Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Đánh giá vai trò của các nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.72 KB, 106 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




Nguyễn Thị Hồng Nhung




ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN LỰC ĐỐI
VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM



Chuyên ngành: Kinh Tế Chính Trị
Mã số: 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐÀO THỊ BÍCH THỦY







HÀ NỘI - 2009

MỤC LỤC

Danh mục các từ viết tắt
i
Danh mục các bảng
ii
Danh mục các biểu
ii
LỜI MỞ ĐẦU
01
CHƢƠNG 1
LÝ THUYẾT TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA SOLOW VÀ
PHƢƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN
LỰC ĐỐI VỚI TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ
08

1.1. Lý thuyết tăng trƣởng kinh tế của Solow và phƣơng pháp
hạch toán tăng trƣởng
08
1.1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Solow
08
1.1.1.1. Hàm sản xuất và những nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế
09
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và sự tăng trưởng của vốn
10
1.1.2. Phương pháp hạch toán tăng trưởng
15

1.2.Các chỉ tiêu đánh giá nguồn lực tăng trƣởng kinh tế và vận
dụng vào Việt Nam
19
1.2.1. Thu nhập bình quân đầu người
19
1.2.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động – Năng suất lao
động
19
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn - Hệ số ICOR
19
1.2.4 . Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)
20
CHƢƠNG 2
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG
TRƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
24
2.1 . Các nguồn tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
24
2.1.1.Vốn đầu tư
24
2.1.2. Nguồn lực con người
25
2.1.2.1. Năng suất lao động và việc áp dụng tính toán ở Việt Nam
27
2.1.2.1.1. Phân tích năng suất lao động chung toàn nền kinh tế giai
đoạn 2001 – 2008
29
2.1.2.1.2. Phân tích năng suất lao động theo khu vực kinh tế
31
2.1.2.1.3. Phân tích năng suất lao động theo ngành kinh tế

33
2.1.3. Khoa học công nghệ
39
2.1.4. Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế
41
2.1.5. Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong nền kinh tế
43
2.2. Phân tích vai trò của các nguồn lực đối với tăng trƣởng kinh
tế Việt Nam
46
2.2.1.Tác động của Khoa học &Công Nghệ đối với Tăng trưởng kinh
tế
48
2.2.2. Đóng góp của TFP đối với tăng trưởng kinh tế
49
2.3. Đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trƣởng kinh tế
Việt Nam
51
2.3.1. Đánh giá vai trò của nguồn vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh
tế Việt Nam
51
2.3.2. Đánh giá vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế
Việt Nam
54
2.3.3. Đánh giá vai trò của khoa học công nghệ đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam
55
2.3.4. Đánh giá vai trò của TFP đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam
58
2.3.5. Đánh giá vai trò của các yếu tố đầu ra đối với tăng trưởng kinh

tế Việt Nam
59

CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY CÁC
NGUỒN LỰC CHO TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ ĐỐI VỚI VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI


64
3.1. Triển vọng và quan điểm tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
64
3.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
64
3.1.2. Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới
65
3.2. Các giải pháp pháp huy các nguồn lực tăng trƣởng kinh tế
Việt Nam
69
3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô
69
3.2.1.1.Cải cách toàn diện nền kinh tế
69
3.2.1.2. Từ bỏ cơ cấu kinh tế theo đuôi, tìm lối đi riêng dựa vào những
điểm Việt Nam có lợi thế
73
3.2.2. Nhóm giải pháp vi mô
75
3.2.2.1. Tăng việc làm, tạo nguồn việc làm mới để tăng GDP
75

3.2.2.2. Đầu tư cho công nghệ
76
3.2.3. Một số giải pháp khác
78
3.2.3.1. Giảm chi phí trung gian là biện pháp quan trọng để thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế bền vững
78
3.2.3.2. Phát huy và sử dụng mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản
xuất
79
3.2.3.3. Đổi mới công nghệ và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trong hoạt
động của doanh nghiệp
80
3.2.3.4. Nhận thức đúng vai trò của tín dụng, ngân hàng trong việc
phân phối và tối ưu hoá nguồn vốn xã hội
82
3.2.3.5. Phát triển và nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho nền kinh
tế
84
3.3. Gợi ý giải pháp phát triển các nguồn lực tăng trƣởng kinh tế
Việt Nam trong thời gian tới
86
3.3.1. Tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) để nâng cao chất
lượng tăng trưởng
86
3.3.2. Khuyến khích phát triển một số lĩnh vực
87
3.3.2.1. Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư
87
3.3.2.2. Khuyến khích đầu tư từ nước ngoài

87
3.3.2.3. Khuyến khích giáo dục
88
3.3.2.4. Bảo vệ quyền sở hữu và duy trì ổn định chính trị
88
3.3.2.5. Khuyến khích thương mại tự do
88
3.3.2.6. Kiểm soát tăng trưởng dân số
89
3.3.2.7. Khuyến khích nghiên cứu và triển khai
89
KẾT LUẬN
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
91
PHỤ LỤC
93






















DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT



GDP
Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm quốc nội

GNP
Gross National Product – Tổng sản phẩm quốc dân

TFP
Total Factor Productivity – Năng suất nhân tổ tổng hợp
(Tổng năng suất nhân tố sản xuất)
ICOR
Incremental capital output ratio – Chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả của vốn
NSLĐ
Năng suất lao động

APO
Asia Productivity Organization – Tổ chức năng suất châu
Á

ASEAN
Association of Southest Asia Nations – Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á
WB
World bank – Ngân hàng thế giới

FAO
Food and Agriculture Organization of the United Nations
– Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp quốc
UNDP
United Nations Development programme – Chương trình
phát triển liên hợp quốc
WEF
World Economic Forum – Diễn đàn kinh tế thế giới

KH&CN
Khoa học và Công nghệ

R&D
Research and Development – Hoạt động nghiên cứu và
phát triển
ODA
Official Development Assistance – Vốn hỗ trợ phát triển
chính thức
FDI
Foreign direct investment – Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài
FPI
Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài


GS
Goldman Sachs – Ngân hàng đầu tư hàng đầu của Mỹ

CEPR
Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách

VA
Tốc độ tăng trưởng của giá trị tăng thêm

GO
Tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất
i

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 2.1: Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP của Việt Nam, 1991-2008
24
Bảng 2.2: Mức năng suất và tốc độ tăng năng suất lao động của
một số nước và lãnh thổ trên thế giới năm 2008
30
Bảng 2.3: Tốc độ tăng năng suất lao động của các khu vực kinh tế
thời kỳ 2001 – 2008
33
Bảng 2.4: Tốc độ tăng năng suất lao động của các ngành kinh tế
thời kỳ 2004 – 2008
35
Bảng 2.5: Tỷ trọng lao động của các ngành kinh tế qua các năm
36
Bảng 2.6: Mức độ đóng góp của thay đổi cơ cấu lao động giữa các

ngành đối với mức tăng của NSLĐ chung toàn nền
kinh tế quốc dân
37
Bảng 2.7: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 1991 – 2008
41
Bảng 2.8: Chỉ số Icor của Việt Nam từ 1990 đến 2008
45
Bảng 2.9: Các nhân tố tăng trưởng của Việt Nam qua các thời kỳ
46
Bảng 2.10: Vốn đầu tư và tích lũy tài sản (theo giá 1994)
52
Bảng 2.11: Đóng góp của TFP vào tăng trưởng Việt Nam qua các
thời kỳ
59
Bảng 2.12: Các nguồn tăng trưởng GDP ở Việt Nam giai đoạn
1986 -2002
62
Bảng 3.13: Báo cáo tăng trưởng kinh tế của WB tháng 11 năm 2008

66
DANH MỤC CÁC BIÊU


Biểu 2.1: Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội từ 2001 đến 2008
29

ii

1


LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc là mong ước của mọi người. Bàn luận về
điều này thật có ý nghĩa vô cùng to lớn. Cùng với sự phát triển của nhân loại,
những nghiên cứu về các vần đề kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường đã làm
tốn không biết bao thời gian, công sức, trí tuệ mà vẫn là chưa đủ.
Trong lời tựa cuốn sách nhan đề "Vì chất lượng cuộc sống tốt hơn", được coi
là tài liệu xác định Chiến lược Phát triển bền vững của Chính phủ Vương quốc
Anh, Thủ tướng Tony Blair viết: “Tiến bộ thực sự không thể đo bằng tiền. Chúng
ta phải bảo đảm rằng tăng trưởng kinh tế đóng góp cho chất lượng cuộc sống của
chúng ta, chứ không phải là làm cho nó xấu đi Tăng trưởng vừa phải ổn định, vừa
phải bền vững về mặt môi trường. Điều có ý nghĩa quan trọng ở đây là chất lượng
của tăng trưởng, chứ không chỉ là số lượng.” [17, tr 7]
Còn trong phần Tổng quan mở đầu cuốn sách "Chất lượng tăng trưởng", do
Ngân hàng Thế giới tổ chức biên soạn và xuất bản, có đoạn viết: “Thập niên cuối
cùng của thế kỷ 20 đã chứng kiến bước tiến bộ đáng kể tại nhiều khu vực trên thế
giới, đồng thời cũng chứng kiến sự trì trệ và những bước thụt lùi, thậm chí ở cả
những quốc gia trước đó đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế vào loại nhanh
nhất. Những khác biệt đang tiếp tục gia tăng và những đảo lộn ghê gớm này cho ta
hiểu nhiều điều về những gì là yếu tố đóng góp cho phát triển. Đứng ở vị trí trung
tâm là tăng trưởng kinh tế, nhưng không chỉ là tốc độ tăng (về số lượng) của nó, mà
cũng quan trọng như vậy là cả chất lượng của tăng trưởng”[18, tr 16]
Đến đây, chúng ta có thể nói rằng, các phạm trù - phát triển và phát triển bền
vững, tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng - có mối quan hệ gần gũi với nhau,
nhưng không trùng lặp, mà bổ sung lẫn cho nhau. Mỗi phạm trù đều có nội hàm
riêng, thể hiện quá trình phát triển của tư duy, nhận thức của con người về tự nhiên,
về xã hội và về bản thân cuộc sống của mình.

2


Có thể thấy, phạm vi của khái niệm "chất lượng tăng trưởng" là khá rộng và
các tiêu chí định lượng để đánh giá nó vẫn còn trong quá trình tiếp tục được nghiên
cứu, xác định. Cho đến nay, vì nhiều lý do, trong đó có việc cho phép so sánh quốc
tế, GDP (GNP) và GDP (GNP) bình quân đầu người (cả số tuyệt đối và số tương
đối) vẫn là hai tiêu chí được cả thế giới thừa nhận và sử dụng để đo lường, đánh giá
mức độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng, cũng từ lâu trong kinh tế học, cả lý thuyết và
thực hành, người ta đã lưu ý về những điểm hạn chế, điểm không phù hợp của các
thước đo này, nhất là liên quan đến phúc lợi và chất lượng cuộc sống và trong
những khía cạnh xã hội của quá trình phát triển. Với sự phân biệt ngày càng chi tiết
và sâu sắc giữa "tăng trưởng" và "phát triển", đặc biệt là trong quá trình xây dựng
các tiêu chuẩn về phát triển bền vững, các học giả kiến nghị rằng thước đo về phát
triển phải bao gồm không chỉ tốc độ tăng trưởng, mà cả các khía cạnh về chất
lượng như cơ cấu, sự phân bổ và tính bền vững của tăng trưởng. Từ đó, trong hoạt
động thực tiễn ở nhiều quốc gia, một số tiêu chí và đại lượng đã lần lượt được áp
dụng. Trong đó yếu tố năng suất được đặc biệt chú ý.
Ngày nay, năng suất có quan hệ nhiều mặt của nền kinh tế - xã hội, liên quan
đến sản xuất và đời sống của dân cư. Nó trở thành nội lực phát triển của các công
ty, ngành và nền kinh tế. Hơn nữa, nó còn là cơ sở đảm bảo cho đời sống của dân
cư ngày càng tốt hơn. Lấy một thí dụ để thấy sự quan trọng của hiệu suất. Các nền
kinh tế ở Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan từ giữa thập niên 1960 và
Trung Quốc từ thập niên 1980 đã cho thấy một sự phát triển kỳ diệu. Tuy nhiên nếu
so với thời đại phát triển thần kỳ của Nhật (1950-1973) thì Nhật hiệu suất hơn
nhiều. Nhật dùng lượng tư bản ít hơn và phát triển với tốc độ cao hơn. Chẳng hạn,
trường hợp Hàn Quốc trong giai đoạn 1960-1994, kinh tế tăng trưởng bình quân
năm là 8,3%, trong đó tư bản đóng góp 4,3%, lao động 2,5% và hiệu suất 1,5%,
trong khi Nhật trong giai đoạn 1950-1973, kinh tế tăng trưởng tới 9,2% nhưng tư
bản chỉ đóng góp 3,4% (nhỏ hơn Hàn Quốc) vì hiệu suất đóng góp tới 3,6%. Chính
vì vậy, luận văn này sẽ nghiên cứ u cá c cá ch tiếp cận mới về bản chất năng suất ,


3

tổ ng hợ p và phân tí ch cơ sở củ a việc đo lường năng suấ t . Trên cơ sở đó, sẽ trình
bày phương pháp phân tích biến động năng suất, tổ ng hợ p và tì m hiể u cá c nghiên
cứ u về lượng hoá vai trò cũ ng như mức độ ảnh hưởng của các nhân tố củ a tăng
trưở ng đến sự biến động đó. Đồng thời xem xét ảnh hưởng của năng suất đến các
chỉ tiêu kinh tế xã hội khác. Trong đó, chú trọng đến phân tích chỉ tiêu năng suất
nhân tố tổng hợp (TFP), từ đó đánh giá đượ c vai trò của của các nguồn lực đối với
tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế (theo nghĩa nguyên gốc, gắn với GDP) bắt nguồn từ ba
yếu tố đầu vào là vốn, lao động và tiến bộ công nghệ (bao quát công nghệ sản xuất,
kỹ năng quản lý và một số khía cạnh liên quan khác). Để đánh giá ba yếu tố này,
lâu nay, người ta sử dụng các tiêu chí ICOR, năng suất lao động và năng suất nhân
tố tổng hợp - TFP. TFP là chữ viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Total Factor
Productivity" (có tác giả dịch là "tổng năng suất nhân tố sản xuất").
Trong tăng trưởng GDP có sự đóng góp của vốn và lao động (là hai trong ba
nhân tố sản xuất cơ bản cùng với đất đai). Ở trên chúng ta đã nói về đóng góp của
vốn và lâu nay ta đã quen thuộc với khái niệm năng suất lao động. Nhưng nhiều khi
chúng ta muốn biết hiệu quả của các đầu vào tính gộp chung, chứ không chỉ riêng
từng đầu vào. Về cơ bản, khái niệm năng suất nhân tố tổng hợp - TFP là một cách
đo lường đồng thời năng suất của cả vốn lẫn lao động trong một hoạt động cụ thể
hay cho cả nền kinh tế. Cách tiếp cận được sử dụng ở đây là thông qua "hàm sản
xuất" có dạng: GDP = A × f(K, L), thể hiện quan hệ giữa GDP và các đầu vào - vốn
K và lao động L, trong đó A đại diện cho năng suất nhân tố tổng hợp.
Có thể nói, TFP là thước đo phản ánh hiệu quả kinh tế trong sử dụng vốn và
lao động; Song, với cách tiếp cận tổng thể này, ta có thể bổ sung các yếu tố khác.
Trong các yếu tố bổ sung, người ta quan tâm nhiều đến tiến bộ công nghệ và các
biện pháp quản lý, điều hành, cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Nhiều nghiên cứu đã được
các học giả trên thế giới tiến hành về vai trò của TFP đối với tăng trưởng. Đối với
một quốc gia, vốn và lao động là những đại lượng hữu hạn, vì thế các học giả


4

khuyến cáo các chính phủ cần tập trung thúc đẩy TFP. Họ cũng đi đến kết luận
rằng sự khác biệt giữa các quốc gia về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng phần
lớn bắt nguồn từ khác biệt trong TFP. Đến nay, trong nghiên cứu phân tích tăng
trưởng kinh tế, người ta thống nhất chỉ tập trung vào ba thành phần tạo nên tăng
trưởng là vốn, lao động và TFP (trong hệ thống số liệu thống kê công bố hàng năm,
nhiều nước đã công bố tỷ lệ phần trăm đóng góp của từng thành phần trong tăng
trưởng GDP). Có nhiều yếu tố có thể góp phần thúc đẩy TFP. Năng lực tổ chức và
quản lý; hệ thống giáo dục quốc gia cùng với hoạt động nghiên cứu - triển khai,
công tác phổ biến và chuyển giao công nghệ; việc phân bổ nguồn lực; chính sách
kinh tế, v.v… đều đóng góp vào việc đó.
Để kinh tế phát triển nhanh và bền vững, hiệu suất đóng vai trò quan trọng
nhất. Hiệu suất cao là động lực làm cho kinh tế tăng trưởng cao hoặc/và tiết kiệm
được nguồn lực đầu tư cho tư bản cố định, dành nhiều nguồn lực hơn cho đầu tư hạ
tầng xã hội và giáo dục, văn hóa. Phát triển chú trọng hiệu suất theo nghĩa đó cũng
làm giảm áp lực đối với môi trường. Dĩ nhiên không ai là không thấy sự quan trọng
của hiệu suất. Nhưng nguồn gốc của hiệu suất ở đâu và làm thế nào để tăng hiệu
suất thì không phải là vấn đề dễ thấy. Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ điều này.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu định lượng về các nguồn
tăng trưởng kinh tế như các nghiên cứu TFP trong các ngành dệt may và nông
nghiệp. Tuy nhiên, đây mới là các nghiên cứu ở mức khu vực ngành nghề; Cụ thể
là các đề tài sau:
- Nghiên cứu xác định các chỉ tiêu thống kê đánh giá chất lượng tăng trưởng
của nền kinh tế” do Vụ Hệ thống Tài khoản quốc gia chủ trì - Đề tài đượ c nghiên
cứ u và o năm 2001 có nội dung mang tính chất tổng hợp, trên cơ sở tham khảo kinh
nghiệm của quốc tế kết hợp với phân tích lý luận để áp dụng vào thực tiễn của Việt
Nam.


5

- Nghiên cứu tính chỉ tiêu tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp ở Việt
Nam do Viện Khoa học Thống kê chủ trì và phối hợp với một số đơn vị trong Tổng
cục, kết quả nghiên cứu năm 2002 này đã làm rõ nội dung, bản chất của năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP) và phương pháp tính tốc độ tăng TFP, mối quan hệ của
TFP với năng suất tổng hợp chung. Trên cơ sở đó đã phân tích, xác định khả năng
và điều kiện tính toán tốc độ tăng TFP ở Việt Nam, tính toán thử nghiệm tốc độ
tăng TFP và đóng góp của nó đối với sự tăng lên của giá trị tăng thêm.
Ngoài ra, có rất nhiều đề tài nghiên cứu chuyên sâu về bản chất, phương
pháp tiếp cận cũng như cách tính TFP trong lĩnh vực thống kê – tin học như:
- Các phương pháp tính tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) theo
cách tiếp cận thống kê năm 2003 của TS Tăng Văn Thiên (Viện Khoa học Thống
kê).
- Lê Dân- Bộ môn Thống kê Tin học- Đại học Đà Nẵng năm 2002 vớ i đề tài:
Giới thiệu bản chất của TFP và phương pháp nghiên cứu sự biến động của nó.
Đặc biệt, thạc sỹ Nguyễn Thị Bích Hồng, trường đại học Kinh Tế thành phố
Hồ Chí Minh đã ứng dụng TFP trong phân tích tăng trưởng kinh tế của thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 1997 đến 2006. Đề tài này đánh dấu sự nỗ lực của các nhà khoa
học kinh tế trong việc tìm hiểu, tính toán và ứng dụng TFP để tìm ra nguyên nhân
tăng trưởng của nền kinh tế Đà Nẵng trong một giai đoạn nhất định. Điều này
khẳng định hơn nữa giá trị của việc ứng dụng tính toán TFP trong phân tích tăng
trưởng.
Đối với tổng thể nền kinh tế, hầu như chưa có nghiên cứu đánh giá vai trò
của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài: “Đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam” nhằm khám phá và xác định các nhân tố có khả năng tác động đến tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam, tìm hiểu phương pháp ứng dụng các tính toán về tốc


6

độ tăng trưởng năng suất nhân tố (TFP) để xác định một cách chính xác và đo
lường tác động của các các nhân tố này đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam,
đồ ng thờ i tổ ng hợ p cá c kế t quả kiểm tra mô hình lý thuyết về tăng trưởng, phương
pháp hạch toán tăng trưởng của Solow đối với nền kinh tế của các nước đang phát
triển. Dựa vào cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu đo lường TFP đã được thực hiện,
đồng thời kết hợp với nghiên cứu định tính về các nhân tố ảnh hưởng đến tăng
trưởng, đề tài xác định và tìm hiểu thực trạng các nguồn lực đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, chỉ ra ưu điểm và nhược điểm của các nguồn lực này trong tổng
thể nền kinh tế. Phân tích, đánh giá vai trò của các nguồn lực này đối với mô hình
tăng trưởng kinh tế đang được thực hiện tại nước đang phát triển như Việt Nam.
Đưa ra quan điểm định hướng và đề xuất các giải pháp phát huy các nguồn lực cho
tăng trưởng kinh tế đối với Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các nguồn lực tăng trưởng kinh tế
Việt Nam dưới góc độ định tính và tổ ng hợ p phân tí ch cá c nghiên cứ u định lượng
đã đượ c thự c hiệ n.
Phạm vi nghiên cứu: Đặc biệt chú trọng đến việc thu thập các số liệu phản
ánh thực trạng các nguồn lực về nguồn vốn (vốn đầu tư và vốn con người), đo
lường các nguồn lực phát triển, các nhân tố ảnh hưởng… và tác động của chúng
đối với sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua (chú trọng đến thời
kỳ từ 2002 đến 2008).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở biện pháp biện chứng duy vật biện chứng làm phương pháp luận
tổng quát, trong quá trình nghiên cứu, luận văn chú trọng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: logic kết hợp với lịch sử, phân tích kết hợp với tổng hợp và
phương pháp phỏng vấn chuyên gia.
Luận văn sử dụng số liệu từ Niên giám thống kê hàng năm của Tổng Cục

thống kê; ứng dụng phương pháp hạch toán tăng trưởng và hàm sản suất Cobb-

7

Douglas để nghiên cứu vai trò, tác động của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh
tế Việt Nam. Đi sâu vào tì m hiể u , nghiên cứ u phương pháp và áp dụng thực
nghiệm. Mặc dù là luận văn có sử dụng kết quả nghiên cứu về TFP của nhiều tác
giả nhưng việc lựa chọn sử dụng các nghiên cứu đều xoay quanh mục tiêu chính,
luận văn có thể được xem như một chỉnh thể thống nhất. Các nghiên cứu được lựa
chọn sử dụng đều dựa trên đặc thù của đối tượng nghiên cứu để xác định các nhân
tố làm cho hoạt động sản xuất trở thành phi hiệu quả cũng như các nhân tố thúc đẩy
tăng trưởng. Dù có hạn chế nhất định về cơ sở dữ liệu, các kết quả ước lượng đều
được giải thích dựa trên cơ sở lý thuyết, cô đọng và súc tích là các gợi ý và chỉ dẫn
hữu ích trong việc đề xuất và xây dựng chính sách.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Nghiên cứu về sự đóng góp của các yếu tố đối với tăng trưởng kinh tế có ý
nghĩa về nhiều mặt, không những xác định vị trí của từng yếu tố để có kế hoạch
khai thác, mà còn có ý nghĩa xác định được yếu tố tiềm ẩn gia tăng lạm phát. Xác
định ý nghĩa và ứng dụng mô hình tăng trưởng thích hợp trong việc xây dựng chính
sách nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chỉ ra các nguồn tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam, tìm hiểu những động lực và những trở ngại đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam trong thời gian qua, từ đó gợi ý chiến lược tăng trưởng kinh tế
Việt Nam trong tương lai.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành 3 chương:
Chƣơng 1: Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Solow và phương pháp đánh giá vai
trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế.
Chƣơng 2: Đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam.

Chƣơng 3: Quan điểm định hướng và giải pháp phát huy các nguồn lực cho tăng
trưởng kinh tế đối với Việt Nam trong thời gian tới.

8

CHƢƠNG 1
LÝ THUYẾT TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA SOLOW VÀ PHƢƠNG
PHÁP ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG
TRƢỞNG KINH TẾ

1.1. Lý thuyết tăng trƣởng kinh tế của Solow và phƣơng pháp hạch toán
tăng trƣởng
1.1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Solow
Liệu gia tăng mức tiết kiệm quốc dân có thể làm cho mức tăng trưởng của
đầu ra tăng thường xuyên hay không? Câu trả lời là “không”. Đó là kết quả bất ngờ
nhất của một lý thuyết về tăng trưởng kinh tế do Robert M. Solow lần đầu tiên
trình bày trong những năm 1950. [23, tr 65- 94]. Công trình nghiên cứu này đã
mang lại cho ông giải thưởng Nobel năm 1987. Những bộ phận chủ yếu tạo thành
lý thuyết của Solow là Hàm sản xuất bình quân đầu người và Mối quan hệ giữa
mức tiết kiệm và sự tăng trưởng của vốn.
Mô hình tăng trưởng của Solow được lựa chọn làm cơ sở lý thuyết cho việc
xác định, đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam
vì những lí do sau:
- Mô hình tăng trưởng của Solow có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản
chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, sự đóng góp của vốn vào tốc độ phát triển kinh tế
hay sự tăng trưởng của nền kinh tế là rất đáng kể;
- Trong Mô hình tăng trưởng của Solow, công nghệ được coi là biến ngoại
sinh, vì vậy nó rất phù hợp với thực trạng của nền kinh tế Việt Nam từ trước đến
nay chủ yếu nhập công nghệ từ nước ngoài;

- Mô hình Solow cho ta phương pháp hạch toán tăng trưởng. Phương pháp
này cho phép xác định và tính toán được sự đóng góp của các yếu tố đầu vào đã

9

được sử dụng. Và như thế chúng ta có thể sử dụng phương pháp này để xác định,
tính toán, đánh giá vai trò của các nguồn tăng trưởng trong nền kinh tế Việt Nam.
1.1.1.1. Hàm sản xuất và những nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế có liên quan đến sự tăng trưởng của GDP thực
tế. (Gross Domestic Product – GDP: tổng sản phẩm quốc nội). Những yếu tố kinh
tế trực tiếp sản xuất ra GDP thực tế là những yếu tố đầu vào.
Hàm sản xuất: là mối quan hệ thường được trình bày theo kiểu đại số học,
cho thấy có thể sản xuất bao nhiêu đầu ra bằng một số lượng nhất định các yếu tố
đầu vào. Nói cách khác, hàm sản xuất thể hiện suất sinh lợi theo quy mô không đổi.
Câu hỏi đặt ra là: có thể sản xuất ra bao nhiêu GDP thực tế (Y) trong một
thời gian nhất định? Điều này tùy thuộc vào tổng lượng có sẵn để sử dụng của hai
yếu tố đầu vào chủ yếu là vốn (K), lao động (L) và vào tác động của đầu ra theo
yếu tố đầu vào bình quân có sẵn để sử dụng còn được gọi là A (yếu tố tăng trưởng
tự định).
Mối quan hệ giữa Y, A, K và L được biểu thị bằng Hàm sản xuất dạng tổng
quát sau:
Y = AF (K,L) (1)
Trong đó, tổng sản phẩm quốc dân (Y) được sản xuất từ lao động (L) và vốn
(K). Ở đây có một giả thiết cụ thể là F(K,L) (thể hiện sản lượng được sản xuất từ
L và K trong thời kỳ đầu) tăng lên A lần nhờ tiến bộ công nghệ.
Hàm sản xuất cũng có thể được thể hiện dưới dạng: “hàm sản xuất Cobb –
Douglas”
(4)
(4) Hàm sản xuất mang tên Cobb – giáo sư toán học ở Amherst, và Paul
H. Douglas – giáo sư kinh tế học ở đại học Tổng Hợp Chicago (sau đó là Thượng

Nghị Sĩ Mỹ), và được trình bày trong một cuốn sách do Paul H. Douglas viết, The
Theory of Wages ( New York: Macmillan, 1934).
Dạng tổng quát như sau:
Y = A K
α
L
1-α
(2)


10

Phương trình (2) nói lên rằng GDP thực tế bằng yếu tố tăng trưởng tự định
(A) nhân với chỉ số vốn (K) và lao động (L). Các trọng lượng α và 1-α biểu thị
mức co dãn (hay tỷ lệ phần trăm ứng đối) của GDP thực tế theo sự gia tăng của
một trong hai yếu tố này. Tính co dãn được hiểu là tỷ lệ phần trăm thay đổi trong
một biến số ứng với bao nhiêu phần trăm thay đổi trong một biến số khác.
Trên thực tế, chúng ta thấy rằng sự tăng trưởng của mức sống không phải tùy
thuộc vào tổng số GDP thực tế mà phụ thuộc vào GDP thực tế bình quân đầu
người. GDP thực tế bình quân đầu người được biểu thị là GDP thực tế (Y) chia
cho tổng số lao động đầu vào (L), tức là Y/L. Vì vậy, hàm sản xuất (1) được viết
như sau:
Y/L =Af(K/L) (3)
Mối quan hệ quan trọng này nói lên rằng quả thật có hai nguồn gốc tăng
trưởng của mức sống (GDP thực tế bình quân đầu người (Y/L)). Đó là yếu tố tăng
trưởng tự định (A), và tỷ số của vốn với lao động đầu vào (K/L). (Trong khuôn khổ
luận văn này, tác giả coi “ người” và “việc làm” là những từ đồng nghĩa, bỏ qua
những thay đổi trong tỷ số của số việc làm với số dân để đơn giản hóa việc tính
toán). Đến đây, một vấn đề nảy sinh là phương trình (3) không lý giải được những
khác biệt hiển nhiên giữa nước này với nước khác hay giữa thời gian này so với

thời gian khác vì nó không cho biết tại sao hai nguồn gốc tăng trưởng ấy lại khác
nhau giữa các nước so với nhau hay giữa các thời gian lịch sử khác nhau.
Chúng ta sẽ tìm hiểu những yếu tố quy định sự tăng trưởng của vốn bình quân đầu
người (K/L) thông qua mối quan hệ cơ bản giữa tiết kiệm và đầu tư mà Solow đã
đề cập đến trong mô hình tăng trưởng của ông.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và sự tăng trưởng của vốn
Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem sự tăng trưởng trong K/L có liên
quan như thế nào với tổng mức tiết kiệm quốc dân. Mối quan hệ này là quan trọng
vì nó biểu thị sự liên quan giữa chính sách tài chính của chính phủ và sự tăng
trưởng trong thời gian dài của đầu ra bình quân đầu người. Khái niệm mức tiết

11

kiệm (S), yếu tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, không phải là số tiết kiệm
của các hộ gia đình mà là tổng mức tiết kiệm quốc dân, bao gồm số tiết kiệm của
các hộ gia đình, của các công ty và của chính phủ (số thặng dư ngân sách chính
phủ). Khi chính phủ có ngân sách thâm hụt thì thâm hụt ấy là một thành tố âm của
tổng mức tiết kiệm quốc dân, được bù đắp bằng một phần số tiết kiệm dương của
các hộ gia đình và các công ty trong cả nước. Giả định rằng trong nền kinh tế đóng
thì tổng mức tiết kiệm quốc dân (S) bằng tổng mức đầu tư trong nước (I).
S = I (4)
Để xác định mối quan hệ giữa sự tăng trưởng trong số vốn với số đầu tư và
do đó với tổng mức tiết kiệm quốc dân (S), ta chia tổng đầu tư trong nước (I) thành
hai phần: Phần đầu tư ròng (I
n
) - đây là phần tạo ra sự tăng trưởng trong vốn, và
phần đầu tư thay thế (D) - phần này được dùng để thay thế số vốn cũ đã hư hỏng
hay đã trở nên lỗi thời.
I = I
n

+D (5)
Đầu tư ròng chỉ là sự thay đổi trong kho vốn từ thời gian này sang thời gian sau.
Nếu ký hiệu sự thay đổi trong kho vốn là:

K, ta có:
I
n
=

K (6)
Phần đầu tư thay thế được giả định là một phân số cố định (mức hao mòn “d” của
kho vốn K). Ta có:
D = ∂K (7)
Thay (6), (7) và (5) vào (4), ta được phương trình mô tả mối quan hệ giữa mức tiết
kiệm quốc dân (S) và mức tăng trưởng trong kho vốn (

K), đó là:
S =

K + ∂K (8)
Đưa mức thay đổi của vốn (

K/K) vào phương trình (8) ta sẽ được phương trình
sau:
S =
K
KK .
+ ∂K = (
K
K.

+∂) K (9)

12

Phương trình (9) cho thấy mức tiết kiệm quốc dân bằng tổng mức đầu tư, tổng mức
đầu tư này đến lượt nó bằng mức tăng trưởng của vốn cộng với mức hao mòn nhân
với kho vốn. Rõ ràng là mức tiết kiệm quốc dân và mức tăng của vốn (
K
K
) có mối
liên hệ mật thiết với nhau.
Điểm trung tâm trong công trình phân tích của Solow là tư tưởng về một
trạng thái đều đều.
Một trạng thái đều đều là một tình hình trong đó đầu ra và vốn đầu vào tăng
theo những mức giống nhau, hàm ý một tỷ số không thay đổi của đầu ra với vốn
đầu vào.
Trong trường hợp đơn giản nhất, khi không có sự tăng trưởng trong A (yếu
tố tăng trưởng tự định), trạng thái đều đều xuất hiện khi mức tăng trưởng của Y và
K đều bằng mức tăng trong L, hàm ý rằng các tỷ số Y/L và K/L là không thay đổi.
Ký hiệu các mức tăng trưởng bằng các chữ cái nhỏ, ta có:
y = Y/L: S
k = K/L
l: mức tăng trưởng của lao động đầu vào
Do đó điều kiện để có một trạng thái đều đều, trong đó số vốn bình quân đầu người
(K/L) không thay đổi, có thể được viết một cách đơn giản là:
k = l (10)
Phương trình (9) được viết lại như sau:
S = (l+ ∂) K (11)
Phương trình (11) nói lên rằng một trạng thái đều đều đòi hỏi tổng mức tiết kiệm
(S) phải bằng mức “đầu tư ở trạng thái đều đều”, mức này là lượng đầu tư làm cho

kho vốn tăng theo mức tăng của số dân trong khi chấp nhận sự hao mòn của vốn
(∂K).

13

Chúng ta định nghĩa lại tổng mức tiết kiệm quốc dân (S) là tỷ số tiết kiệm quốc dân
với đầu ra (s = S/Y) nhân với đầu ra rồi chia cả hai vế của phương trình (11) cho K,
ta được phương trình sau:
s
K
Y
= l + ∂ (12)
Phương trình (12) cho thấy số tiết kiệm tính theo đơn vị vốn phải bằng tổng của
mức tăng dân số và mức mất giá, mức này đến lượt nó là lượng đầu tư ở trạng thái
đều đều tính theo đơn vị vốn.
Solow đã kết hợp chặt chẽ hàm sản xuất tính theo đầu người của phương
trình (3) với mối quan hệ tiết kiệm - đầu tư trong phương trình (12) bằng cách nhân
cả hai vế của phương trình (12) với K rồi chia cả hai về của phương trình này cho
L:
s (
L
Y
) = (l + ∂)
L
K
(13)
Vế trái của phương trình(13) là tổng mức tiết kiệm quốc dân bình quân đầu người,
vế phải là lượng mức đầu tư ở trạng thái đều đều bình quân đầu người, tức là lượng
đầu tư cần thiết để trang bị cho mỗi thành viên mới trong số dân một sốvốn bình
quân đầu người giống y như của số dân hiện tại, và để thay thế cho số vốn đã hư

hỏng hay lỗi thời. Vì sức sinh lợi giảm dần trong hàm sản xuất, tỷ số của Y với K
không phải là không thay đổi nhưng trở thành ngày càng thấp hơn khi vốn được
tích tụ nhiều hơn. Nếu vế trái và vế phải của phương trình (13) không bằng nhau
ngay từ đầu thì vốn bình quân đầu người sẽ tự động tăng lên hay co lại cho đến khi
chúng bằng nhau và trạng thái đều đều được hình thành.
Câu hỏi đặt ra là vốn bình quân đầu người sẽ tăng lên hay co lại là bao
nhiêu? Điều này được lý giải như sau:
Mức thay đổi trong vốn bình quân đầu người là (∂K/L), mức này là số tiết
kiệm bình quân đầu người còn lại sau khi bù khấu hao và trang bị cho mỗi thành
viên mới của số dân bằng mức vốn bình quân đầu người hiện tại. Xuất phát từ
phương trình (9), giải để tìm ∂K, chia cả hai vế cho K, sau đó đặt S là sY, ta có:

14


K
K
= s (
K
Y
) – ∂ (14)
Vế trái của phương trình (14) là mức tăng trưởng của vốn. Lấy vế phải của phương
trình (14) trừ đi “l” ta sẽ có mức thay đổi của vốn bình quân đầu người (k – l) như
sau:
k– l = s(
K
Y
) – (∂ + l) (15)
Phương trình (15) nói lên rằng mức tăng trưởng của vốn bằng số tiết kiệm tính theo
một đơn vị vốn còn lại sau khi bù khấu hao. Nhân cả hai vế của phương trình(15)

với K/L, trong đó (k –l) (K/L) = (∂K/L), ta được phương trình sau:
∂ (
L
K
) = s(
L
Y
) – (l + ∂) (
L
K
) (16)
Phương trình (16) cho thấy mỗi khi vế bên trái của phương trình (13) lớn hơn vế
phải của nó có nghĩa là mức tiết kiệm đã vượt quá mức cần thiết cho những người
lao động mới và cho phần khấu hao, khiến cho vốn bình quân đầu người tăng lên,
tức (∂K/L) là một số dương. Chỉ khi vốn bình quân đầu người ngừng tăng - điều
này đòi hỏi phải thỏa mãn phương trình (13), thì nền kinh tế mới đạt tới một trạng
thái đều đều.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là sự gia tăng trong mức tiết kiệm (s) sẽ làm giảm
chi tiêu tiêu dùng và như thế sẽ làm cho nền kinh tế suy thoái. Làm sao chúng ta có
thể chắc chắn rằng sự gia tăng trong mức tiết kiệm sẽ kích thích sự tăng trưởng của
vốn bình quân đầu người? Câu trả lời của Solow về vấn đề này như sau: Mô hình
Solow dùng để phân tích trong dài hạn (hàng thập kỷ, chứ không dùng để phân tích
hàng tháng hay hàng năm) với giả định liên tục có việc làm đầy đủ và các giá cả là
linh hoạt. Vì vậy, khi mức tiết kiệm tăng lên thì cả mức tiêu dùng và mức giá cả
đều giảm xuống, lãi suất sụt xuống đủ để kích thích đầu tư và đủ để đảm bảo rằng
số tiết kiệm và số đầu tư sẽ được duy trì bằng nhau.
Khác với các quan điểm lâu nay cho rằng yếu tố then chốt để nâng cao mức
tăng trưởng của nền kinh tế là nâng cao mức tiết kiệm, sự phân tích của Solow cho

15


thấy mức tăng trưởng trạng thái đều đều của nền kinh tế chỉ tùy thuộc vào mức tăng
trưởng của số dân (l) và hoàn toàn không bị tác động bởi những thay đổi trong mức
tiết kiệm. Vì sao vậy? Solow đã chứng minh rằng mức tiết kiệm có một vai trò
quan trọng, nhưng không như trước đây người ta vẫn tưởng. Một sự gia tăng trong
mức tiết kiệm nâng cao mức sống. Để thực hiện sự nâng cao ấy trong (Y/L), mức
tăng trưởng của Y phải được tạm thời nâng lên cao hơn mức tăng trưởng của L.
Nhưng mức tiết kiệm cao hơn không tạo ra một mức tăng trưởng thường xuyên cao
hơn của đầu ra vì mức này chỉ tùy thuộc vào mức tăng trưởng của số dân. Trong
trạng thái đều đều, Y/L là cố định, vì vậy Y và L phải tăng theo cùng một mức độ
như nhau. Một cách trực giác có thể hiểu là số tiết kiệm có thêm chỉ tài trợ cho một
mức cao hơn của kho vốn bình quân đầu người (K/L) chứ không tài trợ cho sự gia
tăng tiếp tục trong kho vốn bình quân đầu người. Số tiết kiệm có thêm bị “ngốn
hết” bởi mức đầu tư thêm thay thế mà kho vốn cao hơn đòi hỏi và bởi mức đầu tư
ròng cần thêm để trang bị cho mỗi người lao động một mức cao hơn của kho vốn
bình quân đầu người.
1.1.2. Phương pháp hạch toán tăng trưởng
Mô hình tăng trưởng của Solow gần như đã phủ nhận vai trò của tiết kiệm và
tích lũy vốn đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Điều này không đúng đối với
các nước đã phát triển những vẫn còn có giá trị và thực tế đã chứng minh nó phù
hợp và đã mở ra con đường mới cho các nước đang phát triển, phá vỡ quan điểm
truyền thống cho rằng tích lũy vốn là chìa khóa của tăng trưởng kinh tế và rằng tỷ
lệ tiết kiệm thấp chính là giới hạn chủ yếu của tăng trưởng đối với các nước đang
phát triển. Hơn thế, nó là cơ sở để các nhà kinh tế đưa ra một phương pháp thực
nghiệm nhằm giải đáp các vấn đề tăng trưởng kinh tế trong thực tiễn.
Cụ thể, mô hình Solow cho ta một phương pháp luận (hạch toán tăng trưởng)
để đo tốc độ tiến bộ công nghệ, còn gọi là phần dư Solow hay tăng trưởng tổng
năng suất nhân tố (TFP).

16


TFP được định nghĩa là chênh lệch giữa tăng trưởng sản lượng và tốc độ tăng
trưởng của các đầu vào vốn và lao động (có trọng số theo tỷ phần của từng nhân tố
trong tổng thu nhập).
Do bản chất của TFP là một số dư nên trên thực tế, nó là “thước đo phần bỏ
qua” (measure of our ignorance). Rõ ràng là nhiều nhân tố có thể tạo ra sự chuyển
biến của hàm sản xuất, ví dụ như giáo dục, cải tiến kỹ thuật, thay đổi về thể chế…
Số dư là giá trị còn lại sau khi trừ khỏi mức tăng trưởng của GDP thực tế tất
cả những nguồn gốc có thể nhận biết của tăng trưởng kinh tế.
Chỉ tiêu TFP rất quan trọng trong phân tích kinh tế. Sự biến động TFP được
Solow sử dụng đầu tiên vào năm 1957 nhằm phản ánh sự thay đổi công nghệ và
giải thích sự tăng trưởng kinh tế. Từ đó về sau được các nhà kinh tế sử dụng rộng
rãi và trở thành một chỉ tiêu không thể thiếu trong phân tích kinh tế.
Xuất phát từ những nguồn tài liệu và mục tiêu khác nhau, TFP được phân
tích theo những hướng khác nhau. Có thể tiến hành phân tích ảnh hưởng của các
nhân tố đến sự biến động của TFP hay phân tích ảnh hưởng của TFP đến tăng
trưởng kinh tế. Thông thường TFP được phân tích theo hướng thứ hai.
Phương pháp hạch toán tăng trưởng đặt giả thiết là có một hàm sản xuất liên
kết đầu ra (sản lượng) của một nền kinh tế với các đầu vào lao động và vốn (và tài
nguyên thiên nhiên nếu nó được tách ra khỏi vốn). Nhờ sử dụng hàm sản xuất này,
người ta đo được phần đóng góp của mỗi đơn vị đầu vào tăng lên đối với tăng
trưởng đầu ra và phần dư không thể giải thích bằng gia tăng đầu vào được gọi là
tăng trưởng “Tổng năng suất nhân tố” (TFP). Khi đó, TFP là thước đo tiến bộ công
nghệ được hiểu theo nghĩa rộng, tức là thước đo tăng trưởng sản lượng khi các đầu
vào không thay đổi.
Tuy nhiên, trong thực tế, rất khó đo được lao động và vốn một cách chính
xác. Xét trên khía cạnh đóng góp đối với sản lượng, thì số giờ lao động là thước đo
đầu vào lao động chính xác hơn số công nhân, nhưng người ta lại khó thu thập
được dữ liệu về giờ công. Việc điều chỉnh các đầu vào lao động có chất lượng khác


17

nhau (do tuổi tác, giới tính, trình độ…) vào cùng một biến lao động thuần nhất lại
càng khó khăn hơn nữa. Tương tự như vậy, phép đo vốn cũng gặp phải nhiều vấn
đề như mức sử dụng, tuổi thọ, khấu hao…Ngoài ra, nếu có tính kinh tế theo quy
mô, thì sản lượng gia tăng không tỷ lệ với gia tăng đầu vào. Thêm vào đó, nếu các
nhân tố sản xuất được phân bổ lại hiệu quả hơn giữa các vùng và các ngành, thì
tổng sản lượng có thể tăng cho dù các đầu vào không tăng. Việc định dạng một
hàm sản xuất trong những phân tích thực nghiệm cũng vấp phải một số vấn đề khó
khăn. Vì việc đo phần đóng góp của sự gia tăng đầu vào đối với tăng trưởng sản
lượng là rất khó khăn, nên tăng trưởng tổng nhân tố (dưới dạng phần dư) sẽ không
tránh khỏi sai số quan sát lớn. Để giảm bớt những sai số này, việc phân tích hạch
toán tăng trưởng sẽ trở nên vô cùng phức tạp. Tuy nhiên, trong luận văn này, phân
tích sẽ dựa trên phương trình tính toán đơn giản nhất, chỉ để tìm ra kết luận về
những yếu tố của tăng trưởng kinh tế.
Trước hết, ta xem xét hàm tổng sản xuất giả định dạng tổng quát đã đề cập ở
phương trình (1)
Y = AF (K, L) (1)
Giả thiết là F(K,L) thể hiện sản lượng được sản xuất từ K và L trong thời kỳ đầu,
tăng lên A lần nhờ tiến bộ công nghệ. Việc đưa ra giả thiết như vậy nhằm hàm ý
tiến bộ công nghệ trung lập theo cách xác định của Hick (năng suất cận biên của
vốn và lao động thay đổi cùng tốc độ với một tỷ lệ vốn – lao động cho trước).
Một giả thiết đơn giản hóa khác là tính thuần nhất tuyến tính và lợi tức không đổi
theo quy mô.
Khi đó, lấy vi phân phương trình (1) theo thời gian, ta thu được:
dY =dAF + AF
K
dK + AF
L
dL

Chia cả hai vế phương trình trên cho Y và sắp xếp lại, ta có:
Y
dY
=
A
dA
+
F

F

K
dK
+
F
FL

L
dL
(17)


18

Ký hiệu:
gY
,
gA, gK, gL lần lượt là tốc độ tăng trưởng của Y, công nghệ, vốn và lao động.
Vậy, phương trình (17) trở thành:
g

Y
=g
A
+
F

F

g
K
+
F
FL
g
L
(18)

Đây là phương trình liên kết tốc độ tăng trưởng sản lượng với tốc độ tiến bộ công
nghệ (còn gọi là số dư Solow hay tốc độ tăng trưởng của TFP) và tốc độ tăng vốn
và lao động.
Trong thực tế, các nhà nghiên cứu thường sử dụng dạng hàm sản xuất Cobb-
Douglas:
Y = AK
α
L
1-α

Hàm này thỏa mãn các giả định của mô hình Solow và có tỷ phần thu nhập nhân tố
cố định (tỷ phần của vốn bằng α, còn tỷ phần của lao động bằng 1- α)
Một khi ta ước lượng được tốc độ tăng trưởng của sản lượng, vốn và lực lượng lao

động và tìm được ước lượng của α, thì có thể giải phương trình (20) để tính tốc độ
tiến bộ công nghệ:
g
Y
=g
A
+ α g
K
+ (1-

α) g
L
(19)
g
A
= g y

- αg
K
- (1-

α) g
L
(20)
Trong đó, g
y
là tốc độ tăng GDP, g
K
là tốc độ tăng vốn hoặc tài sản cố định,
g

L
là tốc độ tăng lao động làm việc, α và (1-

α) là hệ số đóng góp của vốn và lao
động, thường được xác định bằng phương pháp hạch toán hoặc dựa trên hàm sản
xuất Cobb-Douglas.
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) cao, bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng
trưởng dài hạn và tránh được những biến động kinh tế từ bên ngoài. Tăng trưởng
kinh tế theo chiều sâu, thể hiện ở sự đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp
(TFP) cao và không ngừng gia tăng.

×