Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Câu hỏi đáp án ôn thi CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.75 KB, 83 trang )

THAM KHẢO CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN CHÍNH
Câu hỏi: Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định:" Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nứôc pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân" anh,chị hãy lý giải:
- Nhà nước pháp quyền là gì? so sánh các đặc trưng của nhà nước pháp quyền nói chung
và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam noí riêng.
- Tại sao nước ta phải xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN? Phương hướng hoàn thiện
bộ máy nhà nước ta theo hướng pháp quyền.
Trả lời:
- Khái niệm về nhà nước pháp quyền
1. Khái niệm nhà nước pháp quyền
Hiện nay, trong lý luận có nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về khái niệm và các yếu tố
cơ bản của nhà nước pháp quyền. Cụ thể các quan điển thường nhấn mạnh đến một trong những yếu tố cơ
bản sau đây của nhà nước pháp quyền: tính tối cao của pháp luật, nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của chính
nhà nước; cơ chế phân chia quyền lực, kìm chế và đối trọng giữa những nhánh quyền lực: lập pháp, hành
pháp và tư pháp; dân chủ, xã hội công dân; quyền con người…
Là một khái niệm có nội hàm khái niệm rộng lớn, nhà nước pháp quyền bao gồm nhiều thành tố
cấu thành trong mối quan hệ biện chứng: nhà nước và pháp luật, nhà nước và xã hội công dân, dân chủ.
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước.
Trên cách hiểu phổ quát nhất, nhà nước pháp quyền được thể hiện ở những đặc điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất, tổ chức nhà nước được thiết kế, hoạt động trên cơ sở pháp luật, bản thân nhà nước
cũng phải đặt mình trong khuôn khổ pháp luật. Hình thức tổ chức nhà nước được xây dựng trên cơ
sở của sự phân công lao động hợp lý giữa các loại cơ quan trong bộ máy nhà nước: lập pháp, hành
pháp và tư pháp .
Một hình thức tổ chức nhà nước mà nền tư pháp được tổ chức khoa học, có hiệu quả và độc lập
chỉ tuân theo pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền phải hiện hữu một nền hành chính trong sạch, hiệu
quả, phục vụ tốt nhất những nhu cầu đa dạng, chính đáng của các cá nhân, tổ chức.
Thứ hai, một hình thức tổ chức nhà nước mà pháp luật có vị trí, vai trò xã hội to lớn, là ph-
ương tiện điều chỉnh quan trọng hàng đầu đối với các quan hệ xã hội, là công cụ của nhà nứơc và
toàn xã hội.


Nhấn mạnh đến vị trí vai trò của pháp luật, song nhà nước pháp quyền không loại trừ đạo đức.
Đường lối của Đảng, Nhà nước ta cũng đã xác định: quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với giáo dục,
nâng cao đạo đức và mọi hành vi dân sự đều không được trái pháp luật và trái đạo đức xã hội.
Thứ ba, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải thực sự vì con người-giá trị cao quý nhất.
Theo đấy pháp luật là công cụ ghi nhận các quyền con người, quy định cơ chế bảo đảm và bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng của công dân.Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ của nhà nước, cá nhân và
tổ chức, không có ngoại lệ nào.
Từ phương diện xã hội, nhà nước pháp quyền chính là sự thể hiện một xã hội được tổ chức thành
nhà nước, có sự phát triển lành mạnh của xã hội dân sự, nơi nhà nước thực sự là một tổ chức công quyền,
mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là mối quan hệ bình đẳng pháp lý và đồng trách nhiệm. Các đặc
điểm, tiêu chí trên của nhà nước pháp quyền lại có những mức độ thể hiện khác nhau ở các quốc gia cả
trên bình diện lý luận, nền văn hoá và tổ chức nhà nước, hệ thống pháp luật.
Nhà nước pháp quyền là hiện tượng chính trị -pháp lý phức tạp rộng lớn được thể hiện trên nhiều
phương diện khác nhau. Do vậy có thể đưa ra một định nghĩa bao quát hết nội hàm khái niệm nhà nước
pháp quyền.
Hiện nay, trong luật học đã có sự thừa nhận chung về khái niệm nhà nước pháp quyền, tức là một
khái niệm cho phép thể hiện được những đặc điểm (nguyên tắc) cơ bản nhất, tiêu biểu nhất của nhà nước
pháp quyền.
Định nghĩa nhà nước pháp quyền:
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công lao động khoa
học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, có cơ chế kiểm soát quyền lực, nhà nước đ-
ược tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có
tính khách quan, nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người.
1
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một tất yếu khách quan ở nước ta. Đường lối xây dựng nhà n-
ước pháp quyền Việt Nam XHCN đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định: " Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân".
Thể chế hoá tinh thần, nội dung trên của Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Điều 2 Hiến pháp
năm 1992 ( đã được sửa đỏi, bổ sung năm 2001) quy định: " Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩâ Việt

Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức…"
- So sánh đặc điểm Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và Nhà nước pháp quyền nói
chung
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của nhà nước pháp quyền, có thể nêu những đặc điểm cơ bản
nhất về nhà nước pháp quyền như sau:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đảm bảo tính đồng bộ,
thống nhất để thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và đạo đức tiến
bộ cuả nhân loại.
- Xác lập và có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo tính tối cao của luật trong hệ thống các văn bản pháp
luật.
- Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải mang tính nhân đạo phù hợp đạo đức xã hội, tất cả vì
lợi ích chính đáng của con người.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước, trong đó mối quan hệ giữa nhà nước và công dân bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm. Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi cá nhân, tổ
chức kể cả nhà nước, nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất, tinh thần cho
cá nhân về các quyết định và hành vi sai trái của mình.
- Nhà nước pháp quyền là nà nước trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của
con người được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng hệ thống pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều
phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật.
- Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước được tổ chức khoa học, các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp đợc phân định rõ ràng, hợp lý cho ba hệ thống cơ quan nhà nước tương ứng trong mối
quan hệ cân bằng, kiểm soát lẫn nhau tạo thành một cơ chế đồng bộ đảm bảo sự thống nhất của quyền lực
nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền tồn tại trên cơ sở một xã hội công dân phát triển lành mạnh, đảm bảo tự
do của các cá nhân và các tổ chức của họ trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước sống hoà đồng với cộng đồng thế giới, thực hiện các cam kết
quốc tế, các điều ước quốc tế mà nhà nước là thành viên ký kết hay công nhận.
Nhận diện từ góc độ tổng thể, nhà nước pháp quyền là kiểu tổ chức xã hội ở trình độ cao và

tính pháp quyền trong mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Mục đích cao cả, nhiệm vụ thường trực của nhà
nước pháp quyền không gì khác hơn là vì con người.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XHCN
Căn cứ vào những đặc điểm chung của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào tình hình cụ thể ở nước
ta có thể nêu những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN như sau:
1). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
- Cái gốc của chế độ Nhà nước pháp quyền là xác lập dân chủ, tức là thừa nhận và bảo đảm
thực hiện quyền lực của nhân dân. Quyền lực nhà nước phải là sản phẩm của ý chí nhân dân. Dấu
hiệu đặc trưng đầu tiên của Nhà nước pháp quyền là tính hợp pháp, hợp hiến của Nhà nước.
Ở nước ta, chính quyền và Nhà nước ngay từ đầu đã thể hiện tính chất nhân dân và cách
mạng sâu sắc, bởi vì nó chính là thành quả trực tiếp của Cách mạng thánh Tám do nhân dân thực
hiện thành công dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà nước ta là con đẻ của
khối đại đoàn kết toàn dân, “ không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”
1
. Có
thể nói, Nhà nước ta được thai nghén từ trong khói lửa cách mạng trong căn cứ địa đạo Cao – Bắc-
Lạng, từ Đại hội quốc dân Tân Trào và Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam được thành lập ngày 16 -
8 – 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngay từ đầu, chính quyền, Nhà nước của ta là chính
quyền, Nhà nước của nhân dân ta, do nhân dân giành được. Còn về mặt pháp lý thì đó là những thiết
chế quyền lực do nhân dân ta tự giác bầu ra trên cơ sở sử dụng quyền bầu cử của những công dân
2
hoàn toàn tự do của một đất nước hoàn toàn độc lập. Trong Tuyên ngôn độc lập do độc lập do Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc trước quốc dân đồng bào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình đã chỉ rõ:
“Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm để xây dựng nên Nhà nước Việt Nam độc
lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hoà”.
Vì vậy, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị: “Tôi đề nghị
Chính phủ phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất
cả công dân trai, gái, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo,
tôn giáo, giòng giống”.

Tính pháp quyền cao nhất của quyền lực nhà nước ở nước ta là ở chỗ đó. Chính vì tầm quan
trọng của việc khẳng định chủ quyền chính trị của nhân dân mà ngày nay vấn đề bầu cử, các hình
thức dân chủ trực tiếp vẫn tiếp tục là những vấn đề cần được đặt trong sự chú ý của quá trình cải
cách bộ máy nhà nước và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Bầu cử như thế nào, quyền bầu cử
phải được sử dụng như thế nào để nhân dân tìm cho được “những người xứng đáng thay mặt cho
mình gánh vác việc nước” là nội dung cơ bản của việc đổi mới cơ chế bầu cử ở nước ta hiện nay.
- Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ bản được
ghi nhận trong hiến pháp mà còn gắn liền với với việc thiết lập các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền
lực thực sự của nhân dân.
+ Nhân dân ta, người chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên Nhà nước của mình, trực tiếp
và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức
khác để tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch
định chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như vào các hoạt động thuộc phạm vi của
Nhà nước – hoạt động lập pháp, hoạt động quản lý – điều hành, công tác xét xử và các hoạt động bảo
vệ pháp luật. Đó chẳng những là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta mà còn là một trong những
quyền cơ bản của công dân nước ta. Điều 53 của Hiến pháp ghi: “Công dân có quyền tham gia quản
lý Nhà nước và xã hội…”.
+ Là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên là những tổ chức để qua đó nhân dân ta “tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng
Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân (…), giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước (Điều 9 Hiến pháp).
Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, cùng với
cơ quan nhà nước (…) chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao
động khác, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước…” (Điều 10 Hiến pháp). Thay mặt cho các tổ chức của mình, Chủ tịch uỷ ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được
mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan (Điều 111 Hiến pháp). Đến
lượt mình, Chính phủ có trách nhiệm hiến định là phối hợp với các tổ chức đó trong khi thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả (Điều 112 Hiến pháp).
+ Cá nhân công dân, song song với việc tham gia vào các hoạt động của Nhà nước với tư cách

là thành viên của các tổ chức chính trị – xã hội, còn tham gia công việc của Nhà nước và xã hội ở cơ
sở trong các hoạt động đa dạng nhằm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng (Điều 11 Hiến
pháp). Trong các phạm vi khác nhau của hoạt động Nhà nước, pháp luật cũng đã tạo ra những điều
kiện về mặt pháp lý để thu hút sự tham gia rộng rãi và sự đóng góp tích cực của công dân. Đó là dân
chủ xã hội chủ nghĩa trong hiện thực.
Chẳng hạn, theo Hiến pháp ở nước ta, ngoài hệ thống các Toà án có thể thành lập các tổ
chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vụ vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong
nhân dân theo quy định của pháp luật. Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của
Toà án quân sự có hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Một trong những mục đích của các chế
định như “phòng vệ chính đáng”, “tình thế cấp thiết”, “án treo” v.v… là nhằm động viên sự tham gia
của công dân vào việc thực hiện một chức năng quan trọng của Nhà nước là duy trì và bảo vệ trật tự
pháp luật, phòng chống tội phạm, giáo dục, cải tạo người phạm tội.
+ Ở những mức độ khác nhau, nhân dân có thể tác động một cách tích cực vào quá trình
thực hiện quyền lực nhà nước.
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta đã có nhiều quy định cụ thể để hiện thực hoá khả
năng đó. Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất
bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác, khuyến khích phát triển các hình thức
3
hoạt động văn học, nghệ thuật. Đó là kênh cực kỳ quan trọng để qua đó nhân dân nói tiếng nói của
mình góp vào quá trình hoạch định đường lối của Đảng, xây dựng chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Đảng và Nhà nước ta tạo ra mọi điều kiện để công dân có thể sử dụng một cách có hiệu quả
các quyền quan trọng như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin (Điều 69,
quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật
của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá
nhân nào (Điều 74 Hiến pháp). Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải
quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Chính phủ thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các
phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. Hiến
pháp cũng quy định trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện chế độ
thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng

nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương (Điều 125 Hiến pháp).
+ Giáo dục ý thức chính trị và năng lực chính trị cho nhân dân là bảo đảm hết sức quan trọng
để duy trì bản chất dân chủ của Nhà nước ta và chế độ chính trị của chúng ta. Nhưng đối với Chủ
tịch Hồ Chí Minh, ý thức và năng lực đó của nhân dân phải là sản phẩm của hoạt động quản lý,
tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội của nhân dân. Người nói : Nhà nước ta “phải phát
triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực
sự tham gia vào công việc của Nhà nước” (người trích nhấn mạnh).
+ Hiệu quả của chính quyền, của cả hệ thống chính trị của chúng ta hiện nay là đẩy tới sự
nghiệp đổi mới, làm cho đất nước ta không ngừng phát triển, mà trước hết là lấy kết quả phát triển
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm mục
tiêu tổ chức và hoạt động.
- Trong tư tưởng và phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta, tính hiệu quả
và thiết thực vì dân là một phương châm tổ chức và hoạt động hết sức được coi trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi ; nếu dân rét, Đảng và
Chính phủ có lỗi ; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi”. Khi Bác nói như vậy là Bác muốn nói đến
hiệu quả thực tế nhiệm vụ cụ thể trong việc hoạch định chính sách và pháp luật và tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật.
Từ đó, tiêu chí của việc đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước là khả năng phục vụ
nhân dân, là công cụ để nhân dân làm chủ về kinh tế, chính trị, xã hội, sử dụng tốt và có hiệu quả
các quyền, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình.
Chúng ta cần nhớ câu nói rất đơn giản, nhưng rất rõ ràng của Bác là: “Việc gì có lợi cho dân
thì ta phải làm, việc gì hại cho dân thì ta phải tránh”. Chính quyền là của dân, nên nó phải tiện lợi
cho dân, gắn với dân, tôn vinh nhân dân.
- Đối với chúng ta vấn đề về tính pháp quyền của quyền lực nhà nước được xem xét ở bình
diện khẳng định và bảo đảm quyền lực đó là của nhân dân, giữ cho nó luôn luôn nằm trong quỹ đạo
phục vụ nhân dân.
Ở bình diện thứ hai, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để nhân dân uỷ nhiệm cho Nhà nước
thực hiện quyền lực của mình mà không bị mất quyền, không bị lạm quyền, sử dụng quyền lực để đi
ngược lại với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.

Do đó, một trong những vấn đề bức xúc hiện nay đối với Đảng và Nhà nước ta, với cả hệ
thống chính trị nước ta là vấn đề đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Quan liêu, tham nhũng là
những hiện tượng gắn liền với quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Điểm chung giữa chúng là
đều dẫn tới chỗ làm cho quyền lực của nhân dân đi chệch khỏi bản chất, mục tiêu của Nhà nước ta.
- Để thực hiện được sự giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước, Hiến pháp
và pháp luật đã quy định một hệ thống các bảo đảm mà trước hết là quy định về các quyền của công
dân: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin. Đó là những quyền rất quan trọng
để nhân dân có thể được tự do thể hiện ý kiến, làm tăng tính công khai, minh bạch của các hoạt động
của Đảng và Nhà nước. Thông tin chính, đầy đủ, đa chiều, có chất lượng, sự thảo luận, bàn bạc thấu
đáo các vấn đề quốc kế dân sinh, thu hút đông đảo người dân tham gia, nghiêm túc tiếp thu các ý kiến
và sự phản biện có tính chất xây dựng- đó là thước đo của một xã hội dân chủ, cởi mở.
2). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, ra sức
tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác lập một cách
tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là Đạo
4
luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn
định xã hội và sự an toàn của người dân.
Như vậy, chủ nghĩa lập hiến là điều kiện để bảo đảm sự chính đáng về mặt pháp lí (tính pháp
quyền) của các thiết chế quyền lực nhà nước cũng như của các hành vi có tính quốc gia. Điều đó giải
thích vì sao chủ nghĩa lập hiến và sự hiện diện của chế độ bảo hiến, lại là một dấu hiệu quan trọng của
Nhà nước pháp quyền.
Ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện Hiến pháp luôn luôn là phương hướng quan trọng để thực
hiện dân chủ, giữ vững quyền lực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện để thúc đẩy mọi mặt đời sống kinh
tế-xã hội.
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam, từ rất sớm, đã có
yếu tố của lập hiến tiến bộ. Trong bài diễn ca nói về 8 yêu sách gửi các nước đồng minh họp Hội nghị
Vessailles đầu năm 1919, Nguyễn ái Quốc viết:

“Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”
1
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 3-9-
1945, Hồ Chủ tịch đã nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực
dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền
tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”
2
Như vậy, ngay từ đầu, ở nước ta, sự hiện diện của Hiến pháp đã được gắn liền với nền dân chủ,
với quyền tự do dân chủ của nhân dân. Nhà nước ta được tính chất và hoạt động trên nền tảng Hiến pháp
và trong khuôn khổ của Hiến pháp.
Kế thừa và phát triển các giai đoạn lịch sử của chủ nghĩa lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ những nguyên tắc và quan điểm lớn của
Đảng ta và điều chỉnh những chế định lớn như:
1) Chủ quyền quốc gia sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
2) Đại đoàn kết toàn dân;
3) Toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân: quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân và là quyền lực thống nhất;
4) Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội;
5) Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
6) Thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do cơ bản của công dân và
nghĩa vụ của công dân; thực hiện vai trò xã hội của Nhà nước, đề cao chủ nghĩa nhân đạo XHCN, và tính
nhân văn trong đời sống xã hội;
7) Bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
8) Quản lí xã hội bằng pháp luật, đề cao đạo đức XHCN, bảo đảm và không ngừng tăng cường pháp
chế XHCN;
9) Tập trung dân chủ trên cơ sở có sự phân công và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp; bảo đảm sự độc lập của Toà án;
10). Tổ chức quyền lực theo đơn vị hành chính-lãnh thổ, đảm bảo sự hài hoà giữa quyền lực tập
trung thống nhất với sự chủ động sáng tạo của địa phương và cơ sở.

Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản trên đây của Hiến pháp là cơ sở pháp lí quan trọng
cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất
hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết
sách khác của Nhà nước và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.
Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho nên,
việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và phán quyết về những quy
định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở
nước ta hiện nay.
Trên những nét đại thể, cơ chế đó phải là một cơ chế lấy những quy định của Hiến pháp để làm
căn cứ cho các đánh giá và phán quyết của mình, phải thực sự khách quan, toàn diện, trung thực, lấy lợi
ích quốc gia, các quyền và tự do và các lợi ích chính đáng của nhân dân làm thước đo duy nhất.
1
Trích theo Báo Nhân dân ngày 3.2.1977.
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.4, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.6.
5
Vì thế, chính các quy định của Hiến pháp phải thực sự ổn định, có tính pháp lí cô đọng và đầy đủ
và có đầy đủ khả năng tạo ra sự an toàn pháp lí cao nhất cho công dân và có khả năng phát huy hiệu lực
trực tiếp.
Tôn trọng Hiến pháp là tôn trọng ý chí phổ biến nhất và đầy đủ nhất của nhân dân. Chính vì vậy,
chủ nghĩa lập hiến đồng nghĩa với sự thừa nhận tính tối cao của chủ quyền nhân dân. Bảo vệ Hiến pháp là
bảo vệ chủ quyền Nhà nước, bảo vệ ý chí của nhân dân.
3). Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lí xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng
của pháp luật trong đời sống xã hội.
Pháp luật XHCN của chúng ta là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại.
Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến
bộ xã hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật khách quan của
các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ
pháp luật một cách chung chung với mục đích tự thân của nó.

Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì
vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nước và là
thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta: công bằng, dân chủ, bình đẳng – những tố chất cần thiết cho sự
phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỉ luật. Pháp luật thể chế hóa các nhu cầu
quản lí xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì
vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất
cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp và pháp luật.
Hiến pháp đã ghi rõ những yêu cầu đó như sau:
a) Về Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam (…) là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4).
b) Về Nhà nước: - “Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật… Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lí theo pháp luật” (Điều 12).
- “Nhà nước thống nhất quản lí toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật” (Điều 18); “Nhà
nước thống nhất quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách” (Điều 26)
c) Về công dân: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định” (Điều
51); “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (Điều 57); “Các tôn giáo đều
bình đẳng trước pháp luật” (Điều 70); “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” (Điều 71); “Việc bắt giữ và giam giữ người phải
đúng pháp luật” (Điều 71); “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 72); “Việc khám xét chỗ ở, việc bóc, mở, kiểm soát, thu giữ thư tín,
điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật” (Điều 73);
“Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được…nghiêm chỉnh chấp
hành” (Điều 136).

Nội dung pháp luật của Nhà nước ta chính là sự thể chế hóa đường lối của Đảng, do vậy trong nội
dung pháp luật đã hàm chứa đầy đủ đường lối của Đảng (đường lối của Đảng là cái hồn của pháp luật),
chấp hành pháp luật chính là thực hiện đường lối của Đảng. Đồng thời, pháp luật là những quy tắc xử sự
chung nên mọi cá nhân, tổ chức phải tuân thủ. Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất có vị trí lãnh
đạo Nhà nước và xã hội ta, nhưng Đảng, các tổ chức ủy đảng và đảng viên đều phải chấp hành pháp luật.
Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật không loại trừ bất cứ một ai. Mặc dù Điều 4 Hiến pháp 1992
xác định: Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thì cũng tại Điều 4 Hiến pháp 1992 khẳng
định: mọi tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã từng bước
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nền
kinh tế thị trường XHCN và đổi mới hệ thống chính trị. Pháp luật đã bước đầu trở thành công cụ chủ yếu
6
để quản lí Nhà nước, quản lí xã hội. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được đề cao và phát huy hiệu quả
trên thực tế.
Pháp luật là cơ sở để duy trì bản chất của Nhà nước. Bản thân Nhà nước vừa là công cụ tổ chức
của giai cấp, vừa là hình thức thực hiện quyền lực xã hội công khai. Tính chất đó của Nhà nước tất yếu
chỉ có thể được biểu hiện bằng những đại lượng có khả năng thể hiện sự phổ biến và công khai. Đó là
pháp luật. Nhà nước chỉ có thể thể hiện ý chí phổ biến và uy quyền công khai của mình qua một loại đại
lượng có tính phổ biến, có tính bắt buộc chung.
Cần phải khẳng định rằng, tính chất thực sự nhân dân và nguyên tắc pháp lý trong tổ chức quyền
lực là tiền đề quan trọng nhất để bảo đảm cho pháp luật có được bản chất pháp lý của nó, tức là tính bình
đẳng, phổ biến, công bằng. Sự hiện diện của một hệ thống như vậy, một hệ thống pháp luật làm tiêu chí
cho việc tổ chức và hoạt động của quyền lực, làm giá trị cho việc xác định các mục tiêu của quyền lực
mục tiêu vì con người - đó chính là những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền, trong đó, pháp
luật là cơ sở cho hoạt động của các thiết chế quyền lực, còn các thiết chế quyền lực phải thực sự trở
thành bảo đảm cho pháp luật có được những thuộc tính công bằng và dân chủ.
Nhà nước là người làm ra luật, ban hành pháp luật, nhưng lại phải tự đặt mình trong sự ràng
buộc về thẩm quyền và trách nhiệm trước pháp luật, trong khuôn khổ các quy định của pháp luật.
Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng.
Tuy nhiên nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến bản chất dân chủ và giá trị

công bằng, bình đẳng của nó. Không thể tuỳ tiện đưa ra luật! Tình trạng “phi mã’ của các văn bản dưới
luật, các “giấy phép con” của các Bộ, ngành, các địa phương; tình trạng thay đổi quá nhanh và thiếu tính
khả thi của các quy định pháp luật đã phần nào làm suy giảm lòng tin vào những giá trị công bằng và khả
năng điều chỉnh của pháp luật hiện nay. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền là quyết tâm đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặt công việc đó trên một nền
tảng khoa học.
Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với mối quan tâm làm sao để đưa pháp luật
vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân. Cho
nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi
mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng
cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt
động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ các quyền và thực hiện tốt các nghĩa vụ của họ,
khuyến khích tính tích cực pháp lý của họ; phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và
cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ
phải bằng mọi cách nâng cao hiểu biết pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các
vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy Đảng và Nhà nước.
4). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và
tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ dân chủ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã
hội
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước chân chính cách mạng,
Nhà nước XHCN. Cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm đầy gian khổ, hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc
lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng, suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng con người mà
Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam tuyên bố với toàn thế giới
trong ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà 2/9/1945 đã chỉ rõ:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với Nhà nước v.v, luôn được Đảng ta dành sự
quan tâm đặc biệt.

Do đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền theo hướng bảo đảm tôn trọng quyền con người, quyền
công dân là một nhiệm vụ cấp bách.
Quyền của công dân khác với thẩm quyền của cá nhân thuộc các chức sắc của bộ máy nhà nước.
Quyền của công dân - đó là những khả năng được bảo đảm trong việc thụ hưởng các điều kiện và nhu
cầu khác nhau và do đó công dân có thể sử dụng hay không sử dụng các quyền đó và sử dụng như thế
nào đó theo ý riêng của mình. Trong khi đó, thẩm quyền của các chức sắc Nhà nước, các cơ quan nhà
nước là cái mà các chức sắc và cơ quan đó có trách nhiệm phải thực hiện.
7
Công dân có thể làm tất cả những gì luật không cấm. Các chức sắc Nhà nước và các cơ quan nhà
nước chỉ được làm những gì luật quy định.
Công dân phải bị truy cứu trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm pháp luật. Các chức sắc
Nhà nước có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý không chỉ vì hành vi vi phạm pháp luật mà cả bởi những
việc làm có thể không do lỗi của mình mà do những bất cập, những khuyết điểm, những biểu hiện thiếu
trình độ và năng lực cần thiết.
Chức năng và hoạt động của Nhà nước cần được cải cách theo hướng tạo ra các điều kiện thuận
lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư đều có cơ hội tiếp cận một cách công bằng đối với
các “đầu vào”, “gia nhập thị trường” bao gồm đất đai, tín dụng, kỹ thuật, môi trường kinh doanh, thông
tin kinh tế. Xóa bỏ tận gốc cơ chế xin-cho của cơ chế bao cấp, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn đánh
giá hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh doanh. Xóa bỏ
ưu đãi có tính chất độc quyền trong sản xuất, kinh doanh.
Nhà nước cần làm tốt hơn nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất, kinh
doanh.
Nhà nước cần thực hiện chính sách điều tiết thu nhập giữa những người tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh sao cho người lao động không bị giới chủ bóc lột quá mức và có thu nhập tương
xứng, xứng đáng với giá trị sức lao động của họ. Đó là công bằng xã hội của thời kỳ quá độ.
Đồng thời, Nhà nước cũng ra sức khuyến khích làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện cho người lao
động không ngừng nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp.
Ngòai việc phân phối cho những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh, Nhà
nước cần thực hiện việc phân phối lại thông qua các sắc thuế (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,

thuế xuất, nhập khẩu v.v ) để tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và lấy từ nguồn này chi đầu tư phát
triển và tiêu dùng.
Nhà nước còn có vai trò xây dựng và thực thi vào quy hoạch phát triển, thực hiện kế hoạch cân
đối hợp lý vào đầu tư cho các vùng lãnh thổ khác nhau. Có hai loại khu vực và địa bàn: các khu vực và
địa bàn trọng điểm, đầu tàu; các khu vực và địa bàn khác, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ. Sự quan tâm đặc biệt này có hai mục đích. Mức
đầu tư cần thiết cho các vùng và địa bàn trọng điểm, đầu tầu sẽ kéo theo sự phát triển của cả nước. Còn
sự chú ý thích đáng đến các vùng và địa bàn khác là nhằm khắc phục sự “bất công tự nhiên” hoặc do lịch
sử để lại, giữ vững ổn định chính trị, xã hội bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội.
5. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành
pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) cùng với “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, quan điểm về sự tồn tại của ba quyền và sự phân công, phối hợp giữa ba
phạm vi quyền lực đó của Nhà nước mới được chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát
triển, vận dụng vào hòan cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại và trước yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Và đến Hội nghị
Trung ương lần thứ tám (khóa VII), (1995), quan niệm của Đảng về sự tồn tại của ba quyền đã được sự
bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có nói rằng, quan điểm về
sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà
nước là một quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Ở nước ta xuất phát từ bản chất của Quốc hội với tính cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất và cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, Quốc hội cần nắm giữ những quyền hạn mà việc thực
thi chúng có ý nghĩa quyết định đối với tòan bộ hoạt động Nhà nước.
Quyền quyết định các vấn đề quan trọng, trong đó cần chú trọng đến quyền quyết định chính
sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước,
phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước Vấn đề ngân sách Nhà nước luôn có ý nghĩa quyết định đối
với tòan bộ hoạt động Nhà nước. Do vậy quyền quyết định ngân sách Nhà nước được khẳng định thuộc

về Quốc hội và chỉ thuộc về Quốc hội mà thôi.
Quốc hội là một cơ quan thực hiện quyền lập pháp. Do vậy quyền làm luật là thẩm quyền cơ bản
nhất của Quốc hội.
8
- Cải cách nền hành chính quốc gia là một trong những khâu đột phá của cải cách bộ máy hành
chính Nhà nước. Do vậy sự chuyển đổi tính chất, nội dung và phương pháp thực thi của nền hành chính
quốc gia phải được bắt đầu từ cải cách Chính phủ.
Để có được các giải pháp cải cách Chính phủ phù hợp với nhu cầu của một nền hành chính mới,
cần thiết phải đổi mới nhận thức về vai trò, bản chất của Chính phủ trong điều kiện hiện nay.
Trước hết phải nhận thức rằng tính chất của quá trình chuyển đổi nền hành chính quốc gia đang
ngày càng làm tăng vai trò của Chính phủ, trong mọi quan hệ hành chính.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Chính phủ đóng vai trò vừa là người mở đường, khai
thông các quan hệ kinh tế đối với các quốc gia khác, vừa là người cung cấp các dịch vụ và bảo đảm cho
các doanh nghiệp trong nước tham gia vào thị trường thế giới. Điều đặc biệt quan trọng là trong quá trình
hội nhập quốc tế, Chính phủ không chỉ phải chịu trách nhiệm chính trị về hội nhập quốc tế mà còn phải
chịu trách nhiệm bảo vệ lợi ích quốc gia, của các doanh nghiệp trong các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đòi hỏi phải thay đổi tính chất,
nội dung, chức năng kinh tế và chức năng xã hội của Nhà nước mà người đại diện thực hiện các chức
năng này là Chính phủ.
Với vị trí là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, lãnh đạo thông suốt toàn bộ hệ thống hành
chính Nhà nước, Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và kiện toàn bộ máy hành chính có hiệu lực từ Trung
ương đến địa phương, Chính phủ có vai trò cực kỳ quan trọng đối với công cuộc cải cách hành chính.
Tăng cường quản lý tập trung thống nhất của Chính phủ trên các vấn đề quản lý vĩ mô, không
can thiệp trực tiếp việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện đúng và tốt hơn chức
năng quản lý Nhà nước đích thực trong kinh tế thị trường; phát huy mạnh mẽ tính năng động tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Chính phủ phải tập trung vào nhiệm vụ đổi mới và
hoàn thiện thể chế hành chính trong quản lý kinh tế, nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch định
hướng cho sự phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đổi mới chính sách tài chính, tiền
tệ, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước; chăm lo các vấn đề văn hoá xã hội, bảo vệ môi
trường, giữ gìn trật tự, an ninh và kỷ cương pháp luật; củng cố an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ

quyền quốc gia.
Bảo đảm tính thống nhất, tập trung của hệ thống hành chính, phát huy tính năng động, sáng tạo
của địa phương. Điều chỉnh cơ cấu tổ chức, tinh giản bộ máy hành chính các ngành, các cấp hành chính
trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi tổ chức và mối quan hệ
công tác giữa các tổ chức ấy. Nói chung, Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp cần được sắp xếp tinh
gọn, giảm đầu mối, tập trung làm tốt công tác quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực. Khắc phục tình trạng
bộ máy cồng kềnh, trùng lặp và tính cục bộ trong hệ thống hành chính ở cả Trung ương và địa phương.
Chính phủ có trách nhiệm quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ công chức
Nhà nước. Thực tiễn điều hành công việc của Chính phủ trong thời gian vừa qua cho thấy giải pháp xây
dựng một đội ngũ những người làm hành chính chuyên nghiệp được tuyển chọn và đào tạo theo tiêu
chuẩn chức danh là khâu có ý nghĩa quyết định. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng và hoàn thiện
chế độ công vụ bao gồm những vấn đề về trách nhiệm và kỷ luật đối với công chức, về đạo đức của
người công chức trong khi thi hành nhiệm vụ. Từng bước chính quy hoá các công sở, nâng cao kỷ luật và
phong cách làm việc; ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý hành chính; tăng cường các
phương tiện thông tin liên lạc cho các cơ quan để nâng cao hiệu suất công tác và hiệu lực quản lý.
- Các cơ quan tư pháp.
+Trong Hiến pháp 1992, vấn đề tổ chức và hoạt động của Toà án được quy định tại các điều từ
Điều 127 đến Điều 136. Các Toà án nhân dân ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp giữa thẩm
quyền xét xử với tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ từ cấp huyện trở lên. Ở mỗi đơn vị cấp huyện
(quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) có một Toà án, ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có một
Toà án cấp tỉnh và ở Trung ương có Toà án nhân dân tối cao.
+Hệ thống Viện Kiểm sát - vai trò, địa vị pháp lý của hệ thống các Viện kiểm sát được quy định
trong Hiến pháp năm 1992 và cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2002. Viện Kiểm
sát nhân dân có hai chức nănng chính:
*Chức năng thực hành quyền công tố (chức năng công tố) là chức năng chính yếu của Viện kiểm
sát.
* Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
Trong quan niệm về phân quyền hiện đại, ngoài sự phân biệt ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, còn có sự phân quyền giữa Trung ương và địa phương. Trên thế giới, tùy thuộc vào tính chất của
chế độ Nhà nước mà sự “phân quyền theo chiều dọc” này là rất đa dạng và có nhiều mức độ. Nhưng cũng

9
phải thấy một điều rất rõ nét hiện nay là phân quyền, phân cấp từ Trung ương cho địa phương đang là
một xu thế trong các cuộc cải cách Nhà nước hiện nay trên thế giới.
Ở nước ta khái niệm chính quyền địa phương được dùng thông dụng kể từ sau khi thành lập chính
quyền nhân dân. Trong khái niệm này thường bao hàm hai cơ quan là Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân (ủy ban hành chính trước Hiến pháp 1980).
Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân đều có cùng chức năng chấp hành pháp luật tại địa
phương, quản lý địa phương theo quy định của pháp luật. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, UBND là cơ quan chấp hành
của HĐND và là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương.
6). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo
Trong hệ thống chính trị nước ta Đảng cộng sản Việt nam là một bộ phận hợp thành, vừa là tổ
chức lãnh đạo hệ thống ấy. Lịch sử của Đảng ta là lịch sử của một Đảng cách mạng gắn bó máu thịt với
nhân dân. Đảng ở trong lòng dân, từ nhân dân mà ra và hoạt động không vì mục đích nào khác ngoài việc
phục vụ lợi ích của nhân dân. Đảng hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình nhờ sự ủng hộ
của nhân dân, đi đúng đường lối phục vụ nhân dân.
Bài học đó là bài học xuyên suốt lịch sử Đảng ta. Sự nghiệp đổi mới được tiến hành với
những kỳ tích được thế giới thừa nhận cũng nhờ Đảng đã nắm bắt được sáng kiến to lớn của nhân
dân, hiểu được nguyện vọng của nhân dân và phát huy được động lực to lớn của nhân dân thực
hiện sự nghiệp đổi mới đó.
Lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trước dân tộc, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, coi đó là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Qua tổng kết thực tiễn thế giới và Việt nam, Đảng
ta đã nêu rõ nguy cơ lớn nhất của Đảng cầm quyền là quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, đi đến mất
phương hướng về chính trị. Trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, càng cần cảnh giác và có
giải pháp khắc phục nguy cơ nói trên.
Mối quan hệ Đảng – nhân dân ở đây được Đảng ta nhìn nhận từ những bình diện sau đây:
Thứ nhất, Đảng tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân là để lấy các ý kiến đó làm cở sở cho
việc hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn của mình.

Xa rời nhân dân, thiếu hiểu biết về ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân, quan liêu, bao
biện là những căn bệnh hết sức nguy hiểm đối với một đảng cầm quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn phải dựa vào điều kiện
thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương. Phải luôn luôn do nơi
quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không”.
Thứ hai, khi đã có đường lối, chủ trương, chính sách tốt thì Đảng chỉ có thể đưa đường lối, chủ
trương, chính sách đó vào cuộc sống nếu được sự tiếp nhận và tự giác thực hiện từ phía nhân dân, từ đó
mới có thể huy động được đông đảo nhân dân tham gia thực hiện bằng nhân tài, vật lực của chính nhân
dân – nguồn lực nội sinh của sức mạnh kiểm tra, sự sáng tạo của nhân dân.
Quá trình lãnh đạo cách mạng mấy chục năm qua của Đảng cộng sản Việt nam đã khẳng định
tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Khi nào đường lối của Đảng được xây dựng
từ cở sở thực tiễn Việt nam, tranh thủ được những ý kiến đóng góp rộng rãi của nhân dân thì được nhân
dân tiếp nhận, nhanh chóng đưa vào cuộc sống. Ngược lại, lức nào đường lối, chính sách của Đảng xa rời
thực tiễn, không hợp lòng dân thì khó được nhân dân chấp nhận.
Thứ ba, sự liên hệ mật thiết với nhân dân giúp cho Đảng có thể dựa vào dân để tự chỉnh đốn, xây
dựng Đảng ta và đội ngũ đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng vạch rõ rằng, đại đa số đảng viên vào đảng với mong muốn phấn
đấu, hy sinh cho dân, cho nước. Song không ít đảng viên vào đảng vì họ tưởng rằng “vào đảng thì dễ tìm
công ăn việc làm, mong làm chức này chức nọ”. Những người như vậy dễ sinh ra những bệnh rất nguy
hiểm như “bệnh tham lam”, “bệnh lười biếng”, “bệnh kiêu ngạo”, “bệnh hiếu danh”, “thiếu kỷ luật”, “óc
hẹp hòi”.
Có thể nói rằng một đảng duy nhất cầm quyền, cơ chế quyền lực nhà nước tập quyền xã hội chủ
nghĩa không tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” – những đặc điểm đó của hệ thống chính trị
nước ta đã đặt sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động của Nhà nước nói riêng và nền dân chủ XHCN của
chúng ta nói chung vào trạng thái phát triển không có đối trọng. Trong bối cảnh đó không thể không nói
đến nguy cơ chủ quan, lạm quyền và quan liêu trong bộ máy Đảng và Nhà nước.
10
Tuy nhiên, giống như một bài toán của lịch sử, yếu tố “kiềm chế” thay cho cơ chế “đối trọng”
trong hệ thống chính trị nước ta đã được xác lập. Đó là Mặt trận Tổ quốc Việt nam và hệ thống các tổ
chức, đoàn thể xã hội với vai trò kiểm tra, giám sát của các tổ chức đó đối với hoạt động của bộ máy

Đảng và Nhà nước ta.
Ngay từ đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò quan trọng của các tổ chức quần chúng trong
cách mạng nước ta. Người nói: “nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà
làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội nông dân cứu
quốc, Phụ nữ cứu quốc.v v Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền
của dân, lien lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ”.
Trên cơ sở kinh nghiêm khẳng định vai trò quan trọng ấy của Mặt trận và các đoàn thể, Hiến pháp
nước ta (Điều 9) đã ghi nhận:” Mặt trận Tổ quốc Việt nam (…) động viên nhân dân thực hiện quyền làm
chủ, nghiêm chỉnh thực hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại
biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước”. Với tính cách là một tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của
giai cấp công nhân và của người lao động, Tổng liên đoàn lao động Việt nam cũng được Hiến pháp xác
định chức năng “ tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế” (Điều 10).
Như vậy sự kiểm tra, giám sát của nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể của họ đã được đặt
lên tầm Hiến định, do đó nó có khả năng hiện thực để áp dụng và mang tính bắt buộc về mặt pháp lý. Đó
chính là một cơ chế kiểm tra, giám sát của xã hội đối với hoạt động lãnh đạo và của bộ máy công quyền.
Cơ chế đó là bảo đảm quan trọng cho sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của Nhà nước đạt được
mục đích và hiệu quả mong muốn tránh được những sai phạm và rủi ro không đáng có.
Đối với vấn đề Đảng cầm quyền trong Nhà nước pháp quyền Việt nam XHCN, có một khía cạnh
quan trọng là phân định vai trò lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý của Nhà nước. Nhiều vấn đề cụ thể
xung quanh vấn đề lớn này được đặt ra như: mối tương quan giữa cấu trúc tổ chức các cơ quan Đảng với
cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ở các cấp từ Trung ương đến địa phương; các tiêu chí phân định sự lãnh
đạo chính trị của các cấp ủy đảng và quyền tự chủ, độc lập của các cơ quan nhà nước; cơ sở pháp lý xác
định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức đảng trong các hoạt động lãnh đạo, kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước ở các cấp; vai trò, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng theo
cấu trúc lãnh thổ như tỉnh ủy, huyện ủy, đảng ủy xã và của các cấp ủy trong bản thân các cơ quan nhà
nước cần phải được xác định như thế nào: các vị trí, chức vụ trong bộ máy đảng và bộ máy nhà nước, cán
bộ đảng và công chức nhà nước… cần được xác định về mặt pháp lý.
- Tại sao nước ta phải xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN? Phương hướng hoàn thiện
bộ máy nhà nước ta theo hướng pháp quyền.

Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cơ bản chính là yêu cầu, đòi hỏi đối với việc hoàn thiện
phương thức tổ chức quyền lực nhà nước để đáp ứng các tiêu chí của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta coi là nhiệm vụ quan
trọng và đã được Hiến pháp ghi nhận. Nhiệm vụ đó được Đảng đặt trong định hướng chung của việc đổi
mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
3
Đảng ta coi xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu
then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nhu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước
phải thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quyền của công dân, quyền của con người; phát
huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận tổ quốc cùng các đoàn thể
nhân dân thông qua hệ thống cơ chế thích hợp, làm cho tất cả các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
ngày càng vững mạnh, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện ngày một tốt hơn, từ đó tạo ra động
lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới
4
.
Như vậy, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta xuất phát từ những yêu
cầu, đòi hỏi chủ yếu sau đây:
1. Nhu cầu về việc phát huy bản chất XHCN duy trì và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước
XHCN và hệ thống chính trị XHCN, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của tất cả các khâu
3
Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng. Báo Nhân dân, ngày 19-4-2006.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng. Báo Nhân dân, ngày 19-4-2006.
11
trong hệ thống chính trị; đấu tranh có hiệu quả chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, làm trong sạch bộ

máy Đảng và Nhà nước;
2. Thúc đẩy mạnh mẽ cải cách kinh tế – xã hội, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
3. Tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do của con người, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
Các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp, hội nhập và toàn cầu hoá đang đặt ra cho
chúng ta nhiều cơ hội và thách thức. Những cung cách quản lý, điều hành xã hội của cơ chế hành chính,
tập trung hoá, bao cấp trước đây không còn phù hợp. Để đủ sức quản lý xã hội trong bối cảnh mới, phải
cải cách sâu sắc và toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, nhà nước và pháp luật. Xây dựng
nhà nước pháp quyền sẽ đáp ứng được những yêu cầu đó.
Xây dựng nhà nước pháp quyền để củng cố, phát huy bản chất nhân dân của nhà nước ta, thiết lập
những mối quan hệ đúng đắn giữa nhà nước và nhân dân. Xây dựng nhà nước pháp quyền sẽ cho phép
giải quyết một cách tốt nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là vấn đề còn rất mới mẻ đối với chúng ta cả về lý luận và thực
tiễn, do vậy phải được tiến hành một cách đồng bộ. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, cần
phải vừa tiếp thu có chọn lọc lý luận và thực tiễn nước ngoài, vừa phát huy nội lực, đảm bảo định hướng
xã hội chủ nghĩa và giữ gìn bản sắc dân tộc, kế thừa kinh nghiệm dựng nước và giữ nước cuả cha ông.
2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền lực nhà n-
ước thuộc về nhân dân. Quan niệm này thể hiện bản chất nhà nước ta và đã được xác định trong Hiến
pháp 1992 (sửa đổi năm 2001):"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức".
Nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân được thể hiện trong tổ chức và hoạt động, trong chính
sách và pháp luật nhà nước ta. Nhà nứơc ta do nhân dân thành lập, do nhân dân kiểm tra, giám sát. Mục
tiêu cao nhất của nhà nước là phục vụ lợi ích của nhân dân. Đấy cũng chính là nguồn sức mạnh to lớn của
nhà nước đã được kiểm nghiệm trong lịch sử dân tộc. Để đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, cần phải thực hiện thường xuyên hoạt động giám sát nhà nước và giám sát xã hội đối vớí
toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là giám sát tối cao của quốc hội.

- Quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất thể hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chủ
thể cao nhất thực hiện quyền lực nhà nước. Đây là quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo , tổ chức và hoạt
động của nhà nước ta không theo nguyên tắc phân chia quyền lực như ở nhiều quốc gia khác. Đồng thời
quan điểm này cũng thể hiện sự tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong học thuyết và thực tiễn áp dụng
phân chia quyền lực ở các quốc gia khác.
Trong lần sửa đổi một số điều của Hiến pháp 1992 đã thể hiện một bước tiến trong việc nhận thức
và thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Sự phân công rành mạch, xác định rõ chức năng, quyền hạn,
nhiệm vụ, trách nhiệm của từng loại cơ quan nhà nước và cơ chế phối hợp chính là điều kiện cốt yếu để
đảm bảo thống nhất quyền lực nhà nước.
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo xã hội và nhà nước. Sự lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước là nhân tố bảo đảm thành công của sự nhgiệp đổi mới đất nước. Trong
điều kiện hiện nay, Nói đến sự tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước phải gắn liền với đổi
mới, chỉnh đốn tổ chức Đảng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong điều kện mới. Trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta, điều vô cùng quan trọng là phải phân định rõ giữa sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các hiện tượng" hành chính đơn
thuần phi chính trị", xa rời sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và
ngược lại, sự bao biện, làm thay các công việc nhà nước từ phía các tổ chức Đảng.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà n-
ước
12
Tập trung dân chủ là nguyên tắc nền tảng của nhà nứơc và hệ thống chính trị ở nước ta, nếu xa rời
thì sẽ làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý xã hội của nhà nước nhất là trong điều kiện cơ chế kinh tế
thị trường, hội nhập và mở rộng dân chủ như hiện nay. Tập trung dân chủ là nguyên tắc quản lý nhà nước
được thể hiện trong sự kết hợp giữa lãnh đạo điều hành tập trung thống nnhất của Trung ương với phát
huy tính năng động, tính chủ động của địa phương, khắc phục cả hai khuynh hướng phân tán cục bộ và
tập trung quan liêu. Nguyên tắc tập trung dân chủ phải yêu cầu thực hiện sự phân cấp mạnh mẽ giữa các

cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, xác định rõ ràng cơ chế trách nhiệm theo quy định pháp luật.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bất kỳ cơ quan nhà nước, ở chế độ tập thể lãnh
đạo hay chế độ thủ trưởng. Nguyên tắc tập trung dân chủ có những biểu hiện đặc thù ở mỗi loại cơ quan
nhà nước trong bộ máy nhà nước.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời
giáo dục nâng cao đạo đức
Pháp chế là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, là nguyên tắc hiến định, trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tăng cường pháp chế lại
càng trở thành một nhu cầu cấp thiết. Bên cạnh việc thực hiện nguyên tắc tính pháp chế thống nhất, còn
phải thực hiện nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa tính pháp chế thống nhất và tính hợp lý, công
bằng. Trong khi chưa có sự thay đổi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mọi chủ thể đều phải tuân thủ
pháp luật. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền chỉ có thể phát huy được hiệu lực, hiệu quả thực tế khi có
sự phối hợp với đạo đức. Đây là vấn đề có tính quy luật đã được minh chứng trong lịch sử.
Cho dù hoàn thiện đến đâu pháp luật cũng không bao giờ dự liệu hết được tính chất đa dạng,
phong phú của cuộc sống. Để bổ sung cho pháp luật, để cho pháp luật có thể thực hiện, xã hội còn cần tới
những quy tắc điều chỉnh xã hội khác như các quy phạm đạo đức, tập quán, phong tục…Trong quản lý
xã hội muốn cho pháp luật được mọi người dân tôn trọng, tự giác thực hiện thì pháp luật phải được bảo
vệ, phải thể hiện được những giá trị đạo đức, được nhân dân chấp nhận, ủng hộ, đồng tình. Do vậy, lấy
đạo đức để quản lý xã hội cũng là một điều tất yếu khách quan, xuất phát từ chính thực tế đòi hỏi của
cuộc sống. Nhà nước pháp quyền thượng tôn pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng không loại
trừ đạo đức, bởi pháp luật trong nhà nước pháp quyền là hướng tới những giá trị nhân đạo, công bằng,
chân-thiện-mỹ-ích, tất cả vì mục đích phục vụ con người.
NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1. Khái quát chung về phương hướng cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, khó khăn, phức tạp. Những
nhiệm vụ và phương hướng cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền liên quan đến nhiều lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hoá- xã hội, nhà nước và pháp luật. Nghĩa là không chỉ quan tâm đến cải cách bộ máy nhà
nước hay sửa sang, hoàn thiện pháp luật…mà phải tiến hành đồng bộ nhiều phương hướng hoạt động để
tạo tiền đề vững chắc cho hiện thực nhà nước pháp quyền ở nước ta. Về tổng thể, có thể nêu ra những ph-

ương hướng, nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hoàn thiện nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam;
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật;
- Xây dựng ý thức, lối sống tuân thủ pháp luật, xây dựng nền văn hoá pháp lý;
- Thực hiện dân chủ hoá đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội của đất nước;
- Bảo đảm và bảo vệ các quyền con người;
- Đôỉ mới hệ thống chính trị;
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Phát huy nội lực, chủ động tham gia hội nhập khu vực và quốc tế, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Từ góc độ pháp lý, những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền tập
trung nhất vào nhà nước, pháp luật, dân chủ, quyền con người, hệ thống chính trị. Dưới đây là một số nét
khái quát.
2.Hoàn thiện nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, tiếp tục thực hiện công cuộc cải cách bộ
máy nhà nước
Công cuộc cải cách lớn về bộ máy nhà nước thời gian qua đã đạt được một số thành tựu to lớn
theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy vậy, trước yêu cầu của sự nghiệp phát triển
đất nước và tình hình quốc tế hiện nay, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước còn nhiều yếu kém,
13
bất cập. Do vậy, tiếp tục công cuộc cải cách nhà nước là một trong những nhiệm vụ chiến lược chủ yếu
để xây dựng nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ XHCN.
- Đổi mới hoạt động của Quốc hội
Thời gian qua hoạt động của Quốc hội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt trong lĩnh vực
xây dạng pháp luật. Chất lượng của các luật, pháp lệnh đã được nâng cao, đã góp phần to lớn vào sự phát
triển kinh tế, xã hội, văn hoá; ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy vậy, so với yêu cầu nhà
nước pháp quyền, cần phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội
trên một số lĩnh vực quan trọng như sau:
- Đôỉ mới về tổ chức bộ máy ( về đại biểu Quốc hội, về các cơ quan chuyên môn của Quốc hội,
các đoàn đại biểu Quốc hội…).

- Đôỉ mới nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động lập pháp của Quốc hội. Nâng cao chất lượng
công tác xây dựng và thực hiện chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh. Nâng cao chất lượng công
tác soạn thảo, thẩm tra, thảo luận các dự án luật, pháp lệnh. Thực hiện dân chủ hoá rộng rãi trong hoạt
động lập pháp, đổi mới cơ chế lấy ý kiến của nhân dân về dự án luật, pháp lệnh. Hoàn thiện quy trình lập
pháp của Quốc hội nhằm bảo đảm tính khách quan, phổ thông, dễ hiểu, dễ vận của các văn bản quy phạm
pháp luật. Gỉam dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung muốn thực hiện được
phải có văn bản hướng dẫn thi hành.
- Cải tiến chất lượng kỳ họp của Quốc hội, tăng cường năng lực hoạt động của đại biểu Quốc hội,
tăng cường số lượng đại biểu chuyên trách.
- Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Để thực hiện được
nhiệm vụ này, cần xác định rõ ràng, về nội dung giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động của Chủ
tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao. Đồng thời đổi mới phương thức giám sát, xác định hậu quả pháp lý của giám
sát tối cao.
- Thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia
Cải cách nền hành chính quốc gia là khâu trọng tâm của toàn bộ công cuộc cải cách bộ máy nhà
nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong đó, cải cách thủ tục hành chính được xác
định là khâu đột phá. Mục tiêu đặt ra cho cải cách hành chính xét về tổng thể là nhằm chuyển từ một nền
hành chính trì trệ, nhiều tầng, nhiều nấc, thủ tục hành chính phức tạp, không thuận tiện cho ngời dân sang
một nền hành chính gọn nhẹ, trong sạch, hiệu quả, phục vụ những nhu cầu của người dân và xã hội một
cách tốt nhất.
Thực hiện cải cách hành chính trên cả ba mặt: cải cách thể chế hành chính với trọng tâm là cải
cách thủ tục hành chính, cải cách cơ cấu, tổ chức và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính; hoàn
thiện chế độ công vụ và quy chế công chức nhà nước. Tiếp tục cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính,
thực hiện có hiệu qủa cơ chế " một cửa", tin học hoá các hoạt động quản lý hành chính.
Để có một nền hành chính năng động, hiệu qủa, tinh gọn, cần phải tiếp tục đổi mới tổ chức và
hoạt động của Chính phủ, sắp xếp , thu gọn các đầu mối của Chính phủ. Đổi mới hoạt động của Chính
phủ theo hướng Chính phủ tập trung vào việc xây dựng chính sách, các thể chế, hoạch định chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội, chỉ đạo và điều hành phối hợp các ngành, các cấp thực thi chính sách, pháp
luật.

Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền điạ phương, đẩy mạnh phân công, phân cấp, nâng
cao tính chủ động, chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương đối với mọi mặt đời sống xã hội tại địa
phương. Tăng cường chế độ kiểm tra, giám sát, đánh giá các hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân. Tổ chức hợp lý HĐND, tăng cường vai trò của HĐND tại địa phương. Kiện toàn các cơ quan
chuyên môn của UBND và bộ máy chính quyền cấp xã.
Trong nền hành chính, yếu tố con người là khâu then chốt. Cần xây dựng quy chế hoạt động công
vụ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ. Thực hiện thường xuyên công tác đào tạo, bồi d-
ưỡng nâng cao trình độ và kỹ năng thực hành chuyên môn của đôị ngũ cán bộ. Xây dựng cho đội ngũ cán
bộ nhà nước thói quen tuân thủ pháp luật, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, công tâm trong việc
giải quyết công việc đối với người dân, chịu trách nhiệm pháp lý về các quyết định và hành vi của mình.
- Thực hiện cải cách tư pháp
Trong nhà nước pháp quyền và một xã hội công dân phát triển lành mạnh, vai trò của bộ máy tư
pháp đặc biệt quan trọng. Ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ-TW về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Cải cách tư pháp cần được tiến hành
trong tổng thể cải cách của bộ máy nhà nước, cải cách hành chính. Nôị dung và các nguyên tắc cơ bản
của cải cách tư pháp ở nước ta tập trung vào những lĩnh vực hoạt động sau:
14
- Xây dựng các cơ quan tư pháp vững mạnh, trong sạch, từng bước hiện đại hoá. Hệ thống các cơ
quan tư pháp bao gồm: các Toà án nhân dân, các Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra; tổ chức
luật sư, công chứng, giám định tư pháp và các chức danh tư pháp như thẩm phán, luật sư, công chứng
viên, giám định viên…
- Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, gíam định, truy tố,
xét xử, thi hành án và các hoạt động tư pháp khác.
Tổ chức lại cơ quan điều tra, thi hành án theo nguyên tắc thu gọn đầu mối, thành lập cảnh sát t ư
pháp.
- Đảm bảo nguyên tắc độc lập khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội thẩm nhân
dân và một số hoạt động tư pháp khác như điều tra
, truy tố. Để nâng cao tính độc lập của hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động xét xử nói riêng cần phải
thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ như kiện toàn cơ cấu, tổ chức, cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi
phạm, hoàn thiện các quy định pháp luật; đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ và nâng cao đạo đức nghề

nghiệp…
- Các hoạt động tư pháp phải đảm bảo tính dân chủ, giản tiện, minh bạch và hiệu quả. Hoạt động
tư pháp phải thực sự baỏ vệ được các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, công bằng, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật, giảm
đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai, tồn đọng các vụ việc.
3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tiêu chí nhà nước pháp quyền là vấn đề rộng lớn, liên quan
đến các lĩnh vực xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng
ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý.
Trong xây dựng pháp luật cần chú ý đảm bảo cả về số lượng vầ chất lượng các văn bản pháp luật,
cả pháp luật về nội dung và pháp luật về thủ tục. Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng bảo đảm tính
công bằng, minh bạch, tính khả thi của các quy định, tính đồng bộ và thống nhất của các văn bản, tính
phù hợp giữa luật với các hình thức điều chỉnh khác. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa pháp luật
quốc gia với pháp luật và thông lệ quốc tế.
Xây dựng chiến lược phát triển khung pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi, an toàn
cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng hợp tác phát triển, cạnh
tranh lành mạnh.
Xây dựng khung pháp luật phục vụ chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảm bảo sự ghi
nhận về nội dung và cơ chế thực thi các quyền, lợi ích chính đáng của công dân.
Tổ chức thực hiện pháp luật, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của các
cơ quan nhà nớc có thẩm quyền, xây dựng môi trường xã hội- pháp lý thuận lợi cho những hành vi hợp
pháp.
Đảm bảo thực hiện tính tối cao của luật. Trong hệ thống pháp luật, các đạo luật phải chiếm ưu
thế, điều đó phản ánh tính tối cao của quyền lực nhân dân bởi các đạo luật được cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân ban hành, quy định những vấn đề quan trọng, cơ bản của xã hội.
Đảm bảo tính minh bạch, công khai của pháp luật, nhà nước phải đáp ứng nhu cầu thông tin về
pháp luật, về các hoạt động thực tiễn pháp lý cho cá nhân và tổ chức. Cần triển khai chiến lược xây dựng
ý thức pháp luật và thực thi pháp luật của các tầng lớp nhân dân.
4. Đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hoá mọi mắt đời sống xã hội
Công cuộc cải cách bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay phải được tiến hành song song,

đồng bộ với việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN.
-Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Xây dựng nhà nước pháp
quyền không thể tách rời với việc đổi mới hệ thống chính trị. Trước hết phải đổi mới tổ chức và hoạt
động của Đảng, nâng cao via trò, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đói với nhà nước và xã hội.
-Tổ chức chính trị-xã hội là nơi triển khai thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà n-
ước. Vì vậy, các tổ chức chính trị- xã hội phải có bước đổi mới về cơ cấu tổ chức, hình thức hoạt động để
góp phần vào việc xây dựng thành công nhà nước pháp quyền.
-Dân chủ vừa là yếu tố cấu thành của nhà nước pháp quyền, vừa là mục tiêu vừa là động lực của
nhà nước pháp quyền. Dân chủ còn là điều kiện cho sự tồn tại của nhà nước pháp quyền. Do đó, để thực
hiện thành công sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền, cần thực hiện dân chủ hoá sâu sắc mọi mặt
15
của đời sống nhà nước, pháp luật, xã hội. Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, xây dựng
sự đồng thuận xã hội.
KẾT LUẬN
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một quá trình lâu dài, vô cùng khó khăn, phức tạp. Chúng ta
vừa tiếp thu có chọn lọc lý luận và thực tiễn của thế giới về xây dựng nhà nước pháp quyền, vừa phải
đảm bảo phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, kiên định trên con đường XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
2. Câu hỏi: Nhận xét về pháp luật tư sản, C.Mác viết: "Pháp luật của các ông chẳng qua
cũng là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật, mà nội dung ý chí đó là do điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định".
Anh(chị) hãy ;phân tích và liên hệ thực tiễn pháp luật Việt Nam để làm sáng tỏ nhận định trên.
Trả lời:
1. Bản chất pháp luật
Tiếp cận vấn đề về bản chất pháp luật
-Bản chất pháp luật là một thể thống nhất bao gồm hai mặt-hai phương diện cơ bản: phương diện
giai cấp và phương diện xã hội hay thường được gọi là tính giai cấp và tính xã hội. Hai phương diện
này có quan hệ mật thiết, phụ thuộc, tác động lẫn nhau và cả hai đều mang tính tất yêú khách quan.

-Do những điều kiện khách quan và chủ quan, sự thể hiện và thực hiện tính giai cấp và tính xã hội
của pháp luật có khác nhau trong các kiểu nhà nước, trong các giai đoạn phát triển của mỗi một nhà nước.
Theo đấy tính giai cấp của pháp luật thường được thể hiện một cách công khai, quyết liệt trong các
nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến.
Trong các xã hội đương đại, pháp luật cũng thể hiện tính giai cấp của mình, đồng thời theo
xu hướng chung, tính xã hội, tính nhân loại ngày càng thể hiện rõ nét hơn.
-Pháp luật không chỉ là công cụ quản lý, cần thiết của nhà nước và còn là công cụ của mỗi cá
nhân và toàn xã hội. Đó chính là vai trò, giá trị đích thực của pháp luật. Sự phát triển của xã hội hiện đại
đang dần dần trả lại vị thế, vai trò , công năng đó của pháp luật. Qúa trình dân chủ hoá dời sống xã hội
trong đó có đời sống chính trị-pháp lý sẽ xác lập, nâng cao hơn tính xã hội của pháp luật.
Bản chất của pháp luật là vấn đề thuộc về những dấu hiệu bên trong của pháp luật, những mục
đích điều chỉnh pháp luật, pháp luật đó bảo vệ lợi ich của ai…? Pháp luật ngoài việc thể hiện ý chí nhà n -
ước của giai cấp thống trị, là công cụ của nhà nước ra còn có vai trò và giá trị xã hội to lớn, không chỉ là
sản phẩm thuần tuý của nhà nước. Pháp luật thể hiện các giá trị đã được kết tinh từ truyền thống, văn hoá,
đạo đức dân tộc và nhân loại…
Tính giai cấp của pháp luật
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở sự phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị xã hội
trong hệ thống các văn bản pháp luật, các loại hoạt động áp dụng của nhà nước. C,Mác và Ph.Ăngghen đã
viết về pháp luật tư sản: "Pháp luật của các ông là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật, cái ý
chí mà nội dung là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định". Nội dung của pháp
luật tức là ý chí nhà nước được quy định bởi các điều kiện sinh hoạt vật chất, các yếu tố kinh tế và phi
kinh tế. Cần có quan điểm khách quan, toàn diện về pháp luật, không tuyệt đối hoá vai trò của các yếu tố
kinh tế trong đời sống pháp luật và nhà nước.
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo những
mục đích, đường lối phát triển cho phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị và những điều kiện khách
quan của đất nước. Pháp luật đương nhiên không phải là cấp số cộng giản đơn tất cả các lợi ích, nhu cầu
của mọi cá nhân trong giai cấp thống trị mà là những lợi ích tiêu biểu, cơ bản và được chọn lọc, thông
qua nhà nước "đề lên thành luật".
-Pháp luật của bất kỳ nhà nước nào cũng mang tính giai cấp sâu sắc, nhưng mức độ, cách thức thể
hiện và trong thực tế tính giai cấp không hoàn toàn giống nhau trong các kiểu pháp luật và ngay cả trong

một nhà nước, vào những thời điểm khác nhau.
+Pháp luật chủ nô công khai xác nận quyền lực tuyệt đối, vô hạn của chủ nô và tình trạng vô
quyền của người nô lệ như là những "công cụ biết nói"trong xã hội.
+ Pháp luật phong kiến vẫn được coi là pháp luật "quả đấm" với hệ thống những quy định, chế
tài trừng phạt dã man, vô nhân đạo, bảo vệ công khai lợi ích của giai cấp địa chủ, phong kiến.
+ Pháp luật tư sản mặc dù là một bước tiến bộ, phát triển vượt bậc so với các kiểu pháp luật trước
đó cả về nội dung và hình thức, song nó vẫn là công cụ bảo vệ lợi ích giai cấp tư sản trước hết.
Bản chất của pháp luật tư sản
16
Pháp luật tư sản ra đời cùng với nhà nước tư sản trong cách mạng tư sản. Bản chất pháp luật tư
sản được quy định bởi cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội, nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước tư sản và được thể
hiện ở tính chất giai cấp và tính chất xã hội của pháp luật tư sản.
-Pháp luật tư sản mang tính chất giai cấp sâu sắc vì nó do giai cấp tư sản tạo ra thông qua nhà n-
ước tư sản và luôn luôn thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.
Trong "Tuyên ngôn Đảng cộng sản" (năm 1848), Mác và Ăng ghen đã chỉ ra rằng pháp luật tư
sản là ý chí của giai cấp tư sản được đưa lên thành những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, cái ý chí
mà mà nội dung của nó do những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội tư bản chủ nghĩa quyết định.
+ Giai cấp tư sản sử dụng pháp luật của mình như là một công cụ có hiệu lực nhất để đàn áp, bóc
lột giai cấp công nhân, nhân dân lao động; duy trì, bảo vệ sự thống trị của mình về kinh tế, chính trị , tư t-
ưởng trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
+Qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhà nước tư sản và pháp luật tư sản thì tính
chất giai cấp của pháp luật tư sản cũng có những biểu hiện khác nhau.
* Ở giai đoạn tự do cạnh tranh và hình thành các thiết chế của nền dân chủ tư sản (từ các cuộc
cách mạng tư sản đến năm 1 87 1), tính chất giai cấp của pháp luật tư sản thể hiện một cách kín đáo, nhẹ
nhàng và khó nhận biết.
* Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền - nhà nước , rồi sau đó là chủ nghĩa đế quốc ( 1
87 1 - 1 9 1 7 ) và nhất là thời kỳ đầu thuộc giai đoạn thứ ba (từ năm 1 9 1 7 đến nay) - thời kỳ tổng
khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản ( 1 9 1 7 - 1 945 ) , tính chất giai cấp của pháp luật tư sản thể hiện một
cách công khai, mạnh mẽ, quyết liệt mà minh chứng là những đạo luật phản động, phản dân chủ.
*Trải qua 60 năm, kể từ sau cuộc tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản và kết thúc cuộc chiến

tranh thế giới lần thứ hai (năm 1945) đến nay, trên thế giới nói chung và trong các nước tư bản chủ nghĩa
nói riêng đã xảy ra biết bao sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, . . . quan
trọng, làm biến đổi sâu sắc và toàn diện bộ mặt của thế giới và của các nước tư bản chủ nghĩa, tác động
và ảnh hởng tích cực tới nhà nước tư sản và pháp luật tư sản. Bởi vậy, tính chất giai cấp của pháp luật
tư sản có xu hướng quay trở về giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, nhưng với mức độ tinh vi, khéo
léo, tinh tế và uyển chuyển hơn.
ã hội đương thời.
Bản chất pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Bản chất pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở tính giai cấp, tính xã hội và
tính nhân loại .
Pháp luật có vai trò hàng đầu trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, các giá trị và
vai trò của pháp luật chỉ có thể đảm bảo, phát huy trong sự kết hợp chặt chẽ với các phương tiện điều
chỉnh xã hội khác.
Trong quá trình điều chỉnh hành vi và các quan hệ xã hội của con người, pháp luật xã hội chủ
nghĩa có mối quan hệ biện chứng với các hiện tượng xã hội quan trọng khác như chính trị, kinh tế; văn
hoá, đạo đức, tôn giáo; tập quán, nhà nước v.v. . .
Ngay từ sự ra đời và trong suốt quá trình phát triển, pháp luật xã hội chủ nghĩa thường xuyên tiếp
nhận, kế thừa chọn lọc những giá trị văn hoá pháp lý của nhân loại . Sự kế thừa này được thể hiện trong
nhiều lĩnh vực của đời sống pháp luật nh các tư tởng pháp lý tiến bộ, kỹ thuật pháp lý, hoạt động xây
dựng pháp luật; cách thức áp dụng pháp luật; phương pháp đưa thông tin pháp luật vào cuộc sống v. v. .
Đối với Việt Nam , trong suốt sáu mươi năm qua, hệ thống pháp luật không ngừng được đổi
mới , hoàn thiện, thể hiện đậm nét tính dân tộc, tính định hướng xã hội chủ nghĩa và tính thời đại.
Pháp luật Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thông các quy tắc xử sự( sự thể hiện ý chí, lợi ích
của nhân dân lao động, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), có tính bắt buộc chung, được nhà
nước đảm bảo thực hiện trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế, thu hút sự tham gia
tích cực của toàn xã hội vào hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật, nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh .
2. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Bản chất pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thể hiện đậm nét ở các đặc điểm cơ bản sau
đây:

1. Mang tính nhân dân sâu sắc
Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dần sâu sắc. Pháp luật thể hiện ý chí của
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác. Với tư cách là
kiểu lịch sử pháp luật mới, pháp luật xã hội chủ nghĩa có đặc điểm bản chất khác biệt căn bản với các
kiểu pháp luật khác ở tính nhân dân sâu sắc.
17
Về bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết "pháp luật thực sự dân
chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động" .
Tính nhân dân của pháp luật nước ta được thể hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật, trong
hoạt động áp dụng pháp luật, phổ biến và giáo dục pháp luật.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, nhà nước ta thực hiện nhiều hình thức để thu hút sự tham
gia của các tầng lớp nhân dân vào hoạt động xây dựng pháp luật để các quy định pháp luật ngày càng
phù hợp với cuộc sống. Hoạt động xây dựng pháp luật những năm gần đây thực sự đã và đang được đổi
mới cả về nội dung, hình thức, cách thức xây dựng. Các quyền, lợi ích chính đáng của người dân đã được
ghi nhận và có cơ chế bảo đảm, bảo vệ hữu hiệu hơn.
Hoạt động kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật cũng được quan tâm hơn, thông qua đó góp
phần tích cực vào việc phát hiện những quy định pháp luật bất cập, gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích
chính đáng của người dân và kịp thời sửa đổi, bổ sung.
2.Khẳng định đường lối phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định h-
ướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi thới đất nước, tác động
của quá trình chuyển đổi nền kinh tế, xã hội đã khẳng định về tính chất, đặc điểm của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, không thể thiếu được vai trò quản lý của nhà nước bằng một hệ thống pháp luật và các công cụ
quản lý khác .
Trong những năm qua, nhà nước đã xây đựng, ban hành nhiều văn bản pháp luật có chất lượng
cao, về cơ bản đã tạo dựng được khung pháp luật phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thay thế cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, mệnh lệnh hành chính
bao cấp, hiện vật trước đây, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động kinh tế của xã hội. Nhờ vậy,
đã tạo lập được hành lang pháp lý cho việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xác định

chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, thương gia, quyền tự do kinh
doanh, quyền tự do hợp đồng, các cơ chế khuyến khích và bảo đảm đầu tư, giảm dần sự can thiệp của cơ
quan Nhà nước bằng các biện pháp hành chính vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại.
Bên cạnh những thành tựu, ưu điểm và tác động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống
các văn bản pháp luật về kinh tế nói riêng còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, nhất là trong các quy định
pháp luật về thủ tục về cơ chế thực thi pháp luật.
3. Tính cưỡng chế nhà nước trong pháp luật
Với tư cách là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội đặc biệt quan trọng, do nhà nước ban hành,
xuất phát từ thực tiễn xã hội, pháp luật nước ta tất yếu được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng
chế nhà nước. Pháp luật xã hội chủ nghĩa tuy mang tính cưỡng chế, nhưng tính cưỡng chế đó đã chứa
đựng những nội dung mới, khác với cưỡng chế trong các kiểu pháp luật bóc lột. Do nội dung của pháp
luật xã hội chủ nghĩa phù hợp với ý chí, lợi ích của nhân dân nên có điều kiện được người dân thực hiện
một cách tự giác. Các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với những người vi phạm pháp luật trên cơ
sở kết hợp giáo dục , thuyết phục , thu hút sự tham gia của xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống các vi
phạm pháp luật, giúp đỡ những người vi phạm pháp luật trở thành các công dân tốt cho xã hội.
Các biện pháp cưỡng chế nhà nước có mục đích xử lý nghiêm minh những người có hành vi vi
phạm pháp luật, giáo dục, cải tạo họ thành những người lao động lương thiện. Các biện pháp cưỡng chế
nhà nước được áp dụng không nhằm mục đích gây đau đớn, dày vò về thể xác, xúcphạm đến nhân phẩm,
danh dự của con người. Hiệu quả áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong pháp luật không chỉ phụ thuộc
vào chính bản thân các biện pháp đó mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác
như tính hợp lý, mức độ răn đe, công tác giáo dục đạo đức, pháp luật, dư luận xã hội. Cần thường xuyên
thăm dò, nghiên cứu dư luận xã hội về việc áp dụng các chế tài xử lý vi phạm để từ đó có sự thay đổi, bổ
sung cho phù hợp.
4. Cơ sở đạo đức và tính dân tộc của pháp luật Việt Nam
Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa thể hiện tính dân tộc sâu sắc có mối quan hệ mật thiết
với văn hoá, đạo đức, phong tục, tập quán.
- Đạo đức truyền thống dân tộc và những giá trị, nguyên tắc đạo đức tiến bộ nhân loại là cơ sở
của pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về cơ bản, giữa chúng không có sự đối lập nào. Các tư tưởng
và qui tắc đạo đức tiến bộ luôn là cơ sở cho pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đến lượt mình, pháp luật lại củng
cố và truyền bá các giá trị đạo đức đó Từ Hiến pháp đến các văn bản pháp luật khác đều ghi nhận, bảo vệ

các quan điểm, chuẩn mực đạo đức truyền thống .
18
Xu hướng chung là pháp luật nước ta càng ghi nhận nhiều hơn các quy tắc đạo đức . xử Sự theo
những quan điểm, chuẩn mực đạo đức truyền thống dân tộc đã được Bộ Luật Dân sự ghi nhận thành
nguyên tắc pháp lý mà các chủ thể phải tuân theo trong các giao dịch dân sự:
+Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội ;
+ Tự nguyện , bình đẳng , thiện chí, hợp tác , trung thực và ngay thẳng. . .
-Tương tự, trong các quan hệ lao động, Bộ luật lao động cũng quy định nghĩa vụ tôn trọng danh
dự, nhân phẩm, tính trung thực giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Pháp luật chỉ có thể thực hiện được vai trò là phương tiện điều chỉnh hàng đầu nếu như có sự hỗ
trợ của các quy phạm xã hội khác, đặc biệt là đạo đức truyền thống và đạo đức tiến bộ. Các nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức luôn là tiêu chí tác động đến nội dung của các quy phạm pháp luật,được tính đến khi
xem xét các vấn đề pháp lý và ngược lại :trong từng vấn đề của đạo đức đều phải xem xét cả về phương
diện pháp lý.
Đồng thời pháp luật còn có mối quan hệ mật thiết với các loại quy tắc xã hội khác như phong tục,
tập quán, truyền thống. Khi áp dụng pháp luật, muốn được công bằng và đầy đủ, cần phải được bổ sung
bằng tục lệ,tập quán. Pháp luật Việt Nam bảo vệ những phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, đồng thời cũng có những quy định nhằm ngăn cản, hạn chế và loại trừ dần những tập tục lạc hậu,
phản tiến bộ như tệ đa thê, tảo hôn, nghi là ma lai…
5.Pháp luật là hình thức thể hiện đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam .
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với tiến trình phát triển của xã hội chỉ có thể đợc thực hiện thôngqua nhà nớc bằng một hệ
thống pháp luật. Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước ta có nhiệm vụ thể chế hoá thành
các quy định pháp luật để đưa đường lối đó vào cuộc sống.
6. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng.
- Các nền pháp luật trước như chủ nô, phong kiến có phạm vi điều chỉnh hẹp, tập trung chủ yếu
vào các lĩnh vực hành chính - chính trị với mục đích bảo vệ, củng cố nền thống trị của thiểu số giai cấp
bóc lột, duy trì sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Pháp luật của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay có phạm vi điều chỉnh

rộng; không những chỉ quy định về tổ chức bộ máy và hoạt động của các cơ quan nhà nước mà còn quy
định các quyền và nghĩa vụ công dân trong tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội, quy định những vấn đề
về quản lý lao động, kiểm tra, thống kê. Nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội mới xuất hiện đã kịp thời có các
văn bản pháp luật điều chỉnh như về bảo vệ môi trường, thị trườngchứng khoán, các quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài v.v. . .
3. Câu hỏi: Trình bày nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phôí
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nguyên tắc này được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) như thế
nào?
Trả lời:
1. Quan niệm về quyền lực nhà nước
Với nghĩa chung nhất, quyền lực mà cái mà nhờ đó buộc người khác phải phục tùng, là khả năng
thực hiện ý chí của mình trong quan hệ với người khác.
Trong xã hội, quyền lực có nhiều loại khác nhau: quyền lực đạo đức, quyền lực tôn giáo,
quyền lực dòng họ, quyền lực kinh tế…Trong số nhiều loại quyền lực đồng thời tồn tại, đan xen thâm
nhập và ảnh hưởng lẫn nhau tạo thành chỉnh thể của quyền lực trong xã hội, đáng chú ý nhất là quyền
lực công(quyền lực xã hội) và quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị là một bộ phận của quyền lực trong xã hội, và bao giờ cũng mang tính
giai cấp. Trong quan hệ nội bộ của giai cấp hoặc liên minh giai cấp, quyền lực chính trị có thể chứa đựng
những mâu thuẫn, thậm chí cả những đối kháng, nhưng trong quan hệ với bên ngoài nó thường thống
nhất về cơ bản.
Trong xã hội hiện đại, bên cạnh quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền còn tồn tại
quyền lực chính trị và yêu cầu quyền lực chính trị của giai cấp, tầng lớp khác.
Quyền lực chính trị của giai cấp nắm quyền còn được tổ chức thành nhà nước.
Do vậy, xét về bản chất, quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị và nó được
thực hiện bằng cả một hệ thống chuyên chính do giai cấp đó lập ra.
19
Một trong những điểm phân biệt quyền lực nhà nước vơí các loại quyền lực khác là ở chỗ,
quyền lực nhà nước được tổ chức thành cả một hệ thống thiết chế và có khả năng sử dụng các công
cụ của nhà nước để buộc các giai cấp, tầng lớp khác phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.

Chính do phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực và do tính chất công quyền của quyền lực
nhà nước, nên các giai cấp, các lực lượng chính trị trong xã hội luôn hướng tới quyền lực nhà nước nhằm
giành, giữ, sử dụng hoặc chi phối quyền lực nhà nước. Chính vì thế mà quyền lực nhà nước là trung tâm
của quyền lực chính trị.
2. Mấy nét về thuyết phân quyền
Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người tư tưởng phân quyền đã được thể
hiện qua các tác phẩm của các nhà tưởng từ thời cổ đại đến trung, cận đại. Tuy nhiên, tư tưởng phân
quyền thể hiện rõ nét trong tác phẩm của các nhà tư tưởng Tây Âu vào thế kỷ 17-18.
Vào thế kỷ 16-17 thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển nhanh chóng trong nền kinh tế
các nước đã thúc đẩy sự tan rã tiếp tục của chế độ phong kiến. Cùng với sự phát triển của các thuyết về
kinh tế; các học thuyết về pháp luật cũng phát triển mạnh và đóng góp vai trò to lớn của phát triển t ư duy
chính trị thời kỳ đó. Thuyết pháp luật tự nhiên đã tách lý luận về nhà nước và pháp luật ra khỏi thần học
và phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến.
Người phát triển một cách toàn diện thuyết phân quyền là nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp
S. Montesquieu(1689-1775).Vì vậy, mà ngày nay người ta thường gắn tên tuổi của S. Montesqieu
với thuyết" tam quyền phân lập".
Montesqieu kịch liệt phê phán chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp thời bấy giờ, lên án việc Vua
nắm toàn bộ quyền lực trong tay dẫn tới chỗ độc đoán, lạm quyền, tuỳ tiện: quyền lực nhà vua và thậm
chí bao trùm cả khối óc của thần dân, bắt thần dân phải nghĩ những gì có lợi cho vua. Chủ nghĩa cực
quyền không thể dung hoà với tự do, vì vậy theo Montesqieu, cần phải xoá bỏ chủ nghĩa cực quyền. Ông
cho rằng chính thể cộng hoà có tính ưu việt nhưng ông vẫn đề cao chính thể quân chủ lập hiến. Hình thức
nhà nước là cái quyết định nội dung của luật và hệ thống luật lệ.
Để đạt được mục tiêu đó, theo Montésqieu cần phải có sự phân quyền: quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này hạn chế lẫn nhau, đối trọng vơí nhau và thuộc về
các cơ quan khác nhau.
*Ông kêu gọi thành lập cơ quan đại diện của nhân dân để hạn chế quyền lực của nhà vua. Nếu cả
ba quyền đều nằm trong tay vua tất yếu sẽ nảy sinh ra sự lạm quyền, chuyên chế, độc đoán.
* Nếu như quyền lập pháp và hành pháp nằm trong tay một người, hoặc một cơ quan thì sự tự do
sẽ không có bởi vì sẽ có nguy cơ ông Vua hay nghị sĩ nào đó sẽ ban hành các đạo luật tàn bạo sẽ rồi áp
dụng các đạo luật đó cũng theo kiểu tàn bạo.

*Nếu như quyền tư pháp gắn với quyền lập pháp thì cuộc sống và tự do của công dân sẽ đặt dới
sự tuỳ tiện bởi vì quan toà chính là người làm luật
*Nếu như quyền tư pháp gắn với quyền hành pháp thì quan toà sẽ trở thành kẻ áp bức.
Và sự tự do của công dân sẽ không thể có được nếu như cả ba quyền rơi vào tay một người. Do
vậy muốn đảm bảo tự do, theo Montesqieu, ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp phải thuộc
về ba cơ quan khác nhau:
* Quyền lập pháp hoàn toàn thuộc về nghị viện- cơ quan đại diện của nhân dân được lập ra qua
phổ thông đầu phiếu;
*Quyền hành pháp thực hiện pháp luật, chấp hành pháp luật-thuộc về Chính phủ(cũng có
thể thuộc về vua trong chính thể lập hiến);
*Quyền tư pháp-quyền xét xử những vi phạm pháp luật, tội phạm, những tranh chấp, xung
đột trong xã hội-thuộc về toà án(toà dự thẩm hay các toà có sự tham gia của nhân dân).
Sơ đồ của Montesqieu loại trừ sự lập ra một cơ quan đứng trên "ba quyền", phản ánh cách tiếp
cận về pháp lý - tổ chức tới sự phân quyền và thoạt nhìn, dường như không đặt vấn đề về bản chất xã hội
của nhà nước và quyền lực nhà nước. Tuy nhiên trên thực tế nó củng cố địa vị của giai cấp tư sản non trẻ
trong bộ máy nhà nước, trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước.
Thuyết phân quyền của Montesqieu ảnh hưởng nhiều tới các quan niệm sau này về chế độ nhà
nước, tới các quá trình lập hiến của các nhà nước tư sản và thực tiễn pháp luật- nhà nước ở nhiều nước.
Tư tưởng của Montesqieu về thành lập cơ quan đại diện của nhân dân đã chĩa mũi nhọn chống lại chế độ
chuyên chế và sau này đã được ghi nhận trong Điều 16"Tuyên ngôn về các quyền của con người và của
công dân" năm 1789:"Một xã hội trong đó không bảo đảm việc sử dụng các quyền và không thực hiện sự
20
phân quyền thì không có hiến pháp". Tư tưởng của ông đã được vận dụng khi xây dựng Hiến pháp của
Pháp năm 1789 và thể hiện rõ nét trong Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787.
3. NGUYÊN TẮC PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TƯ SẢN
Chính thuyết "tam quyền phân lập" đã đưa ra mô hình cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước.
Với, nội dung của mỗi"quyền" và việc thực hiện các "quyền", mối quan hệ qua lại giữa các "quyền".
Như thế nào?
Nếu nói một cách khái quát nhất, theo nguyên tắc phân quyền thì sự phân bố quyền lực
giữa các cơ quan nhà nước phải bảo đảm sao cho không có cơ quan nào nắm trọn vẹn quyền lực

nhà nước trong tay mình, đồng thời không có cơ quan nào không bị ràng buộc bởi pháp luật,
không cơ quan nào nằm ngoài sự giám sát, kiểm tra từ phía các cơ quan khác.
1. Quyền lập pháp
Theo thuyết tam quyền phân lập thì quyền lập pháp thuộc về nghị viện(Quốc hội)- cơ quan đại
diện của nhân dân, được lập ra qua phổ thông đầu phiếu.
Lập pháp tức là làm ra luật. Luật là hình thức cao nhất của việc thực hiện quyền lực nhà nước,
không chỉ vì hiệu lực pháp lý của nó mà còn vì sự uỷ quyền pháp lý-luật do chính những đại biểu do nhân
dân bầu ra.
Nếu quan niệm luật là ý chí của nhà nước được nâng lên thành luật thì ý chí ở đây là ý chí của cơ
quan đại diện cho nhân dân, suy cho cùng là chính ý chí của nhân dân vì thông qua bầu cử nhân dân đã
thể hiện ý chí của mình, đã uỷ quyền cho những đại diện của mình.
Nhiều khi ý chí của nhân dân cũng được biểu thị một cách trực tiếp khi thông qua đạo luật cơ
bản(Hiến pháp) nhiều khi người ta đã phải dùng tới hình thức trng cầu ý kiến của nhân dân.
Giới hạn, phạm vi của quyền lập pháp phải do híên pháp quy định. Như vậy hiến pháp thể hiện
tính tôí cao, hiệu lực cao nhất của đạo luật cơ bản: cơ quan lập pháp hoạt động trong khuôn khổ mà
hiến pháp quy định- các đạo luật khác do cơ quan lập pháp thông qua đều phải phù hợp với hiến
pháp.
Cơ quan lập pháp, ở phạm vi hiến pháp cho phép, có thể tự nguyện trao một số quyền nào đó
của mình cho các cơ quan khác, cụ thể là có thể trao quyền cho cơ quan hành pháp.
Tuy nhiên kinh nghiệm lịch sử cũng chỉ ra rằng nhiều khi hành pháp lấn át quyền lập pháp, cũng
có khi cơ quan lập pháp tự trốn tránh trách nhiệm của mình. Cơ quan lập pháp thông qua luật mà đã là
luật thì phải có tính khái quát cao nên không ít đạo luật muốn đi vào cuộc sống cần phải nhờ tới các văn
bản dới luật- các văn bản hướng dẫn thi hành của cơ quan hành pháp. Và cũng có khi chính các văn bản
dới luật đó có những quy định trái với những quy định của luật. Điều quan trọng cần phải cú ý là ngay sự
uỷ quyền của cơ quan lập pháp cho cơ quan hành pháp cũng phải được thể hiện trong văn bản luật.
Tuy nhiên các nhà khoa học cũng nhấn mạnh rằng các đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành cần
phải là các văn bản quy phạm có hiệu lực trực tiếp, tác động trực tiếp đến các chủ thể tới các chủ thể quan
hệ pháp luật, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể, không cần phải có các văn bản hướng dẫn thi
hành trừ những trường hợp quá chi tiết về kỹ thuật (như những thông số về an toàn lao động, chất lượng
sản phẩm…).

Trong làm luật của cơ quan lập pháp phải chú ý đến việc tuân thủ thẩm quyền và trình tự lập
pháp. Thẩm quyền được hiểu là chỉ có những người được nhân dân uỷ quyền mới có thẩm quyền lập
pháp, đồng thời cơ quan được uỷ quyền không được lẩn tránh trách nhiệm được giao. Nói một cách khác,
ngoài cơ quan lập pháp ra không có cơ quan nào có quyền làm luật và khi các quan hệ xã hội cần tới sự
điều chỉnh bằng các đạo luật cụ thể thì cơ quan lập pháp phải đáp ứng yêu cầu đó, không thể lẩn tránh và
" uỷ quyền lại" cho cơ quan khác. Thí dụ, cho cơ quan hành pháp để rồi các quan hệ đó được điều chỉnh
bằng các văn bản dưới luật.
Trình tự lập pháp được hiểu đó là quy trình làm luật trong đó phải bảo đảm được việc thu hút các
chuyên gia vào hoạt động xây dựng pháp luật, cần tham khảo ý kiến của những người có thể có quyền và
lợi ích bị xâm hại bởi văn bản luật đang được soạn thảo.
Theo tinh thần của thuyết khế ước xã hội của Rousseau, hiến pháp và các đạo luật có thể đ-
ược hiểu là các khế ước xã hội của xã hội công dân. Việc bầu ra đại diện của nhân dân, thành lập ra cơ
quan lập pháp cũng có thể coi là một dạng của khế ước. Do vậy xã hội công dân có thể huỷ bỏ khế ước
của mình và lập ra khế ước khác.
Các văn bản quy phạm do cơ quan lập pháp thông qua cũng phải chịu sự kiểm tra thường xuyên.
Mọi văn bản sai trái, mọi vi phạm từ phía cơ quan lập pháp đều có thể dẫn dến sự vô hiệu của văn bản.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản và thông thường được thông qua trưng cầu dân ý nên việc kiểm tra
sự tuân thủ hiến pháp cũng được giao cho một cơ quan đặc biệt: toà án hiến pháp. Sự kiểm tra có thể đ-
21
ược hiểu ở phạm vi rộng hơn- người đặt vấn đề kiểm tra một văn bản pháp luật nào đó không chỉ là các
cơ quan nhà nước, những người có chức vụ mà là chính những công dân có những quyền và nghĩa vụ có
liên quan.
2.Quyền hành pháp
Quyền hành pháp chính là quyền thi hành pháp luật, cơ quan thực hiện quyền hành pháp (cơ
quan hành pháp) tức là cơ quan thừa hành sự uỷ quyền từ phía cơ quan khác-cơ quan lập pháp.
- Đã là hành vi được thực hiện theo sự uỷ quyền thì không thể vượt ra khỏi phạm vi, giới hạn đợc
uỷ quyền. Nếu như quyền của cơ quan lập pháp là quyền phái sinh từ cử tri thì quyền hành pháp phái sịnh
từ cơ quan lập pháp.
-Nếu xét từ phương diện quyền lực thì quyền hành pháp không phải là quyền lực độc lập, mà là
quyền lực chấp hành, hoạt động của nó không phải do chính nó tự đề ra.

-Hoạt động của cơ quan hành pháp luôn trực tiếp động chạm tới quyền của công dân cho nên hoạt
động đó phải thực hiện trên cơ sở có sự uỷ quyền, sự tán thành của cơ quan lập pháp- cơ quan đại diện
của nhân dân.
+ Sự tán thành đó phải đợc biểu thị dới hình thức luật. Điều đó có nghĩa là mọi hành vi của cơ
quan hành pháp có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của công dân đều dựa trên cơ sở luật.
+ Nội dung các quyết định pháp lý và hành vi cụ thể của cơ quan hành pháp đều phải do luật điều
chỉnh. Nếu như đối với công dân(và cả các cơ sở sản xuất kinh doanh, đơn vị kinh tế) đợc áp dụng
nguyên tắc"có thể làm tất cả những gì mà luật không cấm" thì đối vơí các cơ quan hành pháp, đặc biệt là
những ngời có chức vụ trong hệ thống cơ quan hành pháp phải triệt để tuân thủ nguyên tắc" chỉ đ ược làm
những gì mà luật cho phép", vì sự uỷ quyền(cho phép) là có giới hạn, đề phòng mọi khả năng lạm quyền,
tuỳ tiện.
+Mỗi khi có sự vi phạm, làm tổn hại tới quyền và lợi ích của công dân thì cơ quan hay cá nhân
những nhân viên làm việc trong hệ thống cơ quan hành pháp thì ai sẽ chịu trách nhiệm? Có quan điểm
cho rằng cá nhân những nhân viên đã gây thiệt hại cho công dân phải chịu trách nhiệm trước người bị hại.
Song vấn đề lại là ở chỗ nếu không nhân danh cơ quan hành pháp thì những nhân viên cụ thể đã không
có hành động làm tổn hại tới quyền và lợi ích công dân (bởi vì họ làm việc không nhân danh cá nhân
mình). Do vậy, trước công dân(người có quyền và lợi ích bị xâm hại) thì chính cơ quan thực thi pháp luật
phải bồi thường thiệt hại. Thẩm quyền xem xét vấn đề này trong trường hợp có sự tranh chấp thuộc về cơ
quan tư pháp(cụ thể là toà án hành chính).
3.Quyền tư pháp
Theo thuyêt "tam quyền phân lập", muốn thực hiện tư tưởng về sự kiềm chế, đối trọng giữa
ba quyền thì quyền tư pháp phải thực hiện chức năng kiểm tra đối với hoạt động của quyền lập pháp
và hành pháp.
Sự kiểm tra đó là sát sao, những vi phạm từ phía cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, những ng-
ười có chức vụ và mọi công dân đều phải xem xét công minh, "đúng người , đúng tội" trên cơ sở luật.
Chính vì lẽ đó mà người đời xưa đã đưa ra biểu tượng của quan toà: nữ thần bịt mắt bằng vải
đen(phải coi trọng nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật), một tay cầm kiếm(hình phạt do
luật định), một tay cầm chiếc cân(cán cân công lý, xét xử công minh, khách quan, không vị nể, trước khi
dùng hình phạt cần phải cân nhắc kỹ, xem xét toàn diện…) .Không thể chỉ quan niệm về quan toà như
người chỉ áp dụng hình phạt. Việc áp dụng chế taì trong hoạt động xét xử của cơ quan tư pháp không

phải là mục đích tự thân của"quyền tư pháp". Ap dụng chế tài đối với kẻ phạm tội, với những hành vi vi
phạm pháp luật cũng chính là bảo vệ những người có quyền và lợi ích bị xâm hại, chính là để đảm bảo
trật tự pháp luật, bảo vệ sự tự do của mọi công dân. Theo Monterqieu, sự tự do ở đây không có nghĩa
là có thể làm những gì mà mình muốn và cũng không có nghĩa là buộc phải làm những gì mà mình không
muốn. Nếu một người công dân có thể làm những điều mà luật cấm thì người công dân đó sẽ không có tự
do bởi vì các công dân khác cũng có thể làm nh vậy. Tự do có nghĩa là quyền được làm tất cả những gì
mà luật không cấm.
Như vậy, trong hệ thống phân quyền, cơ quan tư pháp có vị trí đặc biệt.
Một mặt, cơ quan này bảo đảm sự vận hành của cơ chế loại trừ sự can thiệp của cơ quan lập pháp
vào công việc thuộc chức năng của cơ quan hành pháp đồng thời loại trừ việc cơ quan hành pháp lấn át
quyền lập pháp.
Mặt khác, nếu như chính cơ quan tư pháp vi phạm quyền của công dân thì cơ quan lập pháp và
cơ quan hành pháp lại dùng cơ chế của mình để bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân.
Cơ quan tư pháp(các toà án) chỉ có thể hoạt động có hiệu quả, thực hiện tốt chức năng của mình
nếu như các thẩm phán có sự độc lập thực sự. Muốn có sự độc lập thực sự, thẩm phán trước hết phải là
22
người độc lập trong mối quan hệ vơí các cơ quan lập pháp và hành pháp. Khi một thẩm phán buộc phải là
người phụ thuộc(kể cả về tịnh thần và vật chất), buộc phải là người "cầu xét" cơ quan lập pháp hay hành
pháp (chế độ lương, đãi ngộ…) thì khó có thể nói đến sự độc lập thực sự. Sự độc lập của các thẩm phán
phải được củng cố bằng sự độc lập của các toà án.
Khi bảo vệ các quyền, tự do của công dân, ngoaì việc tuân thủ những quy định của luật"vật chất",
toà án phải triệt để tuân thủ những quy định của luật tố tụng. Bất kỳ sự vi phạm nào về tố tụng đều dẫn
đến sự vô hiệu của quyết định. Đó cũng chính là yêu cầu bảo vệ công dân một cách tối ưu trước chính
quyền nhà nước, trước cơ quan tư pháp (bởi vì sau quyết định của toà án, người bị oan chỉ còn cách cầu
xin khoan hồng độ lượng, chứ không có hình thức bảo vệ nào khác về mặt pháp luật
4. NGUYÊN TẮC QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC LÀ THỐNG NHẤT:
- Quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất thể hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chủ
thể cao nhất thực hiện quyền lực nhà nước. Đây là quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo , tổ chức và hoạt

động của nhà nước ta không theo nguyên tắc phân chia quyền lực như ở nhiều quốc gia khác. Đồng thời
quan điểm này cũng thể hiện sự tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong học thuyết và thực tiễn áp dụng
phân chia quyền lực ở các quốc gia khác.
Trong lần sửa đổi một số điều của Hiến pháp 1992 đã thể hiện một bước tiến trong việc nhận thức
và thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Sự phân công rành mạch, xác định rõ chức năng, quyền hạn,
nhiệm vụ, trách nhiệm của từng loại cơ quan nhà nước và cơ chế phối hợp chính là điều kiện cốt yếu để
đảm bảo thống nhất quyền lực nhà nước.
"…Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giưã các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp"(Điều 2 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2001)
- Quốc hội
Điều 83 Hiến pháp 1992( đã được sửa đổi , bổ sung năm 2001) ghi nhận: " Quốc hội là cơ
quan đại biêủ cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam".
+ Cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân: Quốc hội do nhân dân cả nước bầu ra theo chế độ bầu
cử phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
+Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất- Quốc hội có những chức năng sau:
-Lập hiến và lập pháp;
-Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước;
- Quốc hội quyết định những vấn đề hệ trọng nhất của đất nước, quyết định những chính sách cơ
bản về đối ngoại và đối nội, nhiệm vụ kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên
tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt dộng của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Điều 83 Hiến pháp 1992( đã được sửa đổi , bổ sung năm 2001) ghi nhận: " Quốc hội là cơ quan đại biêủ
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam".
+ Cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân: Quốc hội do nhân dân cả nước bầu ra theo chế độ bầu
cử phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Địa vị pháp lý của Quốc hội thể hiện thông qua mối quan hệ với các cơ quan nhà nước
khác: Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC. Quan hệ đó thể hiện qua:

+ Xét báo cáo họat động của Chủ tịch nước,UBTVQH, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC.
+ Quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC và chính
quyền địa phương;
+ Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC trái với
Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội…
Quốc hội hoạt động thông qua hình thức: kỳ họp của Quốc hội; hoạt động của UBTVQH, của Hội
đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội.
Để bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất cần phải nâng cao chất lượng các hình thức hoạt động của Quốc hội:
Trước hết là: " Đổi mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp, ban hành các luật cần thiết để
điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về quyền công dân và
các luật điều chỉnh công cuộc cải cách bộ máy nhà nước, các luật điều chỉnh các hoạt động văn hoá ,
23
thông tin…,đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc
hội…,phân định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau giữa hoạt động giám sát của
Quốc hội…với hoạt động kiểm tra , thanh tra, kiểm sát của các cơ quan và tổ chức khác"
- Chính phủ
Địa vị pháp lý của Chính phủ được xác lập trên cơ sở các quy định tại Hiến pháp năm
1992(đã được sửa đổi bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức Chính phủ năm 2001.
Theo Điều 109 HP 1992"Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" . Với vị trí như vậy Chính phủ
có hai tư cách:
+ Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ phải chấp hành HP, Luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và tổ chức thực hiện các
văn bản pháp luật đó;
+ Là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Chính phủ có toàn quyền giải quyết các vấn đề quản lý trên phạm vi toàn quốc, trừ những vấn đề thuộc
thẩm quyền giải quyết của Quốc hội, UBTVQH và Chủ tịch nước.
Chính phủ được lập ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội:
+ Trong kỳ họp này Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ từ số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị

của Chủ tịch nước;
+Phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng danh sách các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và và các
thành viên khác của Chính phủ trước Thủ tướng.
Với phương thức thiết lập Chính phủ như vậy nhằm:
+ Xác định rõ vai trò của tập thể Chính phủ trước Quốc hội,
+ Đồng thời xác định rõ vai trò, trách nhiệm của cá nhân Thủ tướng trước Quốc hội;
+ Trách nhiệm của các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ
trước Thủ tướng,
+ Trách nhiệm của Bộ trưởng và các thành viên của Chính phủ về ngành, lĩnh vực do mình phụ
trách.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, UBTVQH,Chủ
tịch nước.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ chịu sự giám sát của
Quốc hội , UBTVQH trực tiếp hoặc thông qua sự giám sát của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc
hội. Trong các kỳ họp của Quốc hội, Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ phải trả lời chất vấn của
các đại biểu Quốc hội.
Về cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các Bộ , cơ quan ngang Bộ- Các cơ quan của Chính phủ do
Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, sáp nhập theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Thành phần của Chính phủ gồm: Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và
các thành viên khác của Chính phủ.
Các hình thức hoạt động của Chính phủ gồm:
-Hình thức hoạt động cuả tập thể Chính phủ là phiên họp của Chính
Phủ. Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết
định theo đa số tại các phiên họp của Chính phủ bao gồm:
+Chương trình hoạt động hàng năm của Chính phủ;
+Những dự án luật trình trước Quốc hội, những dự án pháp lệnh trình trước UBTVQH; những dự
án và kế hoạch ngân sách;
+Những chính sách cụ thể về phát triển kinh tế- xã hội;
+Các vấn đề quan trọng về quốc phòng, an ninh, đôí ngoại;

+Các dự án trình Quốc hội về việc thành lập, sáp nhập, giải thể các Bộ, cơ quan ngang Bộ;
+Việc thành lập mới, nhập, tách,điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, quyết định thành lập, sáp nhập , giải thể cơ quan thuộc Chính phủ;
+Các báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nước.
-Sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ-
những người giúp Thủ tướng thực hiện nhiệm vụ của Thủ tướng theo msự phân công của Thủ tướng. Khi
Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng uỷ nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của
Thủ tướng.
24
-Sự hoạt động của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với tư cách là thành viên của
Chính phủ tham gia giải quyết các công viẹc chung của Chính phủ với tư cách là người đứng đầu Bộ, cơ
quan ngang Bộ chịu trách nhiệm mọi mặt về ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.
Hiệu quả hoạt động của Chính phủ là kết quả tuỳ thuộc vào hiệu quả các hình thức hoạt động của
Chính phủ.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ
-Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, UBND
các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ
sở; hướng dẫn , kiểm tra HĐND thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để
HĐND thực hiện nhiệm vụ , quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ
viên chức nhà nước;
-Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp
luật trong nhân dân;
-Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và UBTVQH;
Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài
chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển
văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện phát triển kinh tế- xã hội và ngân sách nhà
nước.
-Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho
công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của nhà nước và của xã

hội; bảo vệ môi trường;
-Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo đảm an ninh quốc gia
và trật tự an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố
tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước;
-Tổ chưc và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra
Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân;
-Thống nhất quản lý công tác đối ngoại, đàm phán , ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước,
trừ trường hợp quy định tại điểm 10 Điều 103; đàm phán ký kết, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế
nhân danh Chính phủ. Chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc gia nhập; bảo
vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và của công dân Việt Nam ở nước ngoài;
-Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo;
-Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương;
-Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ(Điều 114 HP 1992)
-Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, UBND các cấp; chủ toạ các phiên
họp của Chính phủ;
-Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, cơ quan ngang Bộ; trình Quốc hội phê chuẩn đề
nghị về việc bổ nhiện, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng , các thành viên khác của Chính
phủ;
-Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu
cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các phó Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương;
-Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành
viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của UBND và Chủ tịch UBND cấp tỉnh trái với Hiến pháp,
luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên;
-Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái
với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị UBTVQH bãi bỏ;

-Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn
đề quan trọng mà Chính phủ đã giải quyết.
Trên cơ sở để thi hành Hiến pháp, luật,nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ ban hành quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó.
25

×