ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
LƢƠNG THỊ PHƢƠNG THẢO
QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
LƢƠNG THỊ PHƢƠNG THẢO
QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU
Chuyên ngành: Tài chính & Ngân hàng
Mã số : 60 34 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THƢ
Hà Nội – 2013
MỤC LỤC
Trang
Danh mục các ký hiệu viết tắt
i
Danh mục các bảng
ii
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về quản trị rủi ro thanh khoản trong hoạt
động của ngân hàng thương mại
8
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại
8
1.1.1 Khái niệm
8
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại
9
1.2 Quản trị rủi ro thanh khoản
10
1.2.1 Khái niệm về thanh khoản và rủi ro thanh khoản; Cung và cầu
về thanh khoản; Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản
10
1.2.2 Nội dung quản trị rủi ro thanh khoản
17
1.3 Kiểm định các giả thiết về khả năng thanh khoản
32
1.3.1 Kiểm định về chỉ số trạng thái tiền mặt
33
1.3.2 Kiểm định về chỉ số năng lực cho vay
34
1.3.3 Kiểm định về chỉ số dư nợ/tiền gửi khách hàng
34
1.3.4 Kiểm định về chỉ số chứng khoán thanh khoản
34
Kết luận Chương 1
35
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản trong hoạt động
của ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
36
2.1 Khái quát về hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu
36
2.2 Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương
mại cổ phần Á Châu giai đoạn 2009 – 2011
40
2.2.1 Quy định về hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân
40
hàng thương mại cổ phần Á Châu
2.2.2 Các chỉ số đo lường thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản
của ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
41
2.3 Đánh giá thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu
52
2.3.1 Thành tựu
52
2.3.2 Hạn chế
54
2.3.3 Nguyên nhân
57
Kết luận Chương 2
59
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro
thanh khoản trong hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu
61
3.1 Định hướng phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu đến năm 2015 và định hướng chiến lược đến năm 2020
61
3.1.1 Định hướng phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu đến năm 2015
61
3.1.2 Định hướng chiến lược của ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu đến năm 2020
62
3.1.3 Định hướng quản trị rủi ro thanh khoản của ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu đến năm 2020
63
3.2 Biện pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản của
ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
67
3.2.1 Quản trị thanh khoản trong những điều kiện bất thường: phân
tích kịch bản (“what if” analysis)
67
3.2.2 Xét tới cả các yếu tố bên trong ngân hàng và bên ngoài (liên
quan tới thị trường)
68
3.2.3 Kế hoạch ứng phó tình trạng khẩn cấp thanh khoản
71
3.2.4 Đánh giá xác suất diễn biến của các dòng tiền để gán một lịch
trình các dòng tiền của từng loại tài sản và nợ.
73
3.2.5 Gắn rủi ro thanh khoản với rủi ro thị trường trong quản trị
74
3.3 Biện pháp của cơ quan quản lý: Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước
76
KẾT LUẬN
79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
81
PHỤ LỤC
ii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
ACB
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
2
ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
3
BASEL
Hiệp ước vốn Basel
4
BCTC
Báo cáo tài chính
5
BIDV
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
6
CTG
Ngân hàng Công thương Việt Nam
7
DTBB
Dự trữ bắt buộc
8
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
9
HĐQT
Hội đồng quản trị
10
MBB
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội
11
NH
Ngân hàng
12
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
13
NHTM
Ngân hàng thương mại
14
NHTW
Ngân hàng Trung ương
15
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
16
QTRRTK
Quản trị rủi ro thanh khoản
17
RRTK
Rủi ro thanh khoản
18
TB
Trung bình
19
TCB
Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ
Thương
20
TCTD
Tổ chức tín dụng
21
TMCP
Thương mại cổ phần
22
TSC
Tài sản có
23
TSN
Tài sản nợ
24
VCB
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
STT
Số hiệu
Nội dung
Trang
1
Bảng 1.1
Bảng thống kê mô tả về các hệ số an toàn và
chỉ số thanh khoản trung bình
33
2
Bảng 2.1
Số tiền tối thiểu cho mỗi lần điều vốn
41
3
Bảng 2.2
Các chỉ số đo lường thực trạng quản trị rủi ro
thanh khoản của ngân hàng thương mại cổ
phần Á Châu
41
4
Biểu 2.1
Vốn tự có của top 10 ngân hàng
42
5
Biểu 2.2
Vốn tự có của ngân hàng thương mại cổ phần
Á Châu
42
6
Biểu 2.3
Tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng thương mại
cổ phần Á Châu
43
7
Biểu 2.4
Hệ số H1 và H2 của ngân hàng thương mại cổ
phần Á Châu
44
8
Biểu 2.5
Chỉ số trạng thái tiền mặt - H3
45
9
Biểu 2.6
Chỉ số năng lực cho vay - H4
47
10
Biểu 2.7
Chỉ số dư nợ/tiền gửi khách hàng - H5
48
11
Biểu 2.8
Chỉ số chứng khoán thanh khoản - H6
49
12
Biểu 2.9
Chỉ số trạng thái ròng đối với các TCTD - H7
50
13
Biểu 2.10
Chỉ số (tiền mặt+tiền gửi tại các TCTD)/tiền
gửi khách hàng
51
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản là yếu tố quyết định sự an toàn
trong hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại nào. Trong tình hình hiện
nay, nhiều ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng căng thẳng thanh
khoản, khi mà sự cạnh tranh khốc liệt về thu hút tiền gửi buộc các ngân hàng
phải tìm kiếm các nguồn tài trợ khác. Khả năng thanh khoản không hợp lý là
dấu hiệu đầu tiên của tình trạng bất ổn về tài chính. Cùng với sự phát triển của
thị trường tài chính, cơ hội và rủi ro trong quản trị thanh khoản của các ngân
hàng thương mại cũng gia tăng tương ứng. Điều này cho thấy tầm quan trọng
của việc kế hoạch được nhu cầu thanh khoản bằng các phương pháp mang
tính ổn định và chi phí thấp để tài trợ cho hoạt động của các ngân hàng
thương mại trong thị trường cạnh tranh ngày càng gia tăng.
Với tốc độ tăng trưởng khá cao và vị thế ngày càng được khẳng định trên
trường quốc tế, Việt Nam đang là điểm đến của các dòng vốn đầu tư nước
ngoài. Đóng góp vào thành công đó, không thể không kể đến ngành ngân
hàng, được xem là “mạnh máu của nền kinh tế”. Tuy nhiên, với xu thế hội
nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, cùng với những
gì đã diễn ra trên thị trường tiền tệ Việt Nam những tháng cuối năm 2011 và
đầu năm 2012 cho thấy vấn đề thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản của
các ngân hàng thương mại có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Hậu
quả của rủi ro thanh khoản đối với mỗi ngân hàng nói riêng và cả hệ thống
ngân hàng thương mại nói chung là vô cùng nghiêm trọng. Rủi ro thanh
khoản xảy ra nhẹ sẽ làm suy giảm mức sinh lợi của ngân hàng, còn nếu nặng
có thể đưa ngân hàng đến chỗ phá sản. Vì vậy mà quản trị thanh khoản luôn là
hoạt động xuyên suốt trong quá trình hoat động của mỗi ngân hàng. Trên cơ
3
sở vận dụng những lý thuyết được học trong chương trình đào tạo bậc cao học
- Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội vào điều kiện Việt Nam,
Luận văn nghiên cứu về “Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về công tác quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng
thương mại đã có rất nhiều nghiên cứu trong cả nước về vấn đề này. Ví dụ:
- Nguyễn Duy Sinh - Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
(2009). Luận văn thạc sĩ: “Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản
trong các ngân hàng thương mại Việt Nam”
- Nguyễn Đại Lai (2008). Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 28 trang 8 -
11: “Rủi ro thanh khoản của các NHTM bản chất và giải pháp”
- Đặng Thị Ái (2005). Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Kế toán, số 3 trang
24 - 26: “Rủi ro thanh khoản - Thách thức lớn đối với hoạt động ngân hàng”
- Nguyễn Thị Mùi (2008). Thị trường Tài chính - Tiền tệ, số 10 trang 18 -
20: “Ổn định thanh khoản: Yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của các
ngân hàng thương mại Việt Nam”.
- PGS.TS Nguyễn Đắc Hưng (2008). “Phân tích nguyên nhân ảnh hưởng
đến thanh khoản của ngân hàng thương mại”.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ mới đề cập sơ lược lý thuyết về công
tác quản trị rủi ro thanh khoản mà chưa đi sâu vào nghiên cứu các chuẩn mực
quốc tế áp dụng trong việc đo lường, đánh giá, kiểm soát rủi ro thanh khoản
tại các ngân hàng thương mại hiện nay. Từ năm 2009 đến nay thị trường tài
chính cũng đã có những biến đổi khác biệt mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nhằm nghiên cứu những vấn đề lý thuyết cơ bản về quản trị rủi ro
thanh khoản tại ngân hàng thương mại, thông qua việc hệ thống hóa lý
4
thuyết và các chuẩn mực quốc tế trong chính sách quản trị rủi ro thanh
khoản và các bài học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới cũng như cái
nhìn thực tế cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn thời gian qua. Qua việc đánh
giá thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản và các nguy cơ rủi ro thanh khoản
tiềm ẩn tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, từ đó đề xuất một số kiến
nghị, giải pháp quản trị rủi ro thanh khoản phù hợp, khả thi. Mục tiêu, nhiệm
vụ của đề tài:
Tìm ra giải pháp quản trị rủi ro thanh khoản khả thi cho ngân hàng thương
mại cổ phần Á Châu.
Xác định được thời điểm và cách quản trị rủi ro thanh khoản thích hợp với
ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: bản chất của giải pháp quản trị rủi ro thanh khoản
khả thi cần xem xét và làm rõ; phân tích nội dung cơ bản của quản trị rủi ro
thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng; đánh giá tính thanh khoản và hoạt
động quản trị rủi ro thanh khoản ngân hàng, tìm ra những hạn chế, tồn tại và
một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động này trong thời gian tới ở ngân
hàng thương mại cổ phần Á Châu.
Phạm vi nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu được khảo sát trong phạm vi
ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu trong vòng 03 năm qua.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tài liệu, công trình khoa học có sẵn liên quan đến nội dung
nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp nghiên cứu hồi cứu
Nghiên cứu hồi cứu là nghiên cứu để định hướng 1 hay nhiều vấn đề nhằm
kiểm định một giả thuyết. Đó là một nghiên cứu, trong đó các dữ liệu của các
nhóm cá thể là như nhau theo nhiều cách nhưng khác nhau bởi một đặc tính
5
nhất định được so sánh cho một kết quả cụ thể. Trong nghiên cứu hồi cứu,
một tỷ lệ rủi ro hoặc tỷ lệ cược cho việc đánh giá nguy cơ tương đối .
Trong trường hợp của một nghiên cứu hồi cứu, nghiên cứu viên thu thập dữ
liệu từ các hồ sơ quá khứ và không theo dõi đối tượng như trường hợp với
một nghiên cứu tiềm năng. Đầu tiên mục tiêu là thành lập hai nhóm – có yếu
tố quan tâm và không có yếu tố quan tâm, và các nhóm này được theo dõi
trong khoảng thời gian tiếp theo.
Tóm lại, trong nghiên cứu hồi cứu, tất cả các sự kiện tiếp xúc, thời gian
tiềm ẩn, và kết quả sau đó đã xảy ra trong quá khứ. Người nghiên cứu chỉ đơn
thuần là thu thập dữ liệu bây giờ, và thiết lập các nguy cơ phát triển một chỉ
tiêu quan tâm nếu tiếp xúc với một yếu tố nguy cơ cụ thể. Mặt khác, có triển
vọng nghiên cứu tiền cứu được tiến hành bằng cách bắt đầu với hai nhóm tại
thời điểm hiện tại, và theo dõi trong tương lai cho sự xuất hiện của chỉ tiêu
quan tâm, nếu có.
Điều quan trọng là phương pháp nghiên cứu hồi cứu và tiền cứu về cơ bản
là giống nhau. Thời gian để hoàn thành một nghiên cứu hồi cứu chỉ là thu
thập và giải thích dữ liệu. Nghiên cứu hồi cứu kiểm tra nguy cơ có thể và các
biến bảo vệ liên quan đến một kết quả đã được thành lập tại thời điểm bắt đầu
nghiên cứu.
Cần phải được thực hiện cẩn thận cụ thể với các nghiên cứu hồi cứu vì
những lỗi do nhiễu và thiên vị là phổ biến hơn trong các nghiên cứu hồi cứu
hơn là trong các nghiên cứu tiền cứu tương lai.
Ưu điểm
Nghiên cứu hồi cứu, có những ưu điểm tốt khi so sánh với các nghiên cứu
tiền cứu tương lai, bao gồm cả quy mô nhỏ hơn mà nghiên cứu hồi cứu
thường đòi hỏi. Một lợi ích quan trọng của nghiên cứu hồi cứu là thường đòi
hỏi ít thời gian để hoàn thành. Một ưu điểm khác là nghiên cứu hồi cứu là tốt
6
hơn cho phân tích nhiều kết quả. Và một trong những lợi ích lớn nhất đối với
một nghiên cứu hồi cứu trong một bối cảnh kinh tế là khả năng để giải quyết
các chỉ tiêu quan tâm hiếm, mà sẽ đòi hỏi đội quân rất lớn trong các nghiên
cứu tiền cứu tương lai. Trong nghiên cứu này, chỉ tiêu quan tâm đã được xác
định, do đó, các nghiên cứu hồi cứu đặc biệt hữu ích trong việc giải quyết chỉ
tiêu quan tâm tỉ lệ thấp. Thực tế là nghiên cứu hồi cứu nói chung là ít tốn kém
hơn so với các nghiên cứu tiền cứu cũng có thể là một lợi ích quan
trọng. Những nghiên cứu này có xu hướng ít tốn kém một phần là do kết quả
và yếu tố quan tâm đã xảy ra, và các nguồn lực chủ yếu hướng vào thu thập
dữ liệu. Ngoài ra, nó có về cơ bản tất cả những lợi ích của một nghiên cứu
đoàn hệ (thống kê)
Nhược điểm
Nghiên cứu hồi cứu cũng có những nhược điểm như là nghiên cứu tiền
cứu. Trong số những khó khăn là một số số liệu thống kê quan trọng không
thể được đo, và những thành kiến đáng kể có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn
của các yếu tố kiểm soát được. Ngoài ra, những thành kiến lớn với các nghiên
cứu hồi cứu có thể ảnh hưởng đến việc thu hồi tiếp xúc với cựu biến nguy
cơ. Trong số các thành kiến tiêu cực có thể ảnh hưởng đến tính xác thực của
loại nghiên cứu này là sai lệch lựa chọn và phân loại sai hoặc thông tin sai
lệch như là kết quả của các khía cạnh hồi cứu Với nghiên cứu hồi cứu, mối
quan hệ thời gian thường là khó khăn để đánh giá. Hơn nữa, những người
thực hiện nghiên cứu hồi cứu không thể kiểm soát yếu tố quan tâm hoặc đánh
giá kết quả, nhưng thay vào đó cần phải dựa vào người khác để xác thực dữ
liệu lưu giữ. Điều này là vấn đề đặc biệt bởi vì nó có thể rất khó để so sánh
chính xác giữa yếu tố quan tâm và yếu tố không quan tâm. Nghiên cứu hồi
cứu cũng có thể cần các mẫu có kích thước rất lớn cho kết cục hiếm.
* Phương pháp phân tích tổng hợp
7
Trong thống kê, phân tích tổng hợp (tiếng Anh: meta-analysis) kết hợp kết
quả của một vài nghiên cứu để giải quyết một chuỗi các giả thuyết liên quan
đến nghiên cứu. Đơn giản hơn, nó có thể coi là sự xác định phép đo chung của
cỡ hiệu ứng, trong đó bình quân gia quyền có thể là kết quả của phân tích
tổng hợp. Tính bình quân gia quyền có liên quan tới cỡ mẫu trong mỗi nghiên
cứu cá nhân. Dù có những sự khác biệt giữa các nghiên cứu cá nhân, nhưng
mục tiêu của phân tích tổng hợp là ước lượng chính xác hơn cỡ hiệu thực so
với cỡ hiệu ứng kém chính xác hơn trong các nghiên cứu riêng lẻ.
Phân tích tổng hợp là một trong những thành tố quan trọng trong quy trình
xem xét hệ thống. Cũng như bất cứ nghiên cứu nào, một phân tích tổng hợp
được tiến hành qua các công đoạn như: thu thập dữ liệu, kiểm tra dữ liệu và
kiểm tra kết quả phân tích. Phân tích tổng hợp cung cấp cho chúng ta một
phương tiện định lượng để hệ thống bằng chứng. Với phân tích tổng hợp,
chúng ta có cơ hội để xem xét những nghiên cứu nào đã được tiến hành để
giải quyết vấn đề; kết quả của các nghiên cứu đó thế nào; hệ thống các tiêu
chí lâm sang đáng quan tâm; rà soát những khác biệt về đặc tính giữa các
nghiên cứu; cách thức để tổng hợp kết quả và truyền đạt kết quả một cách
khoa học.
Phân tích tổng hợp cũng không phải là không có những khiếm khuyết. Nếu
các dữ liệu được sử dụng trong phân tích không có chất lượng cao thì kết quả
phân tích tổng hợp cũng chẳng có giá trị khoa học gì. Do đó, vấn đề quan
trọng nhất trong phân tích tổng hợp là chọn dữ liệu và nghiên cứu để phân
tích. Vấn đề này cần phải được cân nhắc cực kì cẩn thận để đảm bảo tính hợp
lý và khoa học của kết quả.
6. Đóng góp mới của luận văn
8
Làm rõ cơ sở lý luận của công tác quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân
hàng thương mại và khung lý thuyết để đánh giá công tác quản trị rủi ro thanh
khoản tại các ngân hàng thương mại.
Áp dụng khung lý thuyết vào quản trị rủi ro thanh khoản ngân hàng và chỉ
ra các điểm hạn chế tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu hiện nay.
Giải pháp khả thi cho công tác quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết quả
nghiên cứu đề tài được bố cục thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về quản trị rủi ro thanh khoản trong hoạt động
của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản trong hoạt động của ngân
hàng thương mại cổ phần Á Châu.
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản
trong hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu.
9
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về ngân hàng thƣơng mại
1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính đóng vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo nền kinh tế hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả. Ngân hàng
thương mại là loại hình ngân hàng giao dịch trực tiếp với các tổ chức kinh tế
và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, sử dụng số vốn đó để cho
vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và dịch vụ ngân hàng
cho các đối tượng nêu trên. Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng có
số lượng lớn và rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Sự có mặt của loại
hình ngân hàng này trong hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội có thể cho rằng
ở đâu có một hệ thống ngân hàng thương mại phát triển, thì ở đó sẽ có sự phát
triển với tốc độ cao của nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, khóa X, kỳ họp thứ hai thông qua vào ngày 12 tháng 12 năm
1997, được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt
động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác xã” (Khoản 2 Điều 4). Luật các tổ chức tín
dụng còn xác định “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số
hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ
chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân
dân” (Khoản 1 Điều 4) và “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung
10
ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây a/ Nhận tiền gửi. b/
Cấp tín dụng. c/ Cung ứng dich vụ thanh toán qua tài khoản” (Khoản 12 Điều
4).
Đạo luật ngân hàng của Cộng hòa Pháp khẳng định ngân hàng thương mại
là những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công
chúng dưới hình thức ký thác hoặc dưới hình thức khác và sử dụng nguồn lực
đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính.
Như vậy, ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian quan
trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian
này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động,
tập trung lại, đồng thời số vốn đó được sử dụng để cấp tín dụng cho các tổ
chức kinh tế và cá nhân với mục đích phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hệ thống ngân hàng phát
triển, ngân hàng thương mại có ba chức năng cơ bản chức năng trung gian tín
dụng, chức năng trung gian thanh toán và chức năng cung ứng dịch vụ ngân
hàng.
* Chức năng trung gian tín dụng: ngân hàng thương mại đóng vai trò trung
gian trong việc tập trung, huy động các nguồn tiền tệ tạm thời, nhàn rỗi trong
nền kinh tế, bao gồm tiền tiết kiệm của dân cư, vốn bằng tiền của các đơn vị,
tổ chức kinh tế; biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho vay (cấp tín dụng),
đáp ứng các nhu cầu vốn kinh doanh, vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu
cầu vốn tiêu dùng của xã hội.
* Chức năng trung gian thanh toán: ngân hàng thương mại đứng ra làm
trung gian thanh toán để thực hiện các giao dịch giữa người mua với người
bán, giưa các khách hàng với nhau nhằm hoàn tất các quan hệ kinh tế thương
mại của các đối tượng nêu trên.
11
* Chức năng cung ứng dịch vụ ngân hàng: nhu cầu của khách hàng ngày
càng đa dạng; do vậy, ngoài hai chức năng trên, ngân hàng thương mại còn
thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ ngân hàng.
1.2 Quản trị rủi ro thanh khoản
1.2.1 Một số khái niệm
* Khái niệm về thanh khoản và rủi ro thanh khoản: tính thanh khoản của
ngân hàng thương mại được xem như khả năng tức thời (the short-run ability)
để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết.
Như vậy, rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi ngân hàng không có khả năng
cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời; hoặc cung
ứng đủ nhưng chi phí cao. Nói cách khác, đây là loại rủi ro xuất hiện trong
trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại
tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp
đồng thanh toán.
RRTK không phải là rủi ro đơn lẻ (isolated risk) như rủi ro thị trường hay rủi
ro tín dụng mà là loại rủi ro mang tính hệ quả (consequential risk) bởi lẽ ngoài
các nguyên nhân mang tính đặc thù, RRTK còn có thể bắt nguồn và chuyển
biến xấu dưới tác động của các rủi ro phi tài chính và rủi ro tài chính khác
trong hoạt động của ngân hàng.
* Cung và cầu về thanh khoản: khả năng đáp ứng và nhu cầu về sử sụng
vốn khả dụng thể hiện ở cung thanh khoản (LS – Liquidity Supply) và cầu
thanh khoản (LD – Liquidity Demand). Thanh khoản của một ngân hàng có
thể được xem xét bằng mô hình cung-cầu về thanh khoản.
Cung về thanh khoản: cung thanh khoản là khả năng cung ứng tiền của
một NHTM nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bao gồm việc
giữ tài sản thanh khoản và khả năng huy động mới. Đó là các khoản vốn, các
nguồn cung cấp làm tăng khả năng chi trả của ngân hàng, bao gồm:
12
- Các khoản tiền gửi đang đến.
- Doanh thu từ việc bán các dịch vụ phi tiền gửi.
- Thu hồi các khoản tín dụng đã cấp.
- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng.
- Vay mượn trên thị trường tiền tệ.
Trong các nguồn cung thanh khoản trên, luồng tiền thu về từ huy động vốn
tiền gửi chiếm khối lượng lớn và là nguồn cung thanh khoản mới chủ yếu của
ngân hàng.
Cầu về thanh khoản: cầu về thanh khoản là nhu cầu vốn cho các mục
đích hoạt động của ngân hàng, các khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông
thường, trong lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng, những hoạt động tạo ra cầu
về thanh khoản bao gồm:
- Khách hàng rút tiền từ tài khoản.
- Yêu cầu vay vốn từ những khách hàng có chất lượng tín dụng cao.
- Thanh toán các khoản vay phi tiền gửi.
- Chi phí phát sinh khi kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ.
- Thanh toán tổ tức bằng tiền.
Trong các nhu cầu thanh khoản mà ngân hàng phải đối mặt trên, lượng tiền
cần để giải ngân cho các hợp đồng tín dụng chiếm số lượng lớn.
* Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản
Những nguyên nhân tiền đề: thanh khoản của một ngân hàng phải đối mặt
với rủi ro có thể do các nguyên nhân cơ bản sau đây:
Một là, sự không cân xứng về kỳ hạn giữa TSC và TSN, ngân hàng vay
mượn quá nhiều các khoản tiền gửi ngắn hạn từ các cá nhân và định chế tài
chính khác; sau đó chuyển hóa chúng thành những tài sản đầu tư dài hạn. Cho
nên, đã xảy ra tình trạng mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng
vốn, mà thường gặp là dòng tiền thu về từ tài sản đầu tư nhỏ hơn dòng tiền chi
13
ra để trả các khoản tiền gửi đến hạn. Vậy nên, NHTM luôn phải đối mặt với
tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư thanh khoản.
Hai là, sự thay đổi của lãi suất có thể tác động đến cả người gửi tiền và
người vay vốn. Khi lãi suất giảm, một số người gửi tiền rút vốn khỏi ngân
hàng để đầu tư vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn; còn những người đi vay
tích cực tiếp cận các khoản tín dụng vì lãi suất đã thấp hơn trước như tìm cách
trì hoãn việc hoàn trả các khoản nợ đã đáo hạn hoặc rút hết số đư hạn mức tín
dụng với mức lãi suất đã thỏa thuận với NHTM có lãi suất thấp; tìm cách trả
trước hạn hoặc trì hoãn việc rút vốn vay với mức lãi suất đã thỏa thuận với
NHTM có lãi suất cao. Như vậy, rốt cuộc lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng trạng
thái thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa, những xu hướng của sự thay đổi lãi
suất còn ảnh hưởng đến giá trị thị trường của các tài sản mà ngân hàng có thể
đem bán để tăng thêm nguồn cung thanh khoản và trực tiếp ảnh hưởng đến
chi phí vay mượn trên thị trường tiền tệ.
Ba là, do ngân hàng có chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản không phù
hợp và kém hiệu quả như các chứng khoán đang sở hữu có tính thanh khoản
thấp, dự trữ của ngân hàng không đủ cho nhu cầu chi trả… Tính chất đặc biệt
của ngành kinh doanh tiền tệ đòi hỏi NHTM phải luôn sẵn sàng đáp ứng cầu
thanh khoản. Đối với lĩnh vực kinh doanh khác (không phải kinh doanh tiền
tệ), các doanh nghiệp có thể dây dưa nợ với khách hàng, chậm thanh toán với
đối tác, thậm chí chủ động chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh… Nhưng
với NHTM kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ hết sức nhạy cảm, NHTM không
thể làm như vậy. Bất kỳ một sự trục trặc nào về thanh khoản đều có thể gây
tâm lý lo lắng trong công chúng, và nếu NHTM không giải quyết ngay khó
khăn này, khách hàng gửi tiền có thể đồng loạt kéo đến ngân hàng để rút tiền,
trạng thái thanh khoản sẽ trở nên trầm trọng và NHTM có thể bị phá sản. Mặt
khác, trên bảng cân đối kế toán của NHTM, bên TSN luôn có một tỷ lệ nhất
14
định các khoản tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn nhưng có thể rút
trước hạn. Đây là những TSN mà NHTM có nghĩa vụ phải trả ngay lập tức
nếu khách hàng có nhu cầu rút, vì thế NHTM luôn luôn phải sẵn sàng đáp ứng
nhu cầu thanh khoản.
Những nguyên nhân từ hoạt động: rủi ro thanh khoản có thể phát sinh từ
hoạt động bên tài sản và nguồn vốn của NH.
- Nguyên nhân bên tài sản: rủi ro thanh khoản phát sinh liên quan đến các cam
kết tín dụng. Một cam kết tín dụng cho phép người vay tiến hành rút tiền vay
bất cứ lúc nào trong thời hạn của nó. Khi một cam kết tín dụng được người
vay thực hiện,thì NH phải bảo đảm có đủ tiền ngay tức thời để đáp ứng nhu
cầu của khách hàng, nếu không NH phải đối mặt với rủi ro thanh khoản. Để
đáp ứng nhu cầu thanh khoản bên tài sản, NH có thể giảm số dư tiền mặt,
chuyển hoá các tài sản khác thanh tiền hoặc đi vay các nguồn vốn bổ sung
trên thị trường tiền tệ.
Một dạng khác của rủi ro thanh khoản bên tài sản phát sinh từ sự giảm sút
giá trị thị trường của danh mục đầu tư. Khi lãi suất thay đổi (tăng) ngoài dự
tính, giá trị của danh mục đầu tư giảm sút, có thể gây thiệt hại lớn. Thanh
khoản thị trường có thể xấu đi, vì không có người mua trong khi nhiều người
muốn bán (hành vi bầy đàn). Thanh khoản cạn, các chứng khoán chỉ bán được
với giá rẻ làm rủi ro thanh khoản của ngân hàng tăng.
- Nguyên nhân bên nguồn vốn (bên nợ): Rủi ro thanh khoản có thể phát sinh
bất cứ khi nào khi những người gửi tiền thực hiện rút tiền ngay lập tức. Khi
những người gửi tiền rút tiền đột ngột, buộc NH phải đi vay bổ sung hoặc bán
bớt tài sản (chuyển hoá tài sản thành tiền mặt) để đáp ứng khả năng thanh
khoản. Trong tất cả các nhóm thuộc loại tài sản, thì tiền mặt có mức độ thanh
khoản cao nhất, chính vì vậy, NH sử dụng tiền là phương tiện đầu tiên và trực
tiếp để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Nhưng đáng tiếc là tiền mặt không
15
mang lại thu nhập lãi suất, do đó các NH luôn có xu hướng giảm thiểu tài sản
ở dạng tiền mặt. Để thu được lãi suất, các NH phải đầu tư vào các tài sản ít
thanh khoản hơn hoặc vào những tài sản có thời hạn dài. Cho dù cuối cùng thì
hầu hết các tài sản khác nhau cũng có thể chuyển hoá thành tiền, nhưng chi
phí để chuyển hoá thành tiền ngay lập tức đối với tài sản khác nhau thì rất
khác nhau. Khi phải bán một tài sản ngay lập tức thì giá của nó có thể thấp
hơn rất nhiều so với trường hợp có thời gian để tìm kiếm người mua và
thương lượng về giá. Kết quả là, một số tài sản chỉ có thể chuyển hoá thành
tiền ngay lập tức tại mức giá bán hoá giá rất thấp, do đó có thể đe dọa đến khả
năng thanh toán cuối cùng của NH. Ngoài thanh lý tài sản, NH có thể tìm
kiếm các nguồn vốn bổ sung thông qua việc đi vay trên thị trường tiền tệ.
* Các nhân tố làm gia tăng rủi ro thanh khoản
Nhân tố khách quan
- Chu kỳ kinh doanh là một tác nhân quan trọng. Theo thời vụ ở những tháng
cuối năm phát sinh nhu cầu nguồn tiền lớn để các doanh nghiệp đẩy mạnh
hoạt động kinh doanh, quyết toán công nợ cho những doanh nghiệp khác, chi
trả lương thưởng cho cán bộ nhân viên, thực hiện cam kết giải ngân cho các
đối tác, giải quyết hàng tồn kho, nhập khẩu hàng hóa… tạo nên một chu kỳ
căng thẳng nguồn vốn vào những tháng cuối năm. Điều này làm cho dòng tiền
quay trở lại ngân hàng không cao mặc dù lãi suất có thể tiếp tục tăng nóng.
- Chính sách tiền tệ của NHNN: để thực hiện chức năng của một NHTW về
chính sách tiền tệ, NHNN sử dụng ba công cụ bao gồm nghiệp vụ thị trường
mở, quy định về dự trữ bắt buộc, và áp dụng lãi suất chiết khấu và tái chiết
khấu các giấy tờ có giá của NHTM.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động của NHNN mua hoặc bán cho
NHTM trái phiếu Chính phủ, trái phiếu kho bạc Nhà nước, trái phiếu của
chính NHNN. Khi muốn tăng cung tiền, NHNN mua trái phiếu từ các NHTM,
16
số tiền mà NHNN trả cho NHTM làm tăng cung tiền cho nền kinh tế đồng
thời cũng làm tăng cung thanh khoản cho NHTM. Ngược lại, khi muốn giảm
cung tiền, NHNN bán trái phiếu cho các NHTN, số tiền mà NHNN thu về làm
cung ứng tiền tệ của nền kinh tế đồng thời cũng làm giảm cung thanh khoản
của NHTM.
Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc là biện pháp điều chính mà NHNN bắt
buộc các NHTM phải duy trì một tỷ lệ dự trữ tiền gửi tối thiểu tại NHNN.
Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định cao thì sẽ làm cho nguồn cung thanh khoản
của NHTM tăng và ngược lại.
Áp dụng lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu là lãi suất mà NHNN áp dụng
khi chiết khấu hoặc tái chiết khấu các giấy tờ có giá từ NHTM. Nếu lãi suất
này thấp, tức chi phí vay tiền từ NHNN rẻ, đây sẽ là nguồn vốn giá rẻ mà các
NHTM có thể dễ dàng huy động để đáp ứng cầu thanh khoản.
- Ngoài ra, những sự cố khách quan khác cũng có thể là yếu tố làm gia tăng
rủi ro thanh khoản cho NHTM như các tin đồn thất thiệt…
Nhân tố chủ quan
- Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém. Ngân hàng tập trung tín
dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng cho một ngành, một
địa phương nào đó chiếm phần lớn trong tổng dư nợ hoặc trong tổng huy
động có một khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, đến khi họ rút một cách bất ngờ
thì dẫn đến rủi ro thanh khoản.
- Rủi ro mất cân đối trong cơ cấu tài sản. Điều này xuất phát hầu hết từ áp
lực lợi nhuận ngắn hạn của cổ đông lên ban điều hành mà quên mất những
nguyên tắc trong quản trị TSN và TSC. Trong danh mục tài sản của mình,
ngân hàng có phần đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu, trong đó quan trọng nhất
là trái phiếu chính phủ và/hoặc tín phiếu kho bạc. Trái phiếu chính phủ/ tín
phiếu kho bạc mặc dù lãi suất không hấp dẫn nhưng nó lại là một nguồn cực
17
kỳ quan trọng cho ngân hàng để nhận chiết khấu từ NHNN một khi thanh
khoản có vấn đề. Bất cứ ngân hàng nào, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, đều hiểu
nhưng với tiềm lực tài chính yếu thì khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng
lớn hơn trong việc đấu thầu các loại tài sản trên.
- Rủi ro từ tính lỏng của tài sản (Asset liquidity – là đặc tính của tài sản có
thể chuyển nhanh sang tiền mặt) không ổn định. Một NHTM có thể mất khả
năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của ngân hàng giảm sút, ngân
hàng này đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước
hay một sự kiện nào đó khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc cho
vay đối với ngân hàng đó, đồng thời cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu
thị trường hoạt động của ngân hàng này có nguy cơ mất khả năng thanh
khoản. Rủi ro thanh khoản thường đi kèm với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối
tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động
tiền từ những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp
vào chi trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng huy động tiền từ các
nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân hàng cũng phải đối mặt
với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín dụng.
Rủi ro thanh khoản là một loại rủi ro quan trọng bậc nhất đối với một tổ
chức kinh tế, đăc biệt là đối với các tổ chức tài chính. Trong thực tế có rất
nhiều trường hợp, một tổ chức kinh tế có tài sản rất nhiều, nợ rất ít nhưng
hoàn toàn có thể phá sản do yếu tố rủi ro thanh khoản này khi “tính lỏng” của
tài sản không bù đắp được khả năng thanh toán trong thời điểm đó. Ở mức
nhẹ hơn, rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt động kinh
doanh của tổ chức đó trong một thời điểm cụ thể.
1.2.2 Nội dung quản trị rủi ro thanh khoản
18
Quản trị rủi ro thanh khoản là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc tính thanh
khoản (tính lỏng) của tài sản và quản lý tốt cấu trúc danh mục của nguồn vốn.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các ngân hàng luôn ưa thích có được
một trạng thái thanh khoản ròng thích hợp sao cho vừa đảm bảo an toàn và
vừa có lợi nhuận là tối đa. Tuy nhiên công việc này không hề đơn giản,
RRTK luôn tiềm ẩn trong hoạt động thường ngày của ngân hàng. Chính vì
vậy, quản trị thanh khoản vào cuộc. QTRRTK là quá trình nhận dạng, đo
lường, kiểm soát và tài trợ những nguy cơ rủi ro về việc ngân hàng không thể
đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nhu cầu thanh khoản cho khách hàng; là quy
trình tác động liên tục, có chủ đích của các nhà quản trị ngân hàng lên các
nguồn cung và nguồn cầu thanh khoản nhằm đảm bảo các yêu cầu thanh toán,
chi trả và yêu cầu cấp tín dụng của ngân hàng với những hao tổn nhỏ nhất.
Bản chất của hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản trong ngân hàng
Các dòng tiền vào - ra liên tục và không bao giờ hoàn toàn cân bằng nhau.
Hiếm khi nào tại một thời điểm mà tổng cung thanh khoản bằng với tổng cầu
thanh khoản. Do vậy, ngân hàng phải thường xuyên đối mặt với tình trạng
thâm hụt hay thặng dư thanh khoản. QTRRTK là đảm bảo sự cân đối của các
dòng tiền.
Thanh khoản và khả năng sinh lời là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với nhau,
nghĩa là một tài sản có tính thanh khoản càng cao thì khả năng sinh lời của tài
sản đó càng thấp và ngược lại; một nguồn vốn có tính thanh khoản càng cao
thì thường có chi phí huy động càng lớn và do đó, làm giảm khả năng sinh lời
khi sử dụng để cho vay. Để có thể duy trì được trạng thái thanh khoản an
toàn, ngân hàng phải chịu một chi phí cơ hội lớn và chi phí này cần được
quản lý tốt để đảm bảo lợi nhuận thu về là lớn nhất có thể. QTRRTK là quản
lý chi phí, lợi nhuận.
19
Ngân hàng cần dự trữ thanh khoản để chi trả những chi phí thường xuyên,
như lãi tiền gửi…, và cả những cú sốc thanh khoản không mong đợi, như một
cuộc rút tiền hàng loạt hay yêu cầu vay vốn lớn. Một ví dụ điển hình cho cú
sốc thanh khoản là nhiều người đổ xô đến ngân hàng rút tiền ở cùng một thời
điểm. Trong hoàn cảnh đó, hầu như không một ngân hàng nào có thể đáp ứng
toàn bộ những yêu cầu này và dễ dẫn đến nguy cơ sụp đổ, ngay cả khi ngân
hàng đó chưa mất khả năng thanh toán. Tất nhiên, khả năng dự trữ thanh
khoản kém chưa hẳn sẽ đưa đến sự sụp đổ của một ngân hàng, nhưng chắc
chắn, ngân hàng sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để ứng phó với một cú
sốc thanh khoản không lường trước. Và điều đó sẽ làm giảm đáng kể lợi
nhuận của ngân hàng và suy đến cùng khả năng sụp đổ là hoàn toàn có thể.
Thanh khoản mang tính thời điểm rất lớn, theo nghĩa, một số yêu cầu thanh
khoản là tức thời hoặc gần như tức thời. Chẳng hạn, một khoản tiền gửi lớn
đến hạn và khách hàng không có ý định tiếp tục duy trì số vốn này tại ngân
hàng; khi đó, ngân hàng buộc phải tìm kiếm các nguồn vốn có thể sử dụng
ngay như vay từ TCTD khác. Ngoài ra, yếu tố thời vụ, chu kỳ cũng rất quan
trọng trong việc dự kiến cầu thanh khoản dài hạn. Ví dụ, cầu về thanh khoản
thường rất lớn vào mùa hè, gắn với ngày tựu trường, ngày nghỉ và các kế
hoạch du lịch của khách hàng. Việc kế hoạch được những yêu cầu thanh
khoản này, sẽ giúp ngân hàng hoạch định được nhiều nguồn đáp ứng cầu
thanh khoản dài hạn hơn là trong trường hợp đối với cầu thanh khoản ngắn
hạn. Một trong những bản chất của NH là trung gian chu chuyển vốn trong
nền kinh tế do đó việc đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý nhằm duy trì
hoạt động liên tục của NH cũng như của nền kinh tế là vấn đề không bao giờ
kết thúc của công tác quản trị NH. QTRRTK là đảm bảo an toàn hoạt động
NH cũng như nền kinh tế.
1.2.2.1 Đánh giá trạng thái thanh khoản