trị, qui trình kiểm soát không đồng bộ, thiếu hụt các dịch vụ hỗ trợ chuyên
nghiệp Bước sang giai đoạn mới, khi nhu cầu xã hội tăng cao đòi hỏi những sản
phẩm mới có chất lượng cao, năng suất tăng nhanh, các qui trình kiểm soát chất
lượng được đảm bảo dẫn đến sự xuất hiện nhiều loài nuôi mới tại Việt Nam trong
thập kỷ trở lại đây. Những giống đà điểu, cá sấu, bò sữa cao sản đã từng bước
được đưa vào chăn nuôi thử nghiệm tại Việt Nam. Giá trị kinh tế và dinh dưỡng
mang lại hoàn toàn được thừa nhận ở nhiều nước trên thế giới. Hoà nhập với điều
kiện Việt Nam đòi hỏi những nỗ lực nghiên cứu - thử nghiệm từ các nhà khoa học,
tiếp đến là các đơn vị chuyển giao cần thiết cả con giống và phương pháp chăn nuôi
một cách chặt chẽ, chính đây là cơ hội mà các người chăn nuôi sẽ cần những tổ


17

chức chuyên nghiệp về dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi tư vấn - hỗ trợ triển
khai ứng dụng theo hướng dẫn qui củ đảm bảo sự phát triển bền vững của những
loài vật nuôi mới này mang lại lợi ích cho chính các bên cùng tham gia.
Thứ tư, tạo dựng các thương hiệu sản phẩm chăn nuôi có uy tín và chất lượng
góp phần thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Các sản phẩm từ chăn nuôi cuối cùng phải
đến tay người sử dụng và việc lựa chọn sản phẩm lại do người tiêu dùng quyết định.
Điều này cho thấy, thị trường là một đòi hỏi tiên quyết quyết định sự tồn tại của bất
cứ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nào cung ứng trên thị trường. Những sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ nào có chất lượng cao được sự thừa nhận sẽ tồn tại và phát
triển và đương nhiên giá cũng tương thích với chất lượng mà người tiêu dùng chấp
nhận được. Còn đối với sản phẩm chất lượng thấp, thậm chí là nguy hiểm đối với
người sử dụng thì ngay từ rào cản kiểm dịch chứng nhận đảm bảo chất lượng tiêu
thụ sản phẩm và kế đến quan trọng hơn chính là niềm tin người tiêu dùng không có
chỗ cho những sản phẩm thấp kém. Thị trường tiêu thụ thực phẩm đang trong xu thế
tiến tới không có biên giới bởi hệ thống thuế quan được dỡ bỏ nhưng những rào cảo
về kiểm dịch nguồn gốc xuất xứ và qui trình chăn nuôi lại được kiểm soát chặt chẽ
hơn, các sản phẩm có khả năng lưu chuyển tự do khi đáp ứng các yêu cầu nghiêm
ngặt về chất lượng kiểm dịch đối với từng thị trường có thể là một vùng, tỉnh đến
quốc gia và xa hơn là thị trường các nước đang phát triển và phát triển cao. Yếu tố
thương hiệu của sản phẩm có uy tín từ nhà sản xuất và vùng miền cung cấp sẽ nâng
cao giá trị sản phẩm trên con đường lưu thông qua các nhà phân phối đến tay người
tiêu dùng lựa chọn và cảm nhận. Ý nghĩa sẽ lớn hơn rất nhiều nếu thấy rằng những
sản phẩm tốt không chỉ gắn liền với sản phẩm của một doanh nghiệp mà đi liền với
đó là những tên tuổi vùng, miền tạo ra các giá trị niềm tin trong người sử dụng.
Thứ năm, là đòn bẩy cho các tương tác phát triển của các mối quan hệ gắn kết
cùng chăn nuôi. Các hoạt động nghiên cứu - ứng dụng của Việt Nam còn hạn chế
bởi việc nắm bắt nhu cầu từ thực tế do cung cách quản lý và trình độ cán bộ trong
ngành chăn nuôi, các cơ chế từ hệ thống luật và văn bản hướng dẫn bao trùm cho
phát triển ngành chăn nuôi chưa được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng đầy đủ xét từ
thực tế môi trường tự nhiên và trình độ nhận thức chung của nhà chăn nuôi mỗi địa

phương, Do vậy, những tiến bộ của thế giới đối với chăn nuôi trong công tác


18
phòng ngừa và kiểm soát vẫn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ
theo đúng tính chất của nó. Lợi ích của dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi chính là
mối quan hệ nhiều chiều giữa các nhà chăn nuôi - nhà nghiên cứu - nhà quản lý
thông qua các nhà cung cấp dịch vụ sẽ mang lại hiệu quả chung giữa các bên liên
quan. Khi các nhu cầu xuất phát từ chăn nuôi, các thông tin được nhà tổ chức cung
cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi cập nhật phối hợp cùng các nhà nghiên cứu,
quản lý nắm bắt để nghiên cứu, xử lý đúng vấn đề. Mặt khác các tiến bộ nghiên cứu
cần triển khai đại trà sẽ qua các tổ chức dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi được
triển khai một cách nhanh nhất và mang lại hiệu quả thiết thực nhất, bên cạnh đó
các văn bản qui định thông qua tổ chức dịch vụ sẽ làm tăng cường sự nhận thức và
chấp hành rộng rãi khi lòng tin và kính trọng đối với hoạt động chăm sóc sức khoẻ
vật nuôi tạo lập từ nhà cung ứng dịch vụ tới các nhà chăn nuôi tại địa phương.
Thứ sáu, tạo ra một hệ thống dịch vụ chăn nuôi phát triển, góp phần trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi là một trong
những dịch vụ mà hoạt động chăn nuôi đòi hỏi như dịch vụ tư vấn và cung cấp dụng
cụ thiết bị chuồng nuôi, giống vật nuôi, dịch vụ cung ứng thức ăn và qui trình chăn
nuôi vv Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi để ra đời, tồn tại và phát triển chắc
chắn cần phải có những đánh giá một cách toàn diện về thị trường mà xác định cần
cung cấp dịch vụ nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào, thời gian cung
cấp ra sao. Tất nhiên, sự bao hàm trong cung ứng sản phẩm đi kèm tư vấn - hỗ trợ
giúp dịch vụ có cơ hội khẳng định được thế mạnh chuyên môn cũng như đáp ứng
yêu cầu thiết yếu cho những nhà chăn nuôi mong muốn phát triển chăn nuôi theo
hướng lâu dài. Xu thế tất yếu trong quá trình liên kết thường là sự gắn kết đảm bảo
đầy đủ cho một dịch vụ hoàn chỉnh đối với người chăn nuôi. Sự cần thiết đối với
liên kết giữa các dịch vụ ở chỗ nhà đầu tư khi quyết định đưa nguồn vốn vào đầu tư
chăn nuôi, thì ngoài các công tác nghiên cứu thị trường một cách đầy đủ, đánh giá

thị trường đầu ra, phân tích ROI (lợi nhuận trên vốn đầu tư) đến xác định nội dung
từng công việc kỹ thuật chi tiết để lựa chọn: địa điểm chăn nuôi, kỹ thuật xây dựng
chuồng, vấn đề con giống, thức ăn, quy trình tiêm phòng, kiểm soát dịch bệnh và
mỗi công tác kỹ thuật trong đó đều gắn với một loại hình dịch vụ cung ứng sẵn có
trên thị trường. Chính điều này đã tạo ra một nhu cầu lựa chọn hệ thống dịch vụ liên


19
kết hoàn chỉnh có uy tín và chi phí tiết kiệm nhất trong quá trình phối hợp tư vấn hỗ
trợ cho nhà chăn nuôi. Mục tiêu dài hạn của ngành là: gia tăng giá trị sản phẩm với
các qui trình kiểm soát và phòng ngừa nghiêm ngặt, đóng góp quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng dinh dưỡng của quốc gia, phát triển kinh tế qua việc tạo thêm
nhiều công ăn việc làm, mở ra những ngành dịch vụ mới chuyên sâu đáp ứng sự
phát triển mạnh mẽ của xã hội. Lợi ích này được đặt trong tổng thể về nhu cầu thực
phẩm cho sự phát triển của người dân, bởi việc lựa chọn cơ cấu dinh dưỡng thích
hợp với từng độ tuổi, từng giới và từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế sẽ giúp
tạo ra cuộc cách mạng lớn trong thay đổi về thể chất và trí tuệ của cả dân tộc qua
một giai đoạn nhất định. Tiếp đến, sự hình thành các nhóm, tổ chức theo mô hình
dịch vụ là xu hướng đi lên của xã hội hiện đại chính bởi giá trị gia tăng của việc tạo
ra sản phẩm nhờ đóng góp từ trí tuệ, dịch vụ luôn mang đến một hình ảnh của
ngành công nghiệp không khói, ít mang đến những nguy hại môi trường, thu hút
đuợc một bộ phận những cán bộ chuyên môn cao liên kết cung ứng cho ngành tạo
ra sự liên kết mang lại lợi ích lẫn nhau trong sự đi lên chung của cả ngành chăn
nuôi.
Thứ bảy, tham gia và lôi kéo sự tương hỗ của các hệ thống dịch vụ khác cùng
tác động vào sự phát triển. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi còn phải được nhìn
trong mối quan hệ với không chỉ trong ngành chăn nuôi mà còn ở chỗ tác động làm
cho sự tham gia của các hoạt động kinh tế khác làm tăng giá trị sản phẩm và làm
giảm rủi ro trong đầu tư vào chăn nuôi. Đây là một cách nhìn mới mà từ trước đến
nay Việt Nam chưa nhận thấy hình ảnh hay “Thương hiệu” của vật nuôi có xác

nhận từ một cơ quan, tổ chức có uy tín được thừa nhận, giá trị sản phẩm với chứng
nhận “An toàn sử dụng” được bày bán trong các hệ thống siêu thị lớn của cả trong
nước và quốc tế chắc chắn sẽ mang lại giá trị cao hơn là sản phẩm chỉ được bán
trong các chợ tại địa phương hay qua việc vận chuyển - giết mổ của những người
bán rong. Tiếp nữa chính là sự thừa nhận rủi ro trong bản thân nhà chăn nuôi là một
phương án không thể tránh khỏi, và sự tham gia bảo hiểm đã giúp đỡ cho nhà chăn
nuôi có độ an toàn cao trong quá trình hoạt động. Quá trình này thường chỉ đi vào
thực chất nếu có sự tham gia từ chính các tổ chức dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật
nuôi được uỷ quyền từ nhà bảo hiểm chấp nhận.


20
Thứ tám, đóng góp quan trọng vào nhu cầu tinh thần của một xã hội phát triển
ngày càng văn minh hiện đại, bởi lẽ vật nuôi trong xã hội hiện đại được gắn với
cuộc sống của con người khi nhu cầu giải trí, thư giãn hay tự khẳng định mình trong
xã hội ngày một đi lên. Những lợi ích về mặt xã hội của những “người bạn nhỏ” có
những tác động rất lớn về mặt tâm lý và thể chất một cách tích cực qua việc sở hữu
một vật nuôi trong nhà. Cuộc sống với những căng thẳng trong công việc, những
núi công việc liên tục hàng ngày hay sự cô đơn khi trở về với cuộc sống thực tại sau
mỗi ngày làm việc kết thúc tại công sở tất cả đều có lý do mong chờ “người bạn
nhỏ” đang chờ đón tại nhà. Theo một số nghiên cứu chỉ ra đối với những người có
thú cảnh, đa số đều có chung nhận xét: “Vật nuôi rất đáng tin cậy, tràn đầy tình yêu,
có khả năng nắm bắt tình cảm bằng hành động, lòng biết ơn và sự trung thành ”-
Alfred A.Montapert. Với nhiều người cuộc sống gắn với những loài vật đáng yêu
cho họ một chỗ dựa để san sẻ và vui đùa, quên đi những thăng trầm trong cuộc
sống. Gắn kết với họ, các loài vật nuôi luôn nhận được sự quan tâm chăm sóc
không chỉ trong những sinh hoạt ăn nghỉ mỗi ngày mà cả khi những thay đổi của
thời tiết hoặc bệnh tật đến với vật nuôi của họ. Các phòng khám vật nuôi luôn là lựa
chọn số 1 trong các yêu cầu đặt ra của họ về qui trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng
bệnh đầy đủ Và ngay cả khi những chuyến vắng nhà thì dịch vụ chăm sóc vật nuôi

rất hữu ích khi cung cấp đầy đủ các yêu cầu của chủ vật nuôi đối với thú cưng của
họ.
Vì thế, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi là một khâu không thể thiếu được
trong sự phát triển ngành chăn nuôi nói riêng và xã hội hiện đại nói chung. Mỗi hoạt
động gắn kết với dịch vụ sẽ mang lại quyền lợi cao hơn mà nhà chăn nuôi nhận
được so với khi chưa có dịch vụ hoặc chưa tham gia. Khi dịch vụ đó được xây dựng
bảo đảm, tổ chức thực hiện tốt sẽ là nguồn lực quan trọng kích thích và đóng góp rất
tích cực cho ngành chăn nuôi phát triển mạnh mẽ hơn.
Từ sự phân tích trên cho thấy rằng để tiến hành chăn nuôi có hiệu quả, từng hộ
không thể làm tất cả các khâu trong quá trình chăn nuôi mà đòi hỏi phải có sự phục
vụ từ bên ngoài (từ các doanh nghiệp nhà nước, tập thể, tư nhân) thì sản xuất chăn
nuôi của các hộ mới tiến hành thuận lợi và thu được kết quả. Điều đó chứng tỏ
trong nền nông nghiệp hàng hoá thì dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vật nuôi là một tất

×