Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 112 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***



TRẦN THỊ THÙY DƢƠNG




BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG SINH THÁI
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. LÊ DANH TỐN






HÀ NỘI - 2008


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM CỦA
TRUNG QUỐC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ


5
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá……………………………………

5
1.1.1. Khái niệm và vai trò của môi trường sinh thái đối với sự phát triển bền
vững

5
1.1.2. Quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường sinh thái………
12
1.1.3. Nội dung, nguyên tắc, công cụ của bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá

20

1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá……………………………….

26
1.2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc hiện nay………………
26
1.2.2. Chiến lược bảo vệ môi trường của Trung Quốc
28
1.2.3. Triển vọng của chiến lược bảo vệ môi trường ở Trung Quốc
31
Chương 2. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VÀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN
ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM…………………………………………………


34
2.1. Thực trạng môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá

34
2.1.1. Tác động của sự phát triển các ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá đến môi trường sinh thái

35
2.1.2. Thực trạng môi trường sinh thái ở Việt Nam dưới tác động của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá……………………………………………….

51
2.2. Thực trạng hoạt động bảo vệ môi trường trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam


65
2.2.1. Những hoạt động bảo vệ môi trường
65
2.2.2. Đánh giá chung về thực trạng bảo vệ môi trường sinh thái và những vấn đề đặt
ra

72
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI




2
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT
NAM THỜI GIAN TỚI
82
3.1. Bối cảnh mới và tác động của nó đến bảo vệ môi trường sinh thái của Việt Nam trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

82
3.1.1. Bối cảnh Quốc tế………………………………………………………….
82
3.1.2. Bối cảnh trong nước
84
3.2. Quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá

85
3.2.1. Quan điểm

85
3.2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ
86
3.3. Các giải pháp chủ yếu bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá thời gian tới

91
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh
thái………………………………………………………

91
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách và tổ chức bộ máy quản lý môi trường sinh
thái………………………………………………………………

92
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn với bảo vệ môi trường sinh thái……………………

95
3.3.4. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục, đào tạo về bảo vệ môi
trường sinh thái……………………………………………
98
3.3.5. Mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường……………………
100
KẾT LUẬN
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
103






MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


3
Trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại của thế giới đang phát triển với nhịp độ ngày một nhanh, tạo ra
những thành tựu mang tính đột phá, làm thay đổi nhanh chóng, sâu sắc và quyết
định tới sự phát triển của kinh tế, xã hội và bản thân con người. Bên cạnh những
thành tựu rực rỡ về khoa học và công nghệ, loài người cũng đang phải đối mặt
với những thách thức lớn lao về chính trị, văn hoá, xã hội và đặc biệt là môi
trường.
Trong vài thập kỷ gần đây, do sức ép gắt gao về dân số và sự phát triển
kinh tế thiếu tính toán, các nguồn tài nguyên trên trái đất ngày càng cạn kiệt,
môi trường bị suy thoái nghiêm trọng, thậm chí một số vùng còn bị phá huỷ
hoàn toàn. Hàng loạt các vấn đề về môi trường như thay đổi khí hậu, suy thoái
tầng ôzôn, suy thoái đa dạng sinh học, suy giảm tài nguyên đất và nước ngọt…
đang là những thách thức đối với sự tồn tại của loài người và của trái đất, Việt
Nam cũng không đứng ngoài những thách thức đó.
Theo quan điểm phát triển bền vững, Việt Nam đang đứng trước những
thử thách lớn. Một đất nước nghèo, điểm xuất phát thấp, lại bị 2 cuộc chiến
tranh tàn phá, nền kinh tế và môi trường đã đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải
quyết. Tuy nhiên, nếu quá vội vàng trong việc áp dụng các giải pháp chính sách
đầu tư, đổi mới thiếu quy hoạch Kinh tế - xã hội và môi trường theo quan điểm
phát triển bền vững trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học và hệ thống thì tất
yếu sẽ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Hậu quả đó có thể có lợi cho kinh tế
trước mắt nhưng lại có hại lâu dài, nền kinh tế sẽ bị suy thoái khi phát triển quá

ngưỡng chịu đựng của môi trường.
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đất nước ta đã khởi sắc về kinh tế, đời sống nhân dân được nâng cao, nhận thức
về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đã có tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, tài
nguyên thiên nhiên nước ta đang được khai thác ngày càng mạnh mẽ và có xu
hướng cạn kiệt, môi trường thiên nhiên đang bị ô nhiễm. Vì vậy việc phân tích,
đánh giá và dự báo các tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi


4
trường của Việt nam, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính
sách bảo vệ môi trường mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Từ nhận thức trên, tôi chọn đề tài: “Bảo vệ môi trường sinh thái trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”. Để thực hiện luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề bảo vệ
môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm hướng
tới sự phát triển bền vững ở Việt Nam. Tiêu biểu là:
- Một số vấn đề bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế ở nước ta hiện
nay của TS. Nguyễn Văn Ngừng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
GS. TSKH Vũ Hy Chương, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2007.
- Chính sách công nghiệp định hướng phát triển bền vững, Bộ kế hoạch
và đầu tư, 11/ 2005.
- Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế của Trần Thanh Lâm, NXB
Lao động, Hà Nội, 2006.
- Phát triển nông thôn bền vững - những vấn đề lý luận và kinh nghiệm
Thế giới do TS. Trần Ngọc Ngoạn chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội,
2008.

- Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Phạm Khôi Nguyên, tạp chí Khoa học
Xã hội Việt Nam, 4/ 2006.
- Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường ở Việt Nam của PGS. TS. Nguyễn Thế Chinh, Tạp chí Phát triển bền
vững, số 4 (13) tháng 12/2006.
- Giải quyết tốt các vấn đề môi trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế của TS. Đoàn Văn Khải, Tạp chí Lý luận chính trị, 10/ 2007.
Hầu hết các công trình nói trên đều nghiên cứu môi trường sinh thái dưới
góc độ của Khoa học Môi trường và Khoa học phát triển mà chưa nghiên cứu


5
tập trung và hệ thống tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá tới môi trường
sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam dưới góc độ của Khoa học Kinh tế chính trị. Đây là lý do
chủ yếu để tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Bảo vệ môi trường sinh thái trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” làm luận văn Thạc sỹ
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu các tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến
môi trường sinh thái, phân tích, đánh giá thực trạng bảo vệ môi trường sinh thái
ở Việt Nam thời gian qua, luận văn đề xuất hệ thống giải pháp nhằm bảo vệ môi
trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thời
gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ mối quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường
sinh thái.
- Phân tích kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề

môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phân tích thực trạng môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm bảo vệ môi trường trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong những năm gần đây dưới góc độ của
khoa học kinh tế chính trị.


6
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời kết hợp một số phương pháp cụ thể khác
như: Trừu tượng hoá khoa học, phân tích, tổng hợp, logic và lịch sử, so sánh,
thống kê
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá, phân tích và góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo
vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
- Phân tích đánh giá thực trạng môi trường và bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
- Đưa ra quan điểm định hướng và đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi
trường sinh thái trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm của Trung Quốc
về bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương 2: Thực trạng môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo vệ môi trường sinh thái trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thời gian tới.


7
Chương1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM
CỦA TRUNG QUỐC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Khái niệm và vai trò của môi trường sinh thái đối với sự phát triển bền vững
1.1.1.1. Khái niệm và chức năng của môi trường sinh thái.
Từ khi cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất nổ ra, các nước Châu Âu đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, nhất là trong những thế kỷ thực hiện công
nghiệp hoá. Họ khai thác mạnh tài nguyên trong nước để mở mang công nghiệp
và phát triển kinh tế, cho đến nay sau hơn 300 năm, thế giới đã hình thành một
cục diện phát triển không đồng đều, chia thành hai nhóm nước chủ yếu: những
nước công nghiệp, hay còn gọi là những nước phát triển, nước giàu; và những
nước đang phát triển, nói chung là những nước nghèo. Nhưng dù là nước phát
triển hay đang phát triển, là nước giàu hay nước nghèo, một vấn đề chung đặt ra
hiện nay cho tất cả các nước là làm thế nào để có mối quan hệ hài hoà giữa tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Bởi vì, muốn tăng trưởng tất nhiên phải

khai thác, sử dụng nhiều tài nguyên và phát thải cũng nhiều hơn, tất nhiên là
không tránh được gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường. Tại các nước
đang phát triển, mối quan hệ giữa nghèo khổ và suy thoái môi trường đã tạo nên
một vòng luẩn quẩn vì còn sống dựa nhiều vào nguồn lợi thiên nhiên, lại bị hạn
chế nhiều bởi sự thiếu tri thức, thiếu vốn, thiếu công nghệ, năng suất lao động
thấp, sử dụng năng lượng và nguyên liệu với hiệu suất và hiệu quả thấp, tốn
nhiều tài nguyên và còn nhiều vấn đề môi trường không xử lý được… Thậm chí,
tại nhiều nơi, người dân vẫn còn phải tìm mọi cách để sống được bằng cách thức
đơn thuần là khai phá tài nguyên.


8
Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng vậy, cũng có
những yêu cầu tăng trưởng nhanh để cải thiện và nâng cao đời sống, nhưng cũng
nổi lên rất nhiều vấn đề về môi trường. Dường như càng phát triển kinh tế-xã
hội, càng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề môi trường càng trở
nên bức xúc gay gắt hơn. Kinh tế - xã hội càng phát triển lại càng thấy rõ sự liên
quan ràng buộc với điều kiện tự nhiên và môi trường. Một đòi hỏi tất yếu với
Việt Nam là phải giải quyết hài hoà vấn đề bảo vệ môi trường với yêu cầu tăng
trưởng kinh tế trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế -
xã hội, nhất là vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhiều báo cáo khoa học của các nước khác nhau đã nêu lên những vấn đề mới
trên phạm vi toàn cầu liên quan đến các cơ chế điều tiết của sinh quyển như: lỗ
hổng tầng ôzôn, hiệu ứng nhà kính, tính đa dạng sinh học bị suy giảm…Nhưng
đặc biệt các nhà khoa học chú ý đến là những vấn đề về sự biến đổi của môi
trường, nguồn sống của loài người đang dần bị cạn kiệt, môi trường sinh thái bị
huỷ hoại.
Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ
với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu.
Sự tương tác hoà đồng giữa các hệ thống của thiên nhiên tạo ra môi trường

tương đối ổn định. Sự rối loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ
gây ra hậu quả nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một
bộ phận của thiên nhiên. Hoạt động của con người và xã hội được xem là một
khâu, một yếu tố trong hệ thống, thông qua quá trình lao động, con người khai
thác bảo vệ bồi đắp cho thiên nhiên. "Môi trường bao gồm những yếu tố tự
nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản
xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật" [20, tr.5]. Theo Từ điển
Bách khoa Việt Nam thì môi trường sinh thái là tập hợp các điều kiện địa lý tự
nhiên của một vùng lãnh thổ có tác động trực tiếp đến mức sống của dân cư và
các chỉ tiêu kinh tế trong vùng lãnh thổ ấy.
Do sự phát triển của xã hội công nghiệp, môi trường tự nhiên bị đe doạ
nghiêm trọng, phá huỷ sự cân bằng sinh thái và để lại những hậu quả không


9
lường được. Tuỳ theo khả năng khoa- học kỹ thuật và kinh tế của sự thay đổi có
chủ đích mà các nhân tố của môi trường sinh thái với tính chất quy ước nào đó
được chia thành các nhân tố điều khiển được và những nhân tố không điều khiển
được. Các nhân tố điều khiển được đó là sự gây ô nhiễm bầu khí quyển, nguồn
nước và đất, sự xói mòn đất và sự huỷ diệt giới động vật và thực vật…Những
nhân tố không điều khiển được là loại đất, địa hình vùng, chế độ gió, chế độ
nhiệt, tình hình động đất trên lãnh thổ….việc tính đến của các nhân tố không
điều khiển được của môi trường cho phép xây dựng sát thực tế hơn các phương
án phát triển kinh tế chấp nhận được trên vùng lãnh thổ đã cho. Đối với các nhân
tố điều khiển được của môi trường tự nhiên cần có các thông tin kỹ thuật, kinh tế
và xã hội cần thiết mới có thể xác định được mục tiêu tối ưu của các phương án.
Bảo vệ môi trường sinh thái đã, đang và sẽ là vấn đề mang tính toàn cầu.
Nội dung cơ bản của bảo vệ môi trường là: Bảo vệ rừng và đảm bảo độ che phủ
trên lãnh thổ, chống ô nhiễm không khí, nước và đất, giải quyết và tận dụng các
phế thải, chống xói mòn, hoang mạc hoá đất đai, quản lý nơi cư trú cho các loài

sinh vật, bảo vệ và chống sự tiêu diệt các loài sinh vật quý hiếm, khai thác, sử
dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Môi trường tự nhiên trong quan hệ với đời sống của con người và sự phát
triển của xã hội loài người là một hệ thống tự nhiên co các chức năng sau:
- Môi trường là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên của
con người.
Trong hoạt động sống của mình, con người cần phải có một không gian
sống với đặc trưng về quy mô và chất lượng cho phép. Lịch sử loài người đã cho
thấy rõ là trong khi trái đất không thay đổi về độ lớn, nhưng dân số thế giới lại
không ngừng gia tăng. Vì vậy diện tích đất bình quân đầu người (không gian
sống) ngày càng chật hẹp và giảm sút nhanh chóng. Trước tình hình đó đã xuất
hiện quan điểm coi việc dân số gia tăng không kiềm chế được là cuộc khủng
hoảng chủ yếu mà nhân loại ngày nay phải đương đầu, là nguyên nhân chính của
nạn đói nghèo, lạc hậu, mức sống thấp, suy dinh dưỡng và bệnh tật, sự xuống


10
cấp của môi trường và một loạt các vấn đề xã hội khác. Bên cạnh đó sự phân bố
dân số không đồng đều trên thế giới càng làm gay gắt hơn về không gian sống ở
nơi mật độ dân số tập trung cao, đặc biệt là tại các thành phố lớn và các khu
công nghiệp tập trung của nhiều quốc gia.
- Môi trường là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối
tượng lao động sản xuất và các nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải
vật chất của loài người.
Từ thời nguyên thuỷ đến nay, để tồn tại và phát triển thì con người đã liên
tục khai thác và sử dụng ngày càng nhiều các nguồn tài nguyên vào hoạt động
sống của mình. Nguồn tài nguyên chứa trong môi trường rất đa dạng và phong
phú, nhưng không phải là vô tận. Sự khai thác quá mức đã làm cho nhiều nguồn
tài nguyên ở nhiều nơi bị cạn kiệt. Sự tăng cường thăm dò, khảo sát tài nguyên
thiên nhiên cùng với sự mở mang các vùng đất mới hoặc việc sử dụng những

công nghệ mới thay thế nguyên, nhiên, vật liệu… chính là những biện pháp tình
thế của con người hiện nay để bù đắp vào sự suy giảm chức năng của môi
trường mà nguyên nhân chính là do con người gây ra.
- Môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sinh hoạt trong cuộc
sống của con người và của quá trình sản xuất.
Trong sinh hoạt và hoạt động sản xuất xã hội, con người không ngừng
thải các loại chất khác nhau vào môi trường. Đồng thời quá trình này là quá trình
môi trường không ngừng phân huỷ, hấp thụ và trung hoà các chất thải để chúng
trở thành vô hại, ít gây độc nhờ các lực lượng tự nhiên (vật lý, hoá học, sinh
học…). Tuy nhiên, quá trình đó chỉ có thể được đảm bảo khi lượng chất thải vào
môi trường không lớn hơn khả năng hấp thụ của môi trường. Còn trong điều
kiện lượng chất thải vào môi trường lớn hơn khả năng hấp thụ của môi trường
hoặc có chất thải không thể phân huỷ tự nhiên hay có độc tính cao thì chức năng
này của môi trường sẽ bị vi phạm.
Tóm lại, mọi sự sống trên trái đất và mọi quá trình hoạt động của con
người đều được tiến hành trong môi trường, dựa vào môi trường và sử dụng các


11
yếu tố sẵn có của môi trường. Xuất phát từ những nhận thức đó, chúng ta khẳng
định môi trường có vai trò to lớn, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của
mọi loại sinh vật sống trên trái đất.


12
1.1.1.2. Vai trò của môi trường sinh thái đối với sự phát triển bền vững
Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất
và tinh thần của con người thông qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến
quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung của từng
cá nhân và cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển

có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát
triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có
lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó,
nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi
trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông
qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên đang là đối tượng của hoạt động phát
triển hoặc gây ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong
khu vực.
Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển.,
nhưng con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể đình chỉ tiến hoá
và ngừng sự phát triển của mình. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi
trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao cho phát triển
không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Phát triển bền vững là một
khái niệm mới nảy sinh từ sau cuộc khủng hoảng môi trường, do đó cho đến nay
chưa có một định nghĩa nào đầy đủ và thống nhất. Dưới đây là một số định
nghĩa về phát triển bền vững:
- Hội nghị môi trường toàn cầu Rio de Janerio (6/1992) đưa ra thuyết phát
triển bền vững; nghĩa là sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên,
bảo vệ Môi trường một cách khoa học đồng thời với sự phát triển kinh tế.
- Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích
kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của
những lợi ích tương tự trong tương lai [1, tr.23].


13
Định nghĩa này bao gồm hai nội dung then chốt: các nhu cầu của con
người và những giới hạn đối với khả năng của môi trường đáp ứng các nhu cầu
hiện tại và tương lai của con người.
- Phát triển bền vững là mô hình phát triển mới trên cơ sở ứng dụng hợp

lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của con
người thế hệ hiện nay mà không làm hại cho thế hệ mai sau [18, tr.17].
Tuy nhiên, định nghĩa được sử dụng nhiều hơn cả trong các nghiên cứu về
phát triển bền vững là định nghĩa của Uỷ ban Thế giới về Môi trường và Phát
triển(WCED) đưa ra năm 1987: "Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng
các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của
các thế hệ tương lai".
Định nghĩa này được mở rộng ra với ba cấu thành về sự phát triển bền
vững:
- Về kinh tế: Một hệ thống bền vững về kinh tế phải thể hiện ở sự tăng
trưởng và phát triển lành mạnh của tất cả các ngành kinh tế, đặc biệt là các
ngành kinh tế liên quan đến sử dụng tài nguyên thiên nhiên, có thể tạo ra hàng
hoá và dịch vụ một cách liên tục, với mức độ có thể kiểm soát của chính phủ về
nợ bên ngoài, tránh sự mất cân đối giữa các khu vực làm tổn hại đến mỗi ngành
sản xuất.
- Về xã hội: Hệ thống bền vững về mặt xã hội phải đạt được sự công bằng
trong phân phối, cung cấp đầy đủ các dịch vụ xã hội bao gồm y tế, giáo dục ,
công bằng giới tính, sự tham gia và trách nhiệm chính trị cho mọi người, đảm
bảo sức khoẻ, giảm đói nghèo, hạn chế các tệ nạn xã hội.
- Về môi trường: Hệ thống phát triển bền vững thể hiện ở sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên, duy trì một nền tảng nguồn lực ổn định, tránh khai thác
quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh hay những vận động tiềm ẩn của môi
trường. Việc khai thác các nguồn lực không thể tái tạo không được vượt quá
mức độ đầu tư cho sự thay thế một cách đầy đủ. Điều này bao gồm việc duy trì
đa dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái khác mà


14
thường không được coi như các nguồn lực kinh tế, hạn chế ô nhiễm môi trường,
có chính sách và kế hoạch hành động cải thiện môi trường. Như vậy, "Phát triển

bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ,
hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, đảm bảo tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường"
[20, tr.7].
Như vậy, bảo vệ môi trường là một trong ba thành tố hay trụ cột của phát
triển bền vững ở bất kỳ quốc gia nào trong thế giới đương đại và tương lai.
Trong thời đại ngày nay, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững không còn là
vấn đề riêng của một quốc gia, một khu vực, mà đã thực sự trở thành mối quan
tâm toàn cầu. Thực tế cho thấy tính nguy cấp, phức tạp và nan giải của các vấn
đề môi trường đang đòi hỏi chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá đúng đắn
vai trò của môi trường trong quá trình thực hiện phát triển bền vững.
Có thể nói, môi trường và phát triển bền vững là một vấn đề có tính cấp
thiết liên quan tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và xuyên suốt nhiều thời đại.
Quản lý môi trường, bảo vệ, cải thiện môi trường, sử dụng hợp lý các yếu tố môi
trường và các điều kiện thuận lợi của môi trường nhằm phục vụ sự tồn tại và
phát triển kinh tế - xã hội loài người là những nội dung quan trọng trong hoạt
động hiện nay và mai sau của toàn nhân loại.
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã đặt phát triển bền vững trên cơ sở
nâng cao, cải thiện chất lượng sống của con người theo phạm vi khả năng chịu
được của các hệ sinh thái. Đó là mục tiêu về phát triển bền vững, chỉ tiêu đánh
giá cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới.
Việt Nam đang thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trên quan điểm phát triển bền vững với mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, quan điểm
phát triển bền vững của Việt Nam đã được thể hiện rõ trong văn kiện đại hội
Đảng IX về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010, theo đó
phát triển bền vững của Việt Nam là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững,


15

tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường”, “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường,
bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ
gìn đa dạng sinh học” và “Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong
mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi
yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát
triển” .
1.1.2. Quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường sinh thái
1.1.2.1 . Khái niệm và nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Cho đến nay, chúng ta có thể khẳng định rằng, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là phương thức hữu hiệu làm thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế - xã hội của
các nước đang phát triển. Việc thực hiện có kết quả quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trước hết sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về trình độ lực lượng sản
xuất, từ công cụ lao động, phương tiện sản xuất đến yếu tố người lao động, thay
vào đó là những công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,
đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động xã hội, hình thành cơ cấu kinh
tế hợp lý, nhờ vậy năng lực sản xuất tăng lên, kinh tế phát triển. Mặt khác, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nâng cao mức sống dân cư, tạo điều kiện phát triển dân
trí, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Tuy nhiên công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mang lại hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội đến đâu còn phụ thuộc
vào tính ưu việt trong mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước.
Song dù thế nào thì cũng có sự thừa nhận chung rằng: Công nghiệp hoá tạo ra
nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật là năng suất lao động cao, chất lượng
sản phẩm tốt, cơ cấu sản xuất đa dạng, việc làm nhiều và phong phú, thu nhập quốc
dân chung và tính theo đầu người cao hơn nhiều so với nền kinh tế chưa công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) của Đảng chỉ rõ: “Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao



16
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao”.
Đối với nước ta hiện nay, nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất của nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé. Để ra khỏi tình trạng nước
nghèo chậm phát triển, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn, không có con đường
nào khác ngoài tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh. Phấn đấu đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá rút ngắn là phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị
gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của
con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại; Coi trọng cả về số
lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước
ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế xã hội; Xây dựng cơ cấu
kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ; giảm chi phí trung
gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là những
ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
Nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn hiện nay là:
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết
đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân; Phát triển nhanh các
ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; Phát triển kinh tế vùng; Phát triển kinh



17
tế biển; Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ, Bảo vệ và sử dụng có
hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
1.1.2.2. Vai trò của môi trường sinh thái đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trước vũ trụ mênh mông, con người trở nên nhỏ bé, không còn chuyện
chiếm lĩnh tự nhiên bằng mọi giá mà phải hành động theo quy luật. Sự vi phạm
quy luật tự nhiên, trước hết sẽ gây tổn thương cho tự nhiên, điều này còn có thể
cứu vãn, nhưng một khi sự vi phạm đó ảnh hưởng đến vận mệnh của con người
thì sự nguy hiểm khó lường hậu quả.
Ăngghen đã từng nhắc nhở chúng ta rằng: Không nên quá khoái chí về
những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên, bởi vì sự thật nhắc nhở
chúng ta hoàn toàn không thống trị giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị
một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài thế giới tự nhiên, và tất cả sự
thống trị của chúng ta đối với tự nhiên bao hàm ở chỗ là chúng ta khác tất cả các
sinh vật khác, biết nhận thức được những quy luật của giới tự nhiên và sử dụng
những quy luật đó một cách đúng đắn [2, tr.655].
Cần phải nhận thức lại một cách nghiêm túc và sâu sắc rằng con người và
xã hội dù có phát triển đến đâu, đến mức cao như thế nào đi chăng nữa, thì cũng
chỉ là một bộ phận của sinh quyển, là những yếu tố trong hệ thống Tự nhiên -
Con người - Xã hội, các yếu tố trong hệ thống có mối quan hệ khăng khít và tác
động phụ thuộc lẫn nhau. Con người xã hội dù có sức mạnh nhưng hành động
của họ cũng không thể vượt ra ngoài hệ thống mà con người phải biết vận dụng
thế mạnh của mình - dạng vật chất duy nhất có ý thức, do đó chỉ có con người
mới có khả năng điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên. Thông qua quá trình phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ con
người dần dần nắm bắt được các quy luật của tự nhiên và tìm cách vận dụng một
cách hợp lý các quy luật đó vào hoạt động thực tiễn của xã hội, để tạo cơ sở tự
nhiên bền vững cho sự phát triển xã hội.

Trong mối quan hệ với công nghiệp hoá, hiện đại hoá, môi trường đóng
vai trò là nguồn cung cấp đầu vào cho quá trình phát triển vì không có quá trình


18
sản xuất nào không đòi hỏi khai thác tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi
trường. Tuy nhiên nguồn cung cấp này lại có giới hạn chứ không phải dồi dào
vô hạn, điều đó dẫn tới yêu cầu phải khai thác hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Mối quan hệ này đã sớm được con người nhận thức được từ
thuở sơ khai, khi đó săn bắn hái lượm là nguồn thu nhập chủ yếu đảm bảo cho
sự tồn tại của loài người, con người đã sớm lệ thuộc vào thiên nhiên và môi
trường. Song, không phải ai cũng nhận thức được mối quan hệ giữa môi trường
và phát triển theo chiều ngược lại, được đặc trưng bởi sự tác động của các hoạt
động sản xuất, phát triển tới môi trường. Hiểm hoạ khôn lường là những tác
động tiêu cực lại thường không biểu hiện trực tiếp lên một cá thể nhất định, ví
dụ như một cá nhân có hành vi phá hoại môi trường, nhưng hậu quả của hành vi
đó lại tác động lên cả cộng đồng, có khi hậu quả còn kéo dài đến cả thế hệ mai
sau.
Chính vì vậy mà từ nhiều thập kỷ nay, con người đã nhận thức rằng Môi
trường đóng vai trò hết sức quan trọng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền
kinh tế và sự sống của con người, nhất là đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nói chung và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng ở nước
ta bởi vì Môi trường không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên đầu vào cho sản xuất,
tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa và hấp thụ phế thải sản
xuất và sinh hoạt do con người thải ra. Những chức năng của Môi trường liên
quan đến hoạt động kinh tế có mối tương tác chặt chẽ với nhau và trong những
trường hợp nhất định chúng có thể triệt tiêu lẫn nhau. Chẳng hạn như những chất
thải và sinh hoạt, sản xuất có chứa nhiều chất độc hại sẽ làm giảm nguồn tài
nguyên của Môi trường. Đó là việc ô nhiễm nguồn nước, đất, do sản xuất công
nghiệp. Sự ô nhiễm đó lại có tác động trở lại quá trình sản xuất làm cho sản xuất

gặp khó khăn. Môi trường là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành
đối tượng lao động sản xuất. Hình thành các nguồn lực cần thiết cho việc sản
xuất ra của cải vật chất của loài người. Trong số này một số có thể tái tạo được,
một số khác không thể tái tạo được. Trong quá trình khai thác, nếu mức độ khai


19
thác nhanh hơn mức độ tái tạo thì gây ra tình trạng khan hiếm, suy kiệt hoặc
khủng hoảng tới Môi trường.
1.1.2.3. Tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với môi trường sinh thái
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu của mọi
quốc gia để tăng trưởng và phát triển bền vững. Nhờ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá mà các nước tư bản chủ nghĩa hàng đầu đã nhanh chóng phát triển vượt bậc
để có một tiềm lực kinh tế to lớn, tiềm năng khoa học và công nghệ dồi dào, có
mức sống cao. Các nước nghèo, chậm phát triển không có con đường nào khác
cũng phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để nhanh chóng thoát khỏi
tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Nhờ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các
nước chậm phát triển cũng đang dần vượt qua những chặng đường dài khó khăn,
có bước tiến nhảy vọt, rút ngắn quá trình phát triển trở nên giàu có.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ giúp các nước đang phát triển
nói chung, Việt Nam nói riêng giải quyết các mục tiêu về kinh tế - xã hội trong
phát triển, mà còn là điều kiện để thực hiện được yêu cầu của phát triển bền
vững . Đồng thời với việc phát triển những công nghệ mới trong khai thác và sử
dụng tài nguyên, cũng phát triển theo những công nghệ xử lý môi trường do áp
dụng các công nghệ khai thác tài nguyên đó gây ra. Bên cạnh những phát triển
khoa học để tận dụng mọi tính năng có được của các loại tài nguyên thiên nhiên
phục vụ cho lợi ích của mình, con người cũng tạo ra được những phát kiến khoa
học nhằm bảo vệ và phục hồi môi trường tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại
lâu bền của cuộc sống con người trong thiên nhiên. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là yếu tố căn bản nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lượt mình, tăng trưởng

kinh tế lại tạo tiền đề để bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, mà trước hết là
nguồn lực về tài chính cho thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế, những vấn đề môi trường cũng đang được nhắc đến như là các
điều kiện trong các thương thảo quốc tế, có xu hướng trở thành những rào cản
mới, quyết định và ảnh hưởng tới thương mại và đầu tư giữa các nước. Đó chính


20
là sức ép khiến cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta tiến triển theo
hướng thân thiện với môi trường, có lợi cho bảo vệ và cải thiện môi trường. Có
thể khẳng định rằng, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tạo ra những
nguồn lực (Khoa học- công nghệ, vốn, nhân lực…) cho bảo vệ môi trường hiệu
quả hơn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì
tất yếu cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng xấu đến môi trường. Cho nên trong quá
trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bên cạnh những thành tựu mà
chúng ta đã đạt được cũng sẽ kéo theo nhiều hậu quả cần khắc phục về vấn đề
môi trường. Vì vậy cần nhận thức rằng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là nhiệm vụ trung tâm mang tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ, thì việc
bảo vệ môi trường trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
nhiệm vụ đặc biệt, mang tính cấp thiết mà toàn Đảng, toàn dân ta trong quá trình
đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước cần phải quán triệt sâu sắc.
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, bước vào giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với
mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Thậm chí so với nhiều
nước công nghiệp phát triển, vấn đề môi trường ở Việt Nam còn phức tạp và gay
gắt hơn. Sự phức tạp này được lý giải với nhiều nguyên nhân khác nhau như: do
hậu quả của chiến tranh kéo dài, do các chiến dịch như “chiến tranh hoá học” mà
đế quốc Mỹ gây ra đã huỷ hoại môi trường tự nhiên, do xuất phát điểm là một
nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu nên chưa đáp ứng được các yêu cầu cấp

bách cần phải xử lý của nhiều hiện tượng ô nhiễm môi trường. Trong khi đó dân
số ngày càng đông mà ý thức bảo vệ môi trường của phần lớn người dân còn
kém; thêm vào đó những năm trước đây, pháp luật của nước ta còn chưa thực sự
định hướng, kiểm soát cần thiết đối với hoạt động của con người trong môi
trường… mà trong đó, một nguyên nhân nổi bật ảnh hưởng sâu sắc đến môi
trường đó là quá trình đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước của Việt Nam chưa có sự gắn kết chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường.
Ở chừng mực nhất định, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là việc chuẩn bị
những điều kiện cần thiết về vật chất, kỹ thuật, con người, khoa học và công


21
nghệ và thúc đẩy sự chuyển dịch căn bản trong cơ cấu của nền kinh tế - từ cơ
cấu kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang cơ cấu công nghiệp và dịch vụ, tạo cơ sở
vững chắc để tăng trưởng kinh tế hướng đến mục tiêu phồn thịnh, xây dựng tiền
đề vững chắc cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề mang tính tất
yếu khách quan cần phải thực hiện ở nước ta. Nhưng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân chính gây sức ép đối với môi
trường sinh thái, là một trong những thách thức thời đại đối với bảo vệ môi
trường của đất nước. Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công cần huy động
mọi nguồn lực có sẵn của đất nước, trong đó nguồn tài nguyên thiên nhiên là
một trong những nguồn lực quan trọng, nhất là khi Việt Nam vốn là một nước
nghèo, tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé, trình độ dân trí chưa cao, chưa đều nên tài
nguyên thiên nhiên lại càng là nguồn lực có ý nghĩa đặc biệt trong việc thực hiện
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bên cạnh đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ tăng nhanh về quy
mô mà phạm vi của nó cũng ngày càng mở rộng. Ngoài các trung tâm lớn như
Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh; thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng
Tàu; Huế - Đà Năng - Quy Nhơn - Nha Trang, còn xuất hiện nhiều thành phố
mới, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất mới mà trước đây là vùng xa xôi hẻo

lánh. Quy mô và phạm vi công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng lớn đòi hỏi các
nguồn tài nguyên thiên nhiên càng nhiều, dẫn đến môi trường tự nhiên càng bị
khai thác mạnh hơn, đồng thời môi trường sống cũng bị ô nhiễm nặng nề hơn.
Trong khi đó, mặc dù những năm 60 của thế kỷ XX, chúng ta đã nói đến hoặc đã
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá song cho đến nay, do nhiều nguyên
nhân mà Việt Nam vẫn chưa phải là một nước công nghiệp. Nếu chỉ xét về các
chỉ tiêu kinh tế, nước ta vẫn là một nước chậm phát triển, đặc biệt là trong lĩnh
vực sản xuất công nghiệp và trình độ công nghệ.
Theo như báo cáo của Bộ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ - Môi trường
năm 1995 (nay là Bộ Khoa học - Công nghệ): Công nghệ Việt Nam lạc hậu so
với các nước tiên tiến trên thế giới trung bình từ 50 đến 100 năm, còn thiết bị
của chúng ta so với các nước tiên tiến trung bình lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ hoặc


22
từ 4 đến 5 thế hệ tuỳ theo từng lĩnh vực, chuyên ngành, và được hình thành nên
từ nhiều nguồn khác nhau. Hệ số cơ giới hoá trong các lĩnh vực sản xuất công
nghiệp của Việt Nam chỉ đạt 50% so với thế giới, tức là còn ở “giai đoạn đầu
của cơ giới hoá”, tỷ lệ tự động hoá không đáng kể; nhiều khâu lao động trong
công nghiệp còn thủ công, trong nông nghiệp thì các khâu chủ yếu vẫn là thủ
công. Tuy công nghệ lạc hậu như vậy nhưng hệ số đổi mới công nghệ hàng năm
chỉ đạt 8 - 10 %. Đồng thời với tình trạng đó, trong quá trình quy hoạch phát
triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá do thiếu sự tính toán, cân nhắc nên phân bố
xây dựng và phát triển chưa hợp lý giữa các vùng, miền, khu dân cư đã kéo theo
đó là một loạt các hậu quả cho môi trường như tình trạng xây dựng nhà máy,
khu công nghiệp ngay giữa nơi dân cư đông đúc… Sự bất cập, không đồng bộ,
quá lạc hậu của công nghệ, trình độ quản lý yếu kém và chưa biết khai thác, tận
dụng tiềm năng con người, đặc biệt là nguồn tiềm năng trí tuệ cộng với các thực
trạng nói trên đã dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế, cho cuộc sống
con người và cho môi trường sinh thái. Nhìn chung năng suất lao động công

nghiệp nước ta chỉ đạt 30% mức trung bình của thế giới, năng suất lao động
nông nghiệp lại càng thấp hơn, mức độ hao phí năng lượng và nguyên vật liệu
quá lớn, thường là từ 50% trở nên. Bởi vậy đến nay công nghiệp của nước ta còn
ở trình độ thấp, nhưng nhiều nguồn tài nguyên đã bị khai thác đến cạn kiệt do
khai thác quá nhiều song lại ít nuôi dưỡng, bảo vệ các nguồn tài nguyên hiện có,
và công nghệ lại lạc hậu nên hiệu quả sử dụng thấp; mặt khác các chất thải độc
hại của quá trình sản xuất thường không được xử lý triệt để hoặc không được xử
lý đã đưa thẳng vào môi trường, gây bệnh tật cho con người và ô nhiễm nặng nề
môi trường sinh thái.
Sự khai thác ngày càng nhiều, thiếu quy hoạch với các công nghệ khai
thác giản đơn dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá huỷ đa dạng
sinh học và môi trường sinh thái. Sự khai thác khoáng sản (thường ở vùng rừng
núi), sự khai thác quá mức các sản phẩm của rừng (đặc biệt là gỗ) cho sản xuất
công nghiệp và sinh hoạt, việc phá rừng để trồng cây công nghiệp phục vụ xuất


23
khẩu…. khiến cho rừng đầu nguồn bị triệt phá và hậu quả là lũ lụt, hạn hán xảy
ra ngày một dày đặc hơn, sức tàn phá cũng nặng nề hơn.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là sự phát triển mạnh
mẽ của các ngành công nghiệp, các khu công nghiệp. Do nhiều nguyên nhân
khác nhau (ý thức thiếu trách nhiệm với môi trường của các nhà đầu tư, khả
năng hạn chế về vốn đầu tư cho xử lý chất thải, sự thiếu hoặc chưa đồng bộ và
tính thực thi hạn chế của hệ thống pháp luật về môi trường…) đã khiến cho các
chất thải công nghiệp (khí, rắn, lỏng) không được xử lý hoặc xử lý “qua loa” đã
trực tiếp thải ra môi trường. Vì vậy, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là quá trình môi trường tự nhiên ngày càng bị ô nhiễm (không khí, đất,
nguồn nước, tiếng ồn…)
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sự phát triển của các ngành
dịch vụ (thương mại, du lịch, y tế…) cũng là một tác nhân quan trọng gây ô

nhiễm môi trường ở các nước đang phát triển.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao hàm cả sự phát triển của nền
nông nghiệp hàng hoá năng suất cao. Trong rất nhiều trường hợp, năng suất cao
lại do sử dụng các loại phân vô cơ, các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ… vì vậy, ô
nhiễm môi trường đất, nước và cả không khí ở các vùng nông nghiệp là tất yếu.
Tác hại hơn là không ít sản phẩm nông nghiệp bị ô nhiễm, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khoẻ của người tiêu dùng.
Đô thị hoá là quá trình song hành với công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực
tế cho thấy, ở các nước đang phát triển, quá trình đô thị hoá cũng chính là quá
trình dẫn đến suy thoái, ô nhiễm môi trường do ý thức người dân vùng đô thị
mới (phần lớn là cư dân vùng nông thôn di cư tới), do yếu kém trong quy hoạch
xây dung đô thị, do khả năng về nguồn lực xử lý môi trường đô thị của chính
quyền còn nhiều hạn chế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tất yếu dẫn đến thu nhập và đời sống người
dân được nâng cao. Điều đó cũng có nghĩa là tiêu dùng cũng tăng lên, cũng có
nghĩa là các chất phát thải từ tiêu dùng hàng ngày cũng gia tăng nhanh chóng,


24
trong nhiều trường hợp vượt quá khả năng xử lý. Chính vì vậy, ô nhiễm môi
trường ngày càng tăng lên là khó tránh khỏi.
Tóm lại, công ngiệp hoá, hiện đại hoá có tác động hai mặt đến môi trường
sinh thái. Những tác động tích cực là rất to lớn, nhưng những tác động tiêu cực
cũng rất nghiêm trọng và hậu quả cũng hết sức nặng nề nếu không có các giải
pháp hữu hiệu để khắc phục, hạn chế những tác động xấu này.
1.1.3. Nội dung, nguyên tắc, công cụ của bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Sự phân tích về tác động qua lại giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với
môi trường sinh thái, về vai trò của môi trường trong quá trình phát triển bền
vững đã cho thấy sự cần thiết khách quan của bảo vệ môi trường sinh thái trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.1.3.1. Nội dung
Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường được trong
lành, sạch đẹp, phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng
phó sự cố môi trường; Khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi
trường; Khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, Bảo vệ đa
dạng sinh học. Đó vừa là mục tiêu vừa là nội dung cơ bản của hoạt động bảo vệ
môi trường sinh thái ở bất kỳ quốc gia nào.
Đối với Việt Nam hiện nay, những hoạt động bảo vệ môi trường được
khuyến khích là :
- Tuyên truyền giáo dục và vận động mọi người tham gia bảo vệ môi
trường, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng
sinh học.
- Bảo vệ, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
- Giảm thiểu, thu gom, tái chế và sử dụng chất thải.
- Phát triển, sử dụng năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; giảm thiểu
khí thải gây hiệu ứng nhà kính, phá huỷ tầng ôzôn.

×