Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam từ khi gia nhập WTO đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 115 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



DƢƠNG QUỲNH CHI


MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ KHI
GIA NHẬP WTO ĐẾN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG





Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





DƢƠNG QUỲNH CHI

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ KHI
GIA NHẬP WTO ĐẾN NAY


Chuyên ngành: Tài chính và Ngân hàng
Mã số: 60 34 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH PHONG


Hà Nội – 2013


DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

STT
Chữ viết tắt
Nguyên nghĩa
1.
ADB
Ngân hàng Phát triển châu Á
2.
APEC
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình

Dương
3.
CLI
Chỉ số đánh giá sinh hoạt
4.
CNY
Nhân dân tệ
5.
CPI
Chỉ số giá tiêu dùng
6.
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
7.
DNNQD
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
8.
DNNVV
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
9.
ECB
Ngân hàng Trung ương châu Âu
10.
EU
Liên minh châu Âu
11.
EUR
Đồng tiền chung Châu Âu
12.
FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài
13.
FED
Cục dự trữ liên bang Hoa Kì
14.
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
15.
GNP
Tổng sản phẩm quốc gia
16.
IMF
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
17.
NHNN&PTNT
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
18.
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
19.
NHTM
Ngân hàng thương mại
20.
NHTW
Ngân hàng trung ương
21.
NSNN
Ngân sách Nhà nước
22.
ODA

Viện trợ phát triển chính thức
23.
PBOC
Ngân hàng TW Trung Quốc
24.
PPI
Chỉ số giá sản xuất


25.
RMB
Tỷ giá đồng nhân dân tệ
26.
TCTD
Tổ chức tín dụng
27.
TDH
Trung, dài hạn
28.
TTTC
Thị trường tài chính
29.
TSBĐ
Tài sản bảo đảm
30.
SCIC
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước

31.
USD

Dollar Mỹ
32.
VND
Đồng Việt Nam
33.
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
34.
WB
Ngân hàng thế giới
35.
WTO
Tổ chức thương mại thế giới






















DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

STT
Bảng
Nội dung
Trang
1.
Biểu 2.1
Các chính sách lãi suất của NHNN Việt Nam từ tháng 4
năm 2003 đến tháng 6 năm 2008
50
2.
Biểu 2.2
Biểu đồ chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của các tháng so với cùng
kỳ năm 2011
52
3.
Biểu 2.3
Chỉ số giá tiêu dùng các tháng năm 2012
53
4.
Biểu 2.4
CPI theo các tháng (giai đoạn 2/2011-2/2012)
54
5.
Biểu 2.5

Các chính sách lãi suất của NHNN Việt Nam từ tháng 4
năm 2003 đến tháng 6 năm 2008
60



MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về lạm phát 5
1.1. Định nghĩa về lạm phát 5
1.2. Phân loại và đo lƣờng lạm phát 6
1.2.1. Phân loại 6
1.2.2. Đo lường lạm phát 7
1.3. Những tác động của lạm phát 11
1.3.1. Các tác động tiêu cực của lạm phát 11
1.3.2. Lợi ích của lạm phát 13
1.4. Các nguyên nhân và giải pháp đối phó với lạm phát 14
1.4.1. Các nguyên nhân gây lạm phát 14
1.4.2. Các giải pháp đối phó với lạm phát 18
1.5. Tính chất hai mặt của những giải pháp thị trƣờng chồng lạm phát 22
1.5.1. Bẫy lạm phát liên quan đến tự do hóa giá cả 22
1.5.2. Bẫy lạm phát liên quan đến chính sách tự do hóa tỷ giá hối đoái 25
1.5.3. Bẫy lạm phát liên quan đến tự do hóa ngoại thương 31
1.5.4. Bẫy lạm phát liên quan đến chính sách vay nợ và
thu hút đầu tư nước ngoài 34
1.5.5. Bẫy lạm phát liên quan đến thắt chặt chính sách
tài chính tiền tệ tín dụng 36
1.5.6. Bẫy lạm phát liên quan đến các khía cạnh xã hội 38
Chƣơng 2: Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 đến nay 45
2.1. Khái quát đặc điểm và chính sách đối phó với lạm phát ở Việt Nam

trƣớc năm 2007 45
2.2. Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2012 49
2.3. Chính sách chống lạm phát của chính phủ giai đoạn 2007-2012 57
2.3.1. Những giải pháp chung 57
2.3.2. Những giải pháp cụ thể 59
2.3.3. Đánh giá công tác và bài học về chống lạm phát ở Việt Nam


giai đoạn 2007 đến nay 63
Chƣơng 3: Một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong thời
gian tới 81
3.1. Bối cảnh kinh tế thế giới, Việt Nam trong thời gian tới. 81
3.1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới 81
3.1.2. Bối cảnh kinh tế Việt Nam 94
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm kiềm chế vững chắc lạm phát ở Việt
Nam thời gian tới 100
3.2.1. Tích cực và chủ động tham gia hội nhập quốc tế 100
3.2.2. Bảo đảm các cân đối tài chính vĩ mô 101
3.2.3. Cải tổ, sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động khu vực DNNN 103
3.2.4. Phát triển thị trường tài chính tiền tệ lành mạnh và hiện đại 104
3.2.5. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước 109
3.2.6. Phát triển nguồn nhân lực và hệ thống an sinh xã hội 111
Kết luận 115
Danh mục tài liệu tham khảo 117















LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạm phát cao là vừa căn bệnh kinh niên vừa là người bạn đường của nền
kinh tế thị trường; nó không có bản chất giai cấp mà nó là bản chất của kinh tế thị
trường. Có thể nói lạm phát luôn là một vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định
chính sách kinh tế của bất kỳ một nền kinh tế nào trên thế giới. Đặc biệt trong thời
đại ngày nay, lạm phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh
tế xã hội cả ở cấp quốc gia và quốc tế. Với tư cách là kết quả tổng hoà của các chính
sách kinh tế xã hội vĩ mô, cũng như của các hoạt động kinh doanh vi mô trong sự
hoà quyện và ảnh hưởng tương tác với bối cảnh chung của nền kinh tế khu vực và
thế giới, lạm phát đã có tác động trực tiếp và gián tiếp, nhanh hoặc chậm, tích cực
và tiêu cực, ở mức độ này hay ở mức độ khác đến toàn bộ các lĩnh vực và khía
cạnh hoạt động của chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân, đến các quan hệ kinh tế
đối nội và đối ngoại của quốc gia, và tác động cả đến tình hình kinh tế khu vực và
thế giới với mức độ tuỳ theo vị thế kinh tế chính trị mà nước đó đảm nhận trong khu
vực và trên thế giới. Vì vậy, nghiên cứu lạm phát luôn luôn có ý nghĩa thời sự cả về
lý thuyết lẫn thực tiễn.


Cho đến nay, trên thế giới đã có hàng chục lý thuyết, hàng trăm cuốn sách,
hàng ngàn bài báo và hàng chục cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế thuộc các tầm cỡ

chuyên về lạm phát dưới mọi khía cạnh. Song, thực tiễn lạm phát thế giới luôn diễn
tiến không ngừng với nhiều đặc tính mới mẻ chưa được phân tích thấu đáo
Hơn nữa, từ khi Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007) đến nay, lạm phát ở
Việt Nam có một số biểu hiện mới, như tốc độ cao và diễn biến phức tạp hơn do
chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố mới, bên ngoài… Lạm phát đã và đang tác động
đến đời sống thường ngày của người dân, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp, cũng như gây khó khăn đối với kinh tế vĩ mô.
Vì vậy, như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và 11/NQ-CP của Chính phủ
ban hành ngày 24/2/2011 đã xác định: mục tiêu chính của năm 2011 và các năm
tiếp theo là kiềm chế lạm phát, bình ổn kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội…
Những trình bầy trên cho thấy đề tài: “Một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở
Việt Nam từ khi gia nhập WTO đến nay” là cấp thiết cả về lý thuyết và thực tế kinh
tế ở nước ta. Và đó cũng là lý do khiến tác giả chọn đề tài này làm luận văn cao học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu:
Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, vấn đề về lạm phát trong
nền kinh tế của mỗi quốc gia không chỉ chịu ảnh hưởng của các yêu tố bên trong mà
còn chịu tác động mạnh mẽ bởi những yêu tố bên ngoài. Cho đến nay, trên thế giới
đã có rất nhiều lý thuyết, nhiều công trình, đề tài, đề án nghiên cứu, phân tích về
vấn đề này: Paul Anthony Samuelson, người đoạt giải Nobel kinh tế năm 1970,
người sáng lập khoa kinh tế học lừng danh của học viện Kỹ thuật Massachusetts.
Ông là đại diện tiêu biểu của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp, các nghiên
cứu của ông về vấn đề lạm phát được trình bày rất kỹ trong cuốn “Kinh tế học” –
cuốn sách từng được tái bản rất nhiều lần ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ngoài ra có
thể kể đến học thuyết kinh tế học hiện đại của John Maynard Kenyes về lạm phát
trong cuốn “The economic Consequences of the Peace”. Keynes được coi là người
khai sinh kinh tế học vĩ mô hiện đại, hệ thống lý luận kinh tế học vĩ mô của Keynes
trở thành căn cứ chế định chính sách kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa phát đạt.
Ông đã đưa ra những quan điểm về lạm phát, nguyên nhân gây nên lạm phát và theo
ông để kiềm chế lạm phát buộc phải có những kiểm soát chặt về giá cả hàng hóa



bằng sức mạnh của luật pháp. Nối tiếp trường phái kinh tế học hiện đại của Keynes,
Robert J. Sumelson cũng đề cập đến lạm phát theo các khía cạnh khác nhau dựa trên
quan điểm của Keynes trong cuốn “The Great Inflation and its Aftermarth the Past
and Future of American Affluence”
Trong nước cũng đã có rất nhiều những công trình, đề án nghiên cứu về lạm
phát như: “Lạm phát và một số biện pháp kiềm chế lạm phát trong tình hình kinh tế
Việt Nam” của Th.s Phạm Minh Tuấn – Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra các
đặc điểm về lạm phát trong nền kinh tế hiện đại. Hay trong cuốn “Lạm phát ở Việt
Nam – Lý thuyết và kiểm chứng mô hình P-Start” của Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn
Hoài Bảo đề cập đến việc xây dựng và áp dụng mô hình kiểm chứng P-start vào
nghiên cứu lạm phát và nhiều công trình có giá trị khác…
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về tình hình lạm phát ở
Việt Nam từ khi tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đến nay. Đặc biệt
trong bối cảnh thế giới hiện đang có nhiều bất ổn cả về chính trị, kinh tế và an ninh
quốc phòng; trong đó Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những tranh chấp chính
trị, kinh tế trên biển đông. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia và
tăng trưởng của nền kinh tế. Vì vậy, cần có những nghiên cứu kịp thời để ngăn chặn
những tác động xấu đến nền kinh tế: suy giảm đà tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát tăng
cao, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao….
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
+ Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát ;
+ Phân tích thực tiễn lạm phát ở Việt Nam từ khi Việt nam gia nhập WTO;
+ Dự báo xu hướng, nhân tố ảnh hưởng và đề xuất giải pháp kiềm chế lạm
phát ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Phân tích và tổng hợp những vấn đề lý luận liên quan đến lạm phát như:
định nghĩa về lạm phát, phân loại lạm phát, những tác động của lạm phát đến nền

kinh tế. Đưa ra một số nguyên nhân và giải pháp đối phó với lạm phát.
+ Phân tích tình hình lạm phát ở VN từ năm 2007-2011 với những diễn biến
lạm phát và chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong thời


gian tới
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Những vấn đề chung về lạm phát và thực tiễn về lạm phát ở Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: giai đoạn Đổi mới, đặc biệt những năm 2007 – 2011
+ Về không gian: Động thái, nguyên nhân và chính sách kiềm chế lạm phát
của Chính phủ Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, đối chiếu để đánh giá tình hình thực tế. Đồng thời kết hợp sử dụng các bảng
biểu để minh họa
6. Những đóng góp mới của luận văn
Hệ thống hóa lý luận về lạm phát, đưa ra một số cách tiếp cận, phân loại lạm
phát theo nguyên nhân, tính chất và quá trình bộ lộ của lạm phát. Góp phần phân
tích tình hình lạm phát ở Việt Nam từ khi tham gia vào tổ chức thương mại thế giới
(WTO) năm 2007 đến nay, đồng thời đề xuất một số giải pháp cụ thể, cấp thiết góp
phần kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về lạm phát
Chương 2: Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 đến nay

Chương 3: Một số giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt Nam
trong thời gian tới








Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LẠM PHÁT

1.1. Định nghĩa về lạm phát
Trên thế giới và cả trong nước, từ những góc độ và trường phái khác nhau,
cũng như từ thực tiễn cho thấy, có nhiều cách hiểu và định nghĩa lạm phát khác
nhau giữa các trường phái kinh tế, các luận thuyết về lạm phát, các nhà kinh tế cả
trong và ngoài nước, xưa và nay. Chẳng hạn :
- J.M. Keynes và trường phái tiền tệ ở Đức và Mỹ thì quan niệm, lạm phát là
sự vi phạm quá trình tái sản xuất nằm trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, là sự phát
hành tiền quá mức tạo ra cầu dư thừa thường xuyên
- Khái quát hơn, P.A.Samuelson và W.D. Nordhaus trong cuốn "Kinh tế học"
đã cho rằng lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng lên
Ở Việt Nam, GS.TS.Bùi Huy Khoát-Viện kinh tế và chính trị thế giới-Viện
Khoa học xã hội Việt Nam, thì chia sẻ quan điểm của luận thuyết lạm phát cầu kéo
và cho là lạm phát xảy ra do sự mất cân đối giữa cung và cầu, khi cầu có khả năng
thanh toán tăng vượt quá khả năng cung của nền kinh tế làm vật giá tăng lên Xét
đến cùng thì lạm phát là sự dâng lên tự động của giá cả để lấy lại thế cân bằng đã bị
phá vỡ giữa cung và cầu, biểu hiện ra ở hàng và tiền. Còn GS.TS. Nguyễn Văn Kỷ
(Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) lại thiên về luận thuyết lạm
phát lưu thông tiền tệ, khi khẳng định lạm phát là hiện tượng tiền quá thừa trong lưu

thông so với lượng hàng quá ít ỏi. Ông Vũ Ngọc Nhung thì chỉ ra đặc trưng của
lạm phát là hiện tượng giá cả tăng lên phổ biến do tiền giấy mất giá so với vàng-
loại tiền mà nó đại diện và so với giá cả mọi thứ hàng hoá - trừ hàng hoá sức lao
động
Như vậy, tất cả các luận thuyết, các quan niệm về lạm phát đã nêu trên và đã có
cho đến nay mặc dầu, hoặc chỉ dựa vào hiện tượng biểu hiện bề ngoài của lạm phát,
hoặc tiếp cận khái niệm lạm phát từ một hoặc vài nguyên nhân nào đó của lạm phát,
song đều thừa nhận và toát lên đặc tính cơ bản chung về lạm phát là hiện tượng giá cả
chung tăng lên và đúng hơn là sức mua thực tế của đồng tiền giảm xuống.
Đây cũng chính là định nghĩa ngắn gọn và nhấn mạnh bản chất xác đáng nhất
về lạm phát được thừa nhận rộng rãi nhất trên thế giới cho đến nay.


1.2. Phân loại và đo lƣờng lạm phát
1.2.1. Phân loại lạm phát
Như đã trình bày ở trên, có nhiều quan niệm về lạm phát xuất phát từ các
góc độ tiếp cận khác nhau về vấn đề này. Cũng như vậy, người ta có thể phân loại
lạm phát ra nhiều dạng khác nhau theo những tiêu chí khác nhau.
1.2.1.1. Căn cứ vào nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát, người ta phân biệt
* Lạm phát cầu dư thừa tổng quát
* Lạm phát chi phí đẩy
* Lạm phát cơ cấu
* Lạm phát nhập khẩu (tức lạm phát sinh ra như là hậu quả của việc
nhập khẩu sự biến động kinh tế, giá cả thị trường bên ngoài, như việc giá
hàng nhập khẩu tăng, kéo theo giá cả các hàng trong nước tăng theo ) .v.v.
1.2.1.2. Căn cứ vào tính chất chủ động hoặc bị động từ phía chính phủ đối phó với
lạm phát, người ta chia ra:
* Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán trước (hay lạm phát ỳ theo cách gọi
của P.A. Samuelsson và W.D. Nordhans trong giáo trình kinh tế học vĩ mô đã nêu
trên): Là lạm phát mà toàn bộ giá cả các hàng hoá, dịch vụ đều tăng với chỉ số ổn

định trong sự chờ đợi có tính mặc nhiên, có thể dự báo được và mọi tính toán, thu
nhập cũng tăng theo tương ứng. Trong thực tế hiếm có loại lạm phát này, vì lạm
phát là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố chi phối rất khó dự báo hết trước được.
Song gần đây, ở những quốc gia có bộ máy nhà nước đủ mạnh và các thiết chế thị
trường phát triển hoàn hảo, đã và đang có loại lạm phát với tốc độ vừa phải (từ 3-
6%/năm) và được điều tiết chủ động từ phía nhà nước. Tại các nước này, mức lạm
phát đó được xem như một chỉ số cộng thêm vào mức tăng lương thực tế, vào mức
lãi suất thực tế và vào mức tăng tổng sản phẩm xã hội thực tế Tuy nhiên, về dài
hạn, việc chỉ số hoá lạm phát và các hành vi tương ứng sẽ không giúp cách ly nền
kinh tế khỏi lạm phát, mà chỉ càng làm cho lạm phát có tính không ổn định. Điều đó
là do tác động tích luỹ ngày càng lớn của việc cộng dồn chỉ số lạm phát qua các thời
kỳ, khiến giá cả tăng liên tục, dù đều đặn. Đến khi vòng xoáy ốc chi phí - giá cả kết
thúc thì giá cả đã tăng lên nhiều lần và có xu hướng ngày càng tách rời giá trị, làm
phóng đại những chấn động bên ngoài về giá cả. Cơ chế tác động này càng mạnh
nếu tỷ lệ chỉ số hoá lạm phát càng cao.


* Lạm phát không cân bằng và không dự đoán trước: Loại lạm phát mà giá
cả các hàng hoá dịch vụ tăng không đều nhau và nhà nước không dự báo cũng như
không chủ động điều tiết được. Đây là hiện tượng phổ biến nhất ở các nước đang
phát triển.
1.2.1.3. Căn cứ vào quá trình bộc lộ, hiện hình lạm phát, người ta phân biệt:
* Lạm phát ngầm: Lạm phát đang còn ở giai đoạn ẩn náu, tiềm ẩn, bị kiềm
chế về tốc độ tăng giá, hoặc biểu hiện ở dạng giá cả không tăng nhưng tăng sự khan
hiếm hàng hoặc giảm chất lượng hàng hoá và dịch vụ cung cấp.
* Lạm phát công khai: Có sự biểu hiện tăng phổ biến giá cả hàng hoá, dịch
vụ rõ rệt trên thị trường
Ngoài ra, người ta còn có thể phân biệt lạm phát theo mức độ hiện hữu ở cấp
địa phương, quốc gia và thế giới, theo tốc độ tăng giá mang tính cơ cấu khu vực
ngành kinh tế, chủng loại hàng hoá, dịch vụ.v.v., tất cả tùy thuộc nội dung khảo sát

và mục tiêu phân tích, đánh giá.
1.2.2. Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế được thu thập bởi các tổ chức
Nhà nước có chuyên môn và được phân công theo chức năng. Giá cả của các loại
hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình gọi
là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá
trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương
ứng ở thời điểm gốc.
Công thức tính lạm phát là:
I
t
= (P
t
-P
t-1
)/P
t-1
.100.
Trong đó:
I
t
- Tỷ lệ lạm phát giai đoạn t
t - là giai đoạn tính lạm phát
P
t
- tổng giá trị cả giai đoạn t
P
t-1
- tổng giá cả giai đoạn t-1

t-1 và t là hai giai đoạn kế tiếp nhau)
Trong thực tế người ta thường sử dụng các chỉ số giá thông dụng sau để
đánh giá tình hình lạm phát:


1.2.2.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI):
Trong thực tế các nước, trong đó có Việt Nam, thước đo lạm phát phổ biến
nhất được sử dụng chính là CPI- Chỉ số giá thời gian (consumer price index) đo
mức biến động giá cả bán lẻ của một số lượng lớn các loại hàng hóa và dịch vụ
khác, bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế được mua bởi
người tiêu dùng thông thường. Nói cách khác, Chỉ số giá tiêu dùng là một tỷ số
phản ánh giá của cùng rổ hàng hóa trong nhiều năm khác nhau so với giá trong năm
gốc.
Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia quyền theo
công thức Laspeyres của giá cả của kỳ báo cáo (kỳ t) so với kỳ cơ sở. Để làm được
điều đó phải tiến hành như sau:
1. Cố định giỏ hàng hóa: Thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng
hàng hóa, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
2. Xác định giá cả: Thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hóa tại
mỗi thời điểm.
3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hóa bằng cách dùng số lượng
nhân với giá cả của từng loại hàng hóa rồi cộng lại.
4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng
bằng công thức sau:
CPI
t
= 100
x
Chi phí để mua giỏ hàng hóa thời kỳ t
Chi phí để mua giỏ hàng hóa kỳ cơ sở

Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước.
Như vậy, Chỉ số giá tiêu dùng phụ thuộc vào năm được chọn làm gốc và sự
lựa chọn rổ hàng hóa tiêu dùng. Hiện nay, CPI của Việt Nam đo giá cả của khoảng
gần 600 loại hàng hóa. Không những thế, CPI cũng được tính riêng cho nhóm người
tiêu dùng nông thôn, thành thị
Nhược điểm chính của chỉ số giá tiêu dùng là mức độ bao phủ cũng như sử
dụng trọng số cố định trong tính toán. Mức độ bao phủ của chỉ số giá này chỉ giới
hạn đối với một số hàng hóa tiêu dùng và trọng số cố định dựa vào tỷ phần chi tiêu
đối với một số hàng hóa cơ bản của người dân thành thị mua vào năm gốc. Những
nhược điểm mà chỉ số này gặp phải khi phản ánh giá cả sinh hoạt là: (1) không phản
ánh sự biến động của giá hàng hóa tư bản; (2) Không phản ánh sự biến đổi trong cơ


cấu hàng hóa tiêu dùng, cũng như sự thay đổi trong phân bổ chi tiêu của người tiêu
dùng cho những hàng hóa khác nhau theo thời gian.
Ngoài những nhược điểm trên, Chỉ số này không phản ánh được tình hình
lạm phát khi mà nó thường xuyên dao động. Sự dao động trong ngắn hạn không có
liên quan gì đến áp lực lạm phát căn bản trong nền kinh tế. Việc sử dụng chỉ số này
làm mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ có thể làm chệch hướng chính sách.
1.2.2.2. Chỉ số giá sản xuất (PPI)
Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không
tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp
giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản
xuất không bằng khớp với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có
một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào
bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần
đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI ngày mai dựa trên lạm phát PPI ngày
hôm nay, mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác
biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
1.2.2.3. Một số chỉ số khác:

Chỉ số đánh giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết
giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đá các chỉ số tiêu dùng
(CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có
hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này
được xem như là sự thiên lệch trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi
sự ngang giá sức mua để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các
hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới
nói chung).
Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn
(thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống
với PPI.
Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách
có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là
vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và
bạc.


Chỉ số giảm phát/ GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội:
Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP
của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo so sánh hay GDP
thực. Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát
cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục
Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các
phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.
Chỉ số điều chỉnh GDP là loại chỉ số có mức bao phủ rộng nhất. Nó bao
gồm tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế và trọng số
tính toán được điều chỉnh tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp tương ứng của các loại
hàng hóa và dịch vụ vào giá trị gia tăng. Về mặt khái niệm, đây là chỉ số đạ diện tốt
hơn cho việc tính toán tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số giá này
không phản ánh trực tiếp sự biến động trong giá hàng nhập khẩu cũng như sự biến

động của tỷ giá hối đoái. Nhược điểm chính của chỉ số giá này là không thể hiện
được sự thay đổi của chất lượng hàng hóa khi tính toán tỷ lệ lạm phát và chỉ số
không phản ánh được sự biến động giá cả trong từng tháng.
1.3. Những tác động của lạm phát
1.3.1. Các tác động tiêu cực của lạm phát
Tác hại của lạm phát tỉ lệ thuận với tốc độ lạm phát, với mức độ các tiến
triển không thể dự báo trước và vượt ra khỏi khả năng điều tiết, kiềm chế của chính
phủ. Lạm phát phi mã và siêu lạm phát là những tai họa khủng khiếp cho đời sống
kinh tế xã hội của một nước.
Nhìn chung lạm phát (chủ yếu là lạm phát từ hai chữ số trở lên) có thể gây ra
các tác động tiêu cực sau:
Thứ nhất, do làm rối loạn chức năng thước đo giá trị của tiền tệ, nên lạm phát
xuyên tạc, bóp méo, làm biến dạng các yếu tố và tín hiệu thị trường, làm cho toàn
bộ các hoạt động kinh tế-xã hội, đặc biệt là các hoạt động sản xuất-kinh doanh
không thể tiến hành bình thường được. Bản thân vai trò điều tiết nền kinh tế của
chính phủ thông qua tiền tệ và thuế cũng bị suy giảm, thậm chí bị vô hiệu hoá, do
mức thuế trở nên vô nghĩa trước tốc độ tăng lạm phát thời kỳ phi mã hoặc siêu lạm
phát.
Thứ hai, lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, đặc biệt là hành vi đầu


tư, do làm mất khả năng tính toán hợp lý về lợi nhuận. Lạm phát kìm hãm các đầu
tư dài hạn, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, kích thích đầu tư ngắn hạn thường là vào
các tài sản mang lại lãi vốn, có tính đầu cơ (các bất động sản, kim loại quý ) gây ra
tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí. Các nhà kinh doanh
tiêu phí nhiều nỗ lực vào hoạt động dự báo và đầu cơ theo tỷ lệ lạm phát hay ngăn
ngừa những bất ổn kèm theo.
Thứ ba, lạm phát làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn và tín dụng.
Sự bất ổn định giá cả trong tương lai làm suy giảm lòng tin, động cơ và gây khó
khăn cho sự lựa chọn các quyết định của cả người gửi lẫn cả của các thể chế tài

chính-tín dụng; lạm phát có thể gây tác động xấu đến các ngân hàng tiết kiệm, cộng
đồng những người để dành, thị trường trái phiếu, các quỹ an sinh xã hội, hưu trí,
bảo hiểm và các công cụ nợ của chính phủ. Lạm phát thường tạo ra tình huống lãi
suất thực tế âm, khiến tiết kiệm giảm sút và chuyển hướng ra khỏi đầu tư sản xuất.
Bởi vậy, lạm phát thường hay đi kèm suy thoái kinh tế.
Thứ tư, việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kỳ lạm
phát. Một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng đột biến trở nên giàu có
nhanh chóng, và ngược lại, những người có các hàng hoá, tài sản mà giá không tăng
hoặc tăng chậm bị nghèo đi, mức lương thực tế cũng sụt giảm làm tổn hại đến mức
sống thực tế của người có thu nhập thấp và cố định. Phúc lợi xã hội dành cho tầng
lớp nghèo trong xã hội cũng bị suy giảm rõ rệt, thậm chí đổ vỡ, mất tác dụng. Hơn
nữa việc phân phối lại của chính phủ từ những người tiêu dùng nhiều đến người tiết
kiệm nhiều thông qua tài trợ lạm phát chỉ có thể có hiệu quả trong những giai đoạn
đầu của lạm phát; còn sau đó sẽ mất tác dụng do cơ chế tự vệ và thích nghi của các
đối tượng tiêu dùng này (chẳng hạn, họ sẽ đòi tăng lương, tăng trợ cấp hoặc tự động
điều chỉnh các chi phí sinh hoạt theo kịp với lạm phát). Việc chính phủ kiểm soát
mức tăng giá hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng bằng cách quy định giá trần sẽ kéo theo
việc làm sai lệch sự phân bố các nguồn lực, và thường dẫn đến sự thiếu hụt, chợ
đen, tham nhũng
Thứ năm, lạm phát làm tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí
dịch vụ nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ của cả các doanh nghiệp lẫn chính phủ, do
lạm phát thường kéo theo việc điều chỉnh nâng tỉ giá và lãi suất đồng bản tệ với tư
cách là các giải pháp nhằm thích nghi và kiềm chế lạm phát (đồng thời, có trường


hợp chính sự điều chỉnh phá giá bản tệ là cội nguồn trực tiếp làm gia tăng lạm phát
do áp lực chi phí đẩy đối với hàng hoá, vật tư ngoại nhập và tăng cầu đối với sản
phẩm nội địa; và sự tương tác qua lại giữa chúng nếu vượt qua khả năng kiểm soát
của chính phủ, sẽ tạo ra vòng xoáy bất tận: phá giá- lạm phát- phá giá tàn phá nền
kinh tế và đời sống kinh tế-xã hội của quốc gia).

Thứ sáu, sự mất ổn định của giá cả và tiền tệ còn làm xấu đi môi trường kinh
doanh trong nước, khiến dòng đầu tư nước ngoài đổ vào bị chậm, chững lại, thậm
chí suy giảm, đi đôi với sự ra đi của những dòng vốn trong nước. Lạm phát kéo theo
giá cả hàng nhập trở nên đắt đỏ hơn, hạn chế việc nhập những hàng hoá, vật tư cần
thiết. Lạm phát cao (thường trên 40%) luôn gắn với thâm hụt tài chính lớn và làm
thâm hụt đó trở nên nặng nề hơn, nhất là thâm hụt ngân sách.
1.3.2. Lợi ích của lạm phát
Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng gây ra những tác hại to lớn nêu trên. Với
tốc độ lạm phát vừa phải (thường là từ 2-dưới 5% một năm ở những nước phát triển
và dưới 10% ở những nước kém phát triển), và với việc chỉ số hoá lạm phát cùng
các kỹ thuật thích ứng khác, người ta nhận thấy lạm phát có thể đem lại một số lợi
ích sau:
Một là, lạm phát tựa như dầu mỡ giúp bôi trơn nền kinh tế. Trong điều kiện
nào đó, có thể thông qua lạm phát từ 2-4%/năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi
suất thực âm, có tác dụng kích thích tiêu dùng, vay nợ và đầu tư, do đó giảm bớt
thất nghiệp xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Hai là, lạm phát cho phép Chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ
kích thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng và tài
trợ lạm phát; Đồng thời, lạm phát giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã
hội theo các định hướng mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc.
Tuy nhiên, cần khẳng định, đây là một công việc khó, đầy mạo hiểm, nếu không đủ
thực lực và bản lĩnh làm chủ được công nghệ điều tiết lạm phát sẽ gây ra hậu quả
nghiêm trọng, thậm chí trái ngược với mục tiêu đề ra. Theo Paul Krugman, nhà kinh
tế Mỹ, thì các ngân hàng trung ương cần duy trì tỉ lệ lạm phát ở mức 3-4% để có lợi
cho phát triển kinh tế và giảm thất nghiệp .
Như vậy, là căn bệnh mãn tính của nền kinh tế thị trường, lạm phát có cả tác
hại lẫn có lợi. Nếu một nước nào đó có thể duy trì, kiềm chế, điều tiết được mức


lạm phát vừa phải phù hợp và có lợi cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của mình, thì

ở đó lạm phát không còn là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế nữa, khi đó lạm
phát trở thành công cụ điều tiết kinh tế khá đắc dụng. Ngược lại, lạm phát phi mã
hay siêu lạm phát, không thể dự đoán và điều tiết được đã gây tác hại rõ rệt cho nền
kinh tế và trở thành căn bệnh hiểm nghèo cần điều trị tích cực và đúng cách.

1.4. Các nguyên nhân và giải pháp đối phó với lạm phát
1.4.1. Các nguyên nhân gây lạm phát
1.4.1.1. Lạm phát do mất cân đối về cơ cấu kinh tế:
Lạm phát xảy ra do sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế, mâu thuẫn về phân
phối gây ra tăng giá. Cơ chế lan truyền đó tạo nên căng thẳng thêm các mâu thuẫn
đó và dẫn đến lạm phát tăng lên. Các nhà kinh tế theo trường phái cơ cấu cho rằng
lạm phát là tất yếu của nền kinh tế muốn tăng trưởng cao, nhưng lại tồn tại nhiều
khiếm khuyết, hạn chế và yếu kém.
Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có quan hệ không bình
thường trong các cân đối lớn của nền kinh tế như công nghiệp-nông nghiệp, công
nghiệp nặng – công nghiệp nhẹ, sản xuất - dịch vụ, xuất khẩu - nhập khẩu, tích luỹ-
tiêu dùng. Thực tế lạm phát ở các nước Châu Mỹ La Tinh thường gắn liền với sự
thay đổi cơ cấu kinh tế trong bối cảnh từ một nước kém phát triển với nền kinh tế
hướng nội chuyển sang nền kinh tế hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Những thay
đổi cơ bản trong nền kinh tế - xã hội do tăng trưởng kinh tế thường dẫn đến giá
tăng lên khi cơ cấu thị trường chưa được hoàn chỉnh, các nguồn vật lực có giới hạn,
các quan hệ không được đặt trong một sự cân đối hợp lý, năng lực sản xuất không
được khai thác hết, trạng thái vừa thừa vừa thiếu xuất hiện. Cụ thể, tình trạng mất
cân đối thường xuất hiện là: Mất cân đối giữa cung và cầu lương thực thực phẩm
(cung nhỏ hơn cầu); ngoại tệ có hạn do nhập nhiều hơn xuất; ngân sách thâm hụt và
bị hạn chế do thu được ít nhưng nhu cầu chi cao.
Để kiểm soát được loại lạm phát này đòi hỏi phải loại bỏ những mất cân đối
nêu trên, như tăng sản xuất lương thực - thực phẩm, tăng xuất khẩu trên cơ sở tạo
điều kiện thuận lợi cho sản xuất để xuất khẩu phát triển, cải tiến cơ chế tỷ giá hối
đoái có lợi cho nhà làm hàng xuất khẩu, hạn chế chi tiêu của Chính phủ và xã hội,

chỉ chi ở mức thu được không để thâm hụt quá cao.


1.4.1.2. Lạm phát tiền tệ
Các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát xảy ra khi tốc độ
tăng trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Đơn giản
hơn là tiền trong lưu thông tăng nhanh hơn số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản
xuất ra trong nền kinh tế. Ví dụ, tốc độ tăng trưởng cung tiền là 10%, nhưng tốc độ
tăng trưởng thực của nền kinh tế 7%, thì lạm phát tiền lệ là 3%. Loại lạm phát này
thường xảy ra tại các nước đang phát triển khi các nước này theo đuổi cơ chế áp chế
tài chính (Financial repression) hoặc trong trường hợp quốc gia đang theo đuổi
chính sách tiền tệ mở rộng. Áp chế tài chính là tình trạng ngân hàng Trung ương tài
trợ cho thâm hụt ngân sách chính phủ bằng tiền in, quá nhiều tiền trong lưu thông
vượt qua tốc độ tăng trưởng thực sẽ dẫn đến lạm phát. Chính sách tiền tệ mở rộng sẽ
kích thích tổng cầu hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế, khi tốc độ tăng trưởng tổng
cầu cao hơn tốc độ tăng trưởng tổng cung, thì cũng dẫn đến lạm phát.
Để kiểm soát loại lạm phát này phải sử dụng cách tiếp cận tiền tệ, trong đó
khống chế tổng phương tiện thanh toán ở mức tăng cung tiền tệ tương ứng với mức
kiểm soát tăng lương, khống chế hạn mức tín dụng.
Các nhà tiền tệ không phản đối những mất cân đối của nền kinh tế làm tác
động gây tăng giá, nhưng họ lý giải rằng nếu không có cung tiền tệ tăng lên thì cầu
hàng hóa sẽ bị khống chế lại và giá cũng không thể tăng lên do đó tạo được một sự
cân bằng thị trường mới ở mức cung cầu tiền tệ và hàng hóa giới hạn.
1.4.1.3. Lạm phát do cầu kéo
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn
dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Loại lạm phát này xuất phát từ sự thay đổi
hành vi tổng cầu mang tính đột biến trong nền kinh tế. Các nguyên nhân có thể là do
chính phủ chi tiêu quá mức khi thực hiện chính sách thu chi ngân sách mở rộng,
hoặc tăng chi tiêu tiêu dùng quá mức bình thường do khu vực hộ gia đình quá lạc
quan, hoặc do khu vực hộ gia đình có nguồn thu nhập từ trên trời rơi xuống

(winfalls) như viện trợ nước ngoài, thu nhập do giá cả xuất khẩu tăng độ biến…
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng
cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp
ứng. Do đó có lạm phát.



1.4.1.4. Lạm phát do chi phí đẩy
Chi phí của doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào,
máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế … Khi giá cả của một hoặc vài yếu
tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng
lên(đường AS dịch chuyển lên trên).
Như chúng ta đều biết, ở hầu hết các nước đang phát triển thường phải nhập
một lượng lớn nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước, nếu giá của những
loại nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng lên làm cho chi phí sản xuất
của các sản phẩm sẽ tăng lên và để đảm bảo cho sự tồn tại của các cơ sở sản xuất
kinh doanh trên cơ sở đảm bảo sản xuất có lãi và bù đắp được chi phí bắt buộc các
nhà sản xuất phải đưa giá bán trên thị trường trong nước tăng lên theo (trường hợp
này xảy ra ở các nước đang phát triển khi sản xuất ở dạng độc quyền hoặc bán độc
quyền, các quy luật thị trường chưa phát huy hết). Đây là tình trạng khi chi phí sản
xuất tăng lên quá mức trung bình mà nền kinh tế có thể chịu được đã đẩy giá cả tăng
lên.
Nhiều nước đang phát triển nhập khẩu nguyên liệu thường bị ảnh hưởng của
lạm phát của các nước khác. Trong trường hợp này, chi phí nguyên liệu nhập khẩu
tăng khi tỷ giá ngoại hối trong nước không đổi. Ví dụ, khi giá dầu mỏ tăng, hầu hết
các nước đang phát triển phải đối mặt với vấn đề lạm phát trong những năm 70-80.
Do đó, lạm phát từ nhập khẩu là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến lạm phát nội
địa, nếu nước đó phụ thuộc chủ yếu vào hàng nhập khẩu để làm nguyên liệu đầu
vào.
1.4.1.5. Các nguyên nhân khác

(1). Lạm phát do thâm hụt ngân sách:
Một thâm hụt ngân sách được trang trải bằng việc in thêm tiền trong một thời
gian khá dài có thể tạo ra lạm phát. Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt
ngân sách nhà nước bằng biện pháp phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường để
vay vốn trong dân chúng, bù đắp thâm hụt. Biện pháp này không ảnh hưởng gì đến
cơ số tiền tệ và do đó không làm tăng cung tiền và không gây ra lạm phát. Một biện
pháp khác của các chính phủ là phát hành thêm tiền. Biện pháp này trực tiếp làm
tăng thêm cơ số tiền, do đó tăng cung ứng tiền tệ, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng
tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế


nên việc phát hành trái phiếu chính phủ nhằm bự đắp thâm hụt ngân sách là rất khó
thực hiện. Đối với các quốc gia này, biện pháp hay được sử dụng là in thêm tiền. Ở
các nước phát triển, thị trường vốn phát triển, vì vậy một khối lượng lớn là trái
phiếu chính phủ có thể bán ra, tuy nhiên nếu chính phủ cứ tiếp tục phát hành trái
phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng và do đó, lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn
chế tăng lãi suất trên thị trường, ngân hàng Trung ương sẽ phải mua vào các trái
phiếu đó, điều này lại làm tăng cung tiền. Do vậy, mọi trường hợp, tình trạng thâm
hụt sách ngân nhà nước cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền gây ra lạm
phát.
(2). Lạm phát theo tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là
nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác
động lên tâm lý của người sản xuất trong nước, muốn kéo giá cả lên cao theo mức
tăng của tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá hối đoái tăng ,giá nguyên liệu ,hàng hóa nhập
khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí nguyên nhiên tăng lên, lại quay trở về lạm phát chi
phí đẩy như đã phân tích trên đây. Việc tăng giá cả nguyên liệu và hàng hóa nhập
khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả rất nhiều mặt hàng khác,
đặc biệt là hàng hóa của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và những
ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.

(3). Lạm phát đẻ ra lạm phát (lạm phát kỳ vọng, lạm phát tâm lý)
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá
cả hàng hóa cũng sẽ tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Nhu cầu về hàng hóa
ngày càng cao hơn cung hàng hóa. Giá cả đó cao nay lại càng cao thêm do hàng háa
ngày càng khan hiếm.
1.4.2. Các giải pháp đối phó với lạm phát
1.4.2.1. Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là chính sách sử dụng các công cụ của hoạt động tín dụng
và ngoại hối để ổn định tiền tệ, từ đó ổn định nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển.
Ngân hàng Trung ương (NHTW) là cơ quan tổ chức thực hiện các chính sách
tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả, tăng trưởng GNP, giảm
thất nghiệp. Vì chính sách tiền tệ có khả năng tác động vào thị trường tiền tệ, qua đó


tác động đến tổng cầu và sản lượng nên nó trở thành một cụng cụ ổn định kinh tế
hữu hiệu của chính phủ.
Các công cụ của chính sách tiền tệ bao gồm: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các nghiệp
vụ thị trường mở và lãi suất cho vay tái chiết khấu. Các công cụ của chính sách này
sẽ tác động vào cung tiền và lãi suất, rồi nhờ ảnh hưởng của lãi suất đến đầu tư mà
tác động vào tổng cầu từ đó đưa nền kinh tế vào trạng thái cân bằng.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Là lượng tiền cần phải dự trữ so với tổng lượng tiền
huy động. Đó là tỷ lệ mà NHTW yêu cầu các ngân hàng thương mại đảm bảo. Khi
tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi cung tiền sẽ thay đổi. Trường hợp tỷ lệ dự trữ tăng thì
cung tiền sẽ giảm. Do đó, bằng cách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW có thể
điều tiết được cung tiền.
- Lãi suất cho vay tái chiết khấu: Là lãi suất mà NHTW cho các ngân hàng
thương mại vay để đáp ứng những nhu cầu tiền mặt bất thường của các ngân hàng
này. Khi lãi suất tái chiết khấu cao, các ngân hàng thương mại thấy rằng việc ngân
hàng thương mại dự trữ tiền mặt quá ít để đáp ứng những nhu cầu rút tiền bất

thường của khách hàng khiến những ngân hàng này phải trả lãi suất cao khi vay
NHTW trong trường hợp thiếu dự trữ. Điều này khiến ngân hàng thương mại phải
dè chừng và tự nguyện dự trữ nhiều hơn. Qua đó sẽ giúp làm giảm cung tiền.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở hoạt động khi NHTW
mua vào hoặc bán ra các giấy tờ có giá trên thị trường mở. Ví dụ, nếu ngân hàng in
thêm tiền một triệu đồng và dùng chúng để mua các trái phiếu của chính phủ trên thị
trường tự do. Như vậy, các ngân hàng thương mại và tư nhân bị mất đi lượng chứng
khoán trị giá một triệu đồng nhưng đổi lại, họ cú thêm một triệu đồng tiền mặt, điều
đó làm tăng cung tiền. Ngược lại, nếu NHTW bán ra một triệu đồng trái phiếu chính
phủ thì quy trình sẽ đảo ngược lại và cung tiền sẽ giảm.
1.4.2.2. Chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa là quyết định của chính phủ về chi tiêu và thuế để hướng
nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Trong điều kiện bình thường, chính sách này được sử dụng để tác động vào
tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái hay sự phát
triển quá mức thì nó được sử dụng như là một cụng cụ để giúp đưa nền kinh tế về
trạng thái cân bằng.


Chính sách tài khoá có hai công cụ chủ yếu là chi tiêu của chính phủ và thuế.
Để thấy được tác động của chính sách tài khoá đến tổng cầu cần nhắc lại cấu thành
cơ bản của tổng cầu như sau:
AD=C+Y+G
Trong đú AD là tổng cầu, C là tiêu dựng cá nhân, Y là đầu tư và G là chi tiêu
chính phủ cho hàng hóa dịch vụ. Trong đẳng thức này chưa có xuất khẩu ròng vì
chúng ta đang nghiên cứu trong nền kinh tế đóng. Cần phân biệt chi tiêu củachính
phủ gồm hai loại: Chi tiêu mua sắm hàng húa dịch vụ (G) và chi tiêu chuyển
nhượng (TR). Nếu mua sắm hàng hóa dịch vụ của chính phủ tăng hay giảm sẽ trực
tiếp làm tổng cầu AD tăng hoặc giảm theo. Khác với chi tiêu mua sắm hàng hóa
dịch vụ, khi chuyển nhượng TR có tác động gián tiếp đến tổng cầu thông qua việc

ảnh hưởng đến thu nhập và tiêu dùng cá nhân. Vì thế chi chuyển nhượng thường
được xem xét với thuế (T) trong một khái niệm chung là thuế ròng (NT), tức là thuế
sau khi đó trừ đi chi chuyển nhượng của chính phủ, hay NT =T-TR. Tăng thuế ròng
làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm tiêu dùng tư nhân (C), từ đó tác động
đến tổng cầu và sản lượng.
1.4.2.3. Các chính sách khác
Ngoài chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa chúng ta cũng có thể áp dụng
đồng thời nhiều biện pháp khác để kiềm chế lạm phát như, hỗ trợ thúc đẩy phát
triển sản xuất, nhất là sản xuất các mặt hàng thiết yếu như: lương thực, thực phẩm,
dầu thực vật, thịt, …, đẩy mạnh và kiện toàn hệ thống dự trữ, điều tiết xuất nhập
khẩu, bình ổn giá thị trường trong nước…
Lạm phát diễn ra trong các nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường cũng mang đầy đủ các nguyên lý và đặc điểm
chung về nguyên nhân và giải pháp như ở các nước có nền kinh tế thị trường. Tuy
nhiên, việc khảo sát quá trình lạm phát ở các nền kinh tế chuyển đổi trên thế giới
trong thập kỷ 90 cho thấy điểm nổi bật chung và phân biệt với lạm phát ở các nền
kinh tế thị trường là sự kết hợp đồng thời và phức tạp giữa các nguyên nhân khác
nhau, thậm chí vận động trái chiều nhau, giữa lạm phát cầu, lạm phát giá cả và lạm
phát tiền tệ, cũng như khiến tốc độ lạm phát thời kỳ đầu chuyển đổi thường rất cao
(điều này sẽ được đề cập chi tiết hơn ở dưới đây), khiến lạm phát diễn biến phức tạp
hơn, thường đi kèm với suy thoái kinh tế. Hơn nữa, các đối tượng tiếp nhận sự điều

×