Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




PHẠM MINH THU



CHÍNH SÁCH TIỀN LƢƠNG TRONG KHU VỰC
NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ






HÀ NỘI – 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


PHẠM MINH THU



CHÍNH SÁCH TIỀN LƢƠNG TRONG KHU VỰC
NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM



Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 60.31.01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN NGỌC THANH



HÀ NỘI – 2008



1

MỤC LỤC
Mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chính sách tiền
lương trong khu vực nhà nước trong nền kinh tế thị trường
1.1 Tiền lương
1.1.1 Khái niệm
1.1.2 Chức năng - đặc điểm của tiền lương

1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương
1.2. Chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước
1.2.1 Khái niệm
1.2.2 Nội dung chính sách tiền lương
1.2.3 Vai trò và tác động của chính sách tiền lương trong khu
vực nhà nước đối với nền kinh tế
1.3 Kinh nghiệm của một số nước về chính sách tiền lương
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước
1.3.2. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Chương 2: Thực trạng chính sách tiền lương trong khu vực
nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1993 đến nay
2.1. Bối cảnh kinh tế xã hội và tính cấp thiết của việc cải cách
chính sách tiền lương
2.1.1 Bối cảnh kinh tế xã hội
2.1.2 Sự cần thiết đổi mới chính sách tiền lương
2.2 Thực trạng chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở
Việt Nam trong giai đoạn từ 1993 đến nay
2.2.1 Quá trình cải cách chính sách tiền lương trong khu vực
nhà nước
2.2.2 Một số vấn đề về tiền lương trong khu vực nhà nước ở
Việt Nam
2.3 Đánh giá chung về chính sách tiền lương trong khu vực nhà
3
8

8
8
12
16
17

17
23
30

33
33
42
45

45
45
47

48

48

58
67

2

nước ở Việt Nam
2.3.1 Thành tựu
2.3.2 Hạn chế
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cải cách chính sách tiền
lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới
3.1 Dự báo triển vọng của nền kinh tế và quan điểm cải cách
chính sách tiền lương ở Việt Nam
3.1.1 Triển vọng kinh tế Việt Nam

3.1.2 Quan điểm cải cách chính sách tiền lương
3.2 Một số giải pháp cải cách chính sách tiền lương
3.2.1 Những giải pháp chung
3.2.2 Những giải pháp cải cách chính sách tiền lương khu vực
doanh nghiệp Nhà nước
3.2.3 Những giải pháp cải cách chính sách tiền lương khu vực
HCSN
KÕt luËn
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o
67
68
70

70
70
73
75
75
77

78

80
82



















3


CÁC TỪ VIẾT TẮT

AFTA
Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
APEC
Diễn đàn Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương
ASEAN
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
BHXH
Bảo hiểm xã hội
CPI
Chỉ số giá cả hàng tiêu dùng
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTB

Chủ nghĩa tư bản
ĐTNN
Đầu tư nước ngoài
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
HCSN
Hành chính sự nghiệp
KHKT
Khoa học kỹ thuật
ILO
Tổ chức Lao động quốc tế
LĐ-TB-XH
Lao động – Thương binh – Xã hội
NSLĐ
Năng suất lao động
WTO
Tổ chức Thương mại thế giới




4


Mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài:
Việt Nam đang tham gia tích cực vào quá trình hội nhập vào nền kinh
tế thế giới. Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO và tổ chức hội nghị cấp cao lãnh

đạo kinh tế APEC 14 vào tháng 11/2006 đánh dấu một bước tiến vượt bậc của
quốc gia trên con đường phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu. Đóng góp
đáng kể trong tiến trình đó không thể không kể đến vai trò của Nhà nước
trong quản lý điều hành các chính sách vĩ mô: chính sách đầu tư, chính sách
thương mại, chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách việc làm, . Tuy
nhiên, chính sách tiền lương - một trong những chính sách vĩ mô còn nhiều
bất cập - đang đứng trước những thách thức lớn lao đòi hỏi bắt buộc phải cải
cách nhằm bảo đảm tính cạnh tranh của thị trường lao động, đồng thời bảo
đảm được quyền lợi của người lao động trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Bắt đầu từ năm 1993 đến nay, chính sách tiền lương đã qua nhiều lần
cải cách trong đó có thay đổi mức tiền lương tối thiểu và điều chỉnh lại cơ cấu
thang lương, bảng lương nhưng vẫn chưa đáp ứng được những mục tiêu đặt
ra. Tiền lương tối thiểu trên thực tế chưa đảm bảo được mức sống tối thiểu
như đúng ý nghĩa của nó, còn có sự phân biệt giữa tiền lương tối thiểu giữa
các loại hình doanh nghiệp - điều này mâu thuẫn với nguyên tắc “đối xử quốc
gia của WTO”. Hệ thống thang bảng lương phức tạp nhưng vẫn chưa đủ đáp
ứng tất cả các ngành nghề mới xuất hiện ngày càng nhiều trong nền kinh tế thị
trường. Tiền lương vẫn còn mang tính bình quân chưa thực sự gắn với năng
suất lao động và hiệu quả kinh doanh, chưa trở thành nguồn thu nhập chính
của người lao động. Cơ chế quản lý tiền lương còn chứa đựng nhiều yếu tố
bất hợp lý, tiền lương tối thiểu do Nhà nước công bố chưa trở thành lưới an
toàn bảo đảm lợi ích cho người lao động nói chung. Lương trong khu vực

5

công mặc dù đã được cải thiện đáng kể vẫn có xu hướng bị kìm nén hơn khu
vực ngoài Nhà nước.
Trước những yêu cầu thay đổi cấp bách, Đảng và Nhà nước đã chủ
trương về đổi mới chính sách tiền lương theo hướng kinh tế thị trường, trong
đó phải coi tiền lương là giá cả sức lao động, được hình thành trên thị trường

theo nguyên tắc thoả thuận, tiền lương phải là động lực đối với người lao
động và là điều kiện để doanh nghiệp hạch toán đúng, tạo ra sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Để có thể thực hiện sự đổi mới này một
cách có hiệu quả cần có cái nhìn tổng quát về tình hình thực trạng, học hỏi
kinh nghiệm của các quốc gia khác cũng như đề ra được các giải pháp và kiến
nghị có tính khả thi để cải cách chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước
trong thời gian tới. Đó là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài này làm luận văn tốt
nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu:
Trên thế giới, các nghiên cứu về chính sách tiền lương khá đa dạng và
phong phú. Có thể điểm qua những nghiên cứu như: “The impact of the
minium wage” của Jared Bernstein và John Schmitt, Viện chính sách kinh tế,
Washington, Mỹ; “Wage policy, employee turnover and productivity” của
Arnaud Chevalier, W. S. Siebert, Tarja Viitanen, Viện Nghiên cứu thay đổi xã
hội, Trường Đại học Dublin và Viện Nghiên cứu Lao động Đức; v.v… Tuy
nhiên phần lớn các nghiên cứu này mới tập trung ở lĩnh vực tiền lương tối
thiểu. Điều này chưa đủ để áp dụng tại Việt Nam, nơi rất cần vai trò quản lý
Nhà nước về tiền lương để đưa luật pháp lao động được thực thi đầy đủ. Trên
thực tế, tại Bộ LĐTB&XH – cơ quan thay mặt Chính phủ quản lý và điều
hành chính sách tiền lương, cũng đã có nhiều đề tài nghiên cứu thực trạng
chính sách tiền lương. Tuy nhiên những đề tài này thường chỉ đi sâu vào một
khía cạnh hoặc một phạm vi nhỏ của chính sách tiền lương. Ví dụ: Đề tài cấp
Bộ năm 1998 “Cơ chế quản lý tiền lương/tiền công đối với doanh nghiệp có

6

vốn đầu tư nước ngoài” do PTS. Nguyễn Quang Huề, Trưởng phòng Tiền
lương-Tiền công-Mức sống – Viện Khoa học Lao động và Xã hội làm chủ
nhiệm; Đề tài cấp Bộ năm 1997 “Cơ chế trả lương và quản lý Nhà nước về
tiền lương đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh” cũng do PTS.Nguyễn

Quang Huề làm chủ nhiệm; Đề tài cấp Bộ 1994 “Nghiên cứu tiền lương tối
thiểu theo vùng” do TS Nguyễn thị Lan Hương, Phó Viện trưởng Viện
KHLĐ&XH làm chủ nhiệm, Đề tài cấp Bộ 2003 “Xác định mức lương tối
thiểu trong thời kỳ 2006-2010 và các biện pháp giám sát để điều chỉnh mức
lương tối thiểu phù hợp với phát triển kinh tế xã hội, với thị trường lao động”
do Hoàng Minh Hào, Phó Vụ trưởng Vụ tiền lương-tiền công làm chủ nhiệm,
Đề tài cấp Bộ 2003 “Xác định những nguyên tắc cơ bản xây dựng thang lương,
bảng điểm, định mức lao động trong các doanh nghiệp” do Phạm Minh Huân,
Vụ trưởng Vụ tiền lương-tiền công làm chủ nhiệm, v.v Ngoài ra, những đề tài
này ít có sự tổng hợp kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, những nước có
cùng trình độ phát triển với Việt Nam. Đề án cải cách tiền lương do Bộ
LĐTBXH chủ trì vẫn còn trong giai đoạn triển khai từng bước và vẫn chưa
đặt được mức độ thành công như mong muốn bởi những tác động kinh tế xã
hội mà nó tạo nên.
Như vậy cần thiết có một đề tài nghiên cứu chính sách tiền lương một
cách tổng quát với đầy đủ ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đề tài đi sâu nghiên
cứu về cơ sở lý luận liên quan đến chính sách tiền lương, các bài học kinh
nghiệm trên thế giới, cùng với việc đánh giá những sự hợp lý cũng như bất
cập trong chính sách tiền lương hiện hành ở khu vực nhà nước của Việt Nam
sẽ đưa ra những khuyến nghị, giải pháp cho chính sách tiền lương trong thời
gian tới.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng chính sách tiền lương trong khu vực
nhà nước ở Việt Nam và một số kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, đề tài

7

đưa ra được một số giải pháp phù hợp cho cải cách chính sách tiền lương
trong khu vực này ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng : Luận văn nghiên cứu thực trạng chính sách tiền lương
trong khu vực nhà nước ở Việt Nam.
- Phạm vi: Trong khoảng thời gian 1993-2007.
Khu vực nhà nước trong luận văn này chỉ bao gồm khu vực hành
chính, sự nghiệp, và các doanh nghiệp nhà nước, không bao gồm các
lực lượng vũ trang (Quân đội và công an).
5. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên những nguyên tắc cơ bản của phép duy vật biện chứng và
phép duy vật lịch sử, Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích-tổng hợp, đối chiếu,
so sánh. Số liệu sử dụng trong luận văn sẽ được lấy từ các bộ số liệu điều tra
doanh nghiệp của Tổng cục thống kê và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.
6. Dự kiến đóng góp của đề tài:
 Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài, khảo cứu kinh
nghiệm của nước ngoài về chính sách tiền lương.
 Làm rõ thực trạng chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt
Nam trong giai đoạn 1993-2007.
 Đề ra một số giải pháp và khuyến nghị nhằm cải cách chính sách tiền
lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương như
sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về chính sách tiền lƣơng trong
khu vực nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng

8

Chƣơng 2: Thực trạng chính sách tiền lƣơng trong khu vực nhà nƣớc ở
Việt Nam trong giai đoạn từ 1993 đến nay
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp về cải cách chính sách tiền

lƣơng trong khu vực nhà nƣớc ở Việt Nam trong thời gian tới

Mặc dù đã hết sức nỗ lực và được sự giúp đỡ của các thày cô, đồng
nghiệp và gia đình, do còn hạn chế về tài liệu, số liệu và thời gian nghiên cứu,
luận văn của tôi vẫn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết cần sửa đổi và
bổ sung hoàn thiện. Tôi mong nhận được sự quan tâm và góp ý của các thày
cô, đồng nghiệp và tất cả những bạn đọc quan tâm đến chủ đề này.

9


CHƢƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƢƠNG TRONG
KHU VỰC NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
1.2 Tiền lương
1.2.1 Khái niệm :
1.2.1.1 Tiền lương/tiền công
Trong xã hội tư sản, sức lao động biến thành hàng hoá nên tiền công
chính là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của sức lao
động. Song dưới CNTB, tiền công che dấu sự bóc lột của nhà tư bản đối với
công nhân làm thuê. C.Mác viết: "Tiền công không phải là giá trị hay giá cả
của sức lao động, mà chỉ là một hình thái cải trang của giá trị hay giá cả sức
lao động"
1
. Như vậy, tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân nhìn bề ngoài
như rất sòng phẳng song kỳ thực nó đã che dấu một phần lao động thặng dư
mà nhà tư bản cướp không của công nhân, do giá cả sức lao động (biểu hiện
qua tiền công) thường nhỏ/thấp hơn giá trị sức lao động bởi luôn có nạn thất
nghiệp.
Sức lao động là yếu tố quyết định trong các yếu tố cơ bản của quá trình

sản xuất nên tiền công là vốn đầu tư ứng trước quan trọng nhất, là giá cả sức
lao động và là một phạm trù của sản xuất, yêu cầu phải tính đúng, tính đủ
trước khi thực hiện quá trình lao động sản xuất. Sức lao động là hàng hoá,
cũng như mọi hàng hoá khác, nên tiền công là phạm trù của trao đổi, nó đòi
hỏi phải ngang với giá cả các tư liệu sinh hoạt cần thiết nhằm tái sản xuất sức
lao động.
Sức lao động là một yếu tố của quá trình sản xuất cần phải bù đắp sau
khi đã hao phí, nên tiền công cần phải được thực hiện thông qua quá trình
phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, dựa trên hao phí lao động, hiệu


1
C.Mác-F.Ănghen: Tuyển tập, tập 2, NXB Sự thật, Hà Nội, 1962, tr.31.

10

quả lao động của người lao động. Do đó, tiền công là một phạm trù của phân
phối. Sức lao động cần phải được tái sản xuất thông qua việc sử dụng các tư
liệu sinh hoạt cần thiết, thông qua quỹ tiêu dùng cá nhân và do đó tiền công là
một phạm trù của tiêu dùng.
Theo từ điển giải nghĩa Kinh tế - kinh doanh (Anh – Việt), NXB Khoa
học và Kỹ thuật Hà Nội, 1996, các khái niệm tiền lương, tiền công, giá cả sức
lao động và thu nhập từ công ăn việc làm là những khái niệm đồng nghĩa
(Wages), gọi chung là giá cả sức lao động, một trong những yếu tố đầu vào
của sản xuất. Tuy nhiên, khái niệm tiền lương thường được dùng để trả cho
lao động là công chức, viên chức khu vực hành chính sự nghiệp, còn khái
niệm tiền công là khoản tiền trả cho lao động trong khu vực làm công ăn
lương (có quan hệ lao động) gắn với thị trường lao động.
Tiền lương và tiền công trong kinh tế thị trường liên quan đến quan hệ
lao động (labour relation) hay hẹp hơn là quan hệ công nghiệp (industrial

relation), quan hệ chủ - thợ. Nói một cách khác, tiền lương và tiền công thuộc
quan hệ lao động (hay quan hệ công nghiệp), giữa một bên là người sử dụng
lao động (chủ) và một bên là người lao động (thợ) trên thị trường lao động.
Theo Einkommen, tiền lương và tiền công được coi là sự trả công cho
việc làm đã được thực hiện. Tức là khoản tiền người sử dụng lao động trả cho
người lao động dưới hình thức tiền lương, tiền công sau khi người lao động đã
thực hiện một công việc nào đó mà người chủ thuê. Theo khái niệm này, tiền
lương, tiền công chỉ giới hạn trong quan hệ thuê mướn lao động (có quan hệ
lao động), theo nghĩa rộng hoặc trong quan hệ làm công ăn lương (quan hệ
chủ - thợ), theo nghĩa hẹp.
Theo David Begg, Stanley Fischer và Rudiger Dornbusch, tiền lương,
tiền công trả cho người lao động trong kinh tế thị trường (thị trường lao động)
phụ thuộc vào quan hệ cung cầu lao động, bao gồm 2 phần: tiền công tối thiểu
và tiền công kinh tế. Tiền công tối thiểu của yếu tố lao động được dùng làm

11

một việc nào đó là tiền trả tối thiểu cần thiết để thu hút yếu tố lao động vào
làm công việc đó. Còn tiền công kinh tế là tiền trả thêm cho yếu tố lao động,
thêm vào tiền công tối thiểu để thu hút lao động cung ứng sự phục vụ của
mình khi sử dụng làm công việc đó. Tiền công tối thiểu trả cho người lao
động khi đường cung lao động là đường nằm ở trạng thái cân bằng với đường
cầu lao động, mọi người lao động đều chấp nhận mức tiền công tối thiểu này.
Nhưng nếu đường cung lao động không nằm ngang, mà là đường cung dốc
lên, tức cầu lao động đòi hỏi cung lao động ở trình độ cao hơn, cung trở nên
khan hiếm hơn, thì người lao động phải trả thêm tiền công cao hơn cộng vào
tiền công tối thiểu, đó chính là tiền công kinh tế. Như vậy, tiền công kinh tế
phát sinh mỗi khi đường cung của yếu tố lao động không nằm ngang, lúc này
tiền công phải trả cao hơn vì cầu dẫn suất cao hơn để thu hút lao động vào
làm công việc đó. Mặc dù tiền lương, tiền công phụ thuộc vào quan hệ cung -

cầu lao động, nhưng mức tiền lương, tiền công phải dựa trên giá trị lao động
và có xu hướng là phải trả đúng giá trị lao động. Đó là những quan niệm rất
cơ bản về tiền lương, tiền công trong kinh tế thị trường và phản ánh quan hệ
cá nhân giữa người chủ sử dụng lao động và người lao động. Theo Durkhein,
nhà xã hội học nổi tiếng của Pháp cho rằng trong xã hội công nghiệp hiện đại
tiền lương, tiền công còn được coi như là một quan hệ kinh tế - xã hội. ủng hộ
quan niệm này, các nhà kinh tế thị trường xã hội cho rằng tiền lương, tiền
công là kết quả của các bên thỏa thuận thường có tác dụng như một giá tối
thiểu nằm bên trên mức cân bằng của trật tự thị trường lao động. Như vậy,
trên thị trường lao động, tiền lương, tiền công không được ấn định bằng tương
tác tự do giữa cung và cầu, mà là thông qua thỏa thuận tiền lương tiêu chuẩn
giữa giới thợ (công đoàn) và giới chủ sử dụng lao động.
Từ các quan niệm trên có thể khái quát bản chất của tiền lương, tiền
công trong kinh tế thị trường gồm 3 trụ cột sau:

12

- Tiền lương, tiền công là giá cả lao động, hay biểu hiện bằng tiền của
giá trị lao động mà người chủ sử dụng lao động trả cho người lao động làm
thuê.
- Tiền lương, tiền công phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu lao động trên
thị trường lao động, nhưng không được trả thấp hơn mức tiền lương, tiền công
tối thiểu cần thiết.
- Tiền lương, tiền công hình thành thông qua cơ chế thỏa thuận về tiền
lương tiêu chuẩn (tối thiểu) giữa giới thợ và giới chủ sử dụng lao động.
1.2.1.2 Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế
Tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp quan trọng trong nền sản
xuất hàng hoá nhiều thành phần hiện nay.
Tiền lương danh nghĩa là số tiền mà người sử dụng sức lao động trả cho
người bán sức lao động. Tiền lương thực tế, biểu hiện qua số lượng hàng hoá

tiêu dùng và các loại dịch vụ mà họ mua được thông qua tiền lương danh
nghĩa của họ. Do đó, tiền lương thực tế không những liên quan đến tiền lương
danh nghĩa mà còn phụ thuộc chặt chẽ vào sự biến động của giá cả hàng hoá
và dịch vụ. Mối quan hệ giữa tiền lương thực tế, tiền lương danh nghĩa với giá
cả hàng hoá và các công việc phục vụ có thể biểu thị qua công thức sau đây:
I
TCTT
=
GC
TCDN
I
I

Trong đó:
I
TCTT
- Chỉ số tiền lương thực tế
TCDN
I
- Chỉ số tiền lương danh nghĩa
GC
I
- Chỉ số giá cả
Qua công thức trên ta thấy chỉ số tiền lương thực tế thay đổi tỷ lệ thuận
với chỉ số tiền lương danh nghĩa và tỷ lệ nghịch với chỉ số giá cả.
1.2.1.3 Tiền lương tối thiểu

13

Trong nền kinh tế thị trường, do tiền lương bị chi phối bởi quy luật

cung-cầu lao động, việc tìm kiếm các biện pháp để bảo đảm mức tiền lương
thoả đáng cho người lao động đã từ lâu là mối quan tâm của Chính phủ các
nước.
Năm 1919, trong hiến chương thành lập của Tổ chức Lao động quốc tế
đã khuyến cáo “Bảo đảm mức tiền lương đủ sống cho người lao động” là một
trong những nội dung nhằm hoàn thiện các điều kiện lao động, an sinh xã hội
và thúc đẩy hoà bình. Công ước 131 về tiền lương tối thiểu do Tổ chức lao
động quốc tế ban hành năm 1970 và khuyến nghị 135 kèm theo đã xác định
“bảo đảm cho những người làm công ăn lương một sự đảm bảo xã hội cần
thiết dưới dạng mức tiền lương tối thiểu đủ sống”. Hay nói cách khác, tiền
lương tối thiểu là mức tiền lương duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu cho người
lao động.
Ở Việt Nam, điều 56 Bộ Luật Lao động chỉ rõ: “Mức lương tối thiểu
được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc
giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản
đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất mở rộng và được dùng làm căn cứ để
tính các mức lương cho các loại lao động khác”.
Như vậy, tiền lương tối thiểu (hay mức lương tối thiểu) là số lượng tiền
mà Nhà nước quy định để trả công cho lao động giản đơn nhất trong xã hội
trong điều kiện lao động bình thường. Đó là số tiền đảm bảo cho người lao
động có thể mua được tư liệu sinh hoạt và tiêu dùng thiết yếu cho tái sản xuất
sức lao động cá nhân và dành một phần bảo hiểm tuổi già và nuôi con. Tuỳ
thuộc phạm vi áp dụng mà tiền lương tối thiểu có thể là tiền lương tối thiểu
chung, tiền lương tối thiểu vùng và tiền lương tối thiểu ngành.
1.2.2 Chức năng - đặc điểm của tiền lƣơng
Theo lý thuyết kinh tế thị trường, tiền lương có các chức năng cơ bản
sau:

14


1.1.2.1 Thước đo giá trị của lao động:
Cũng như các yếu tố khác, lao động là yếu tố đầu vào quan trọng, thậm
chí quyết định của sản xuất. Trong kinh tế thị trường, sức lao động là hàng
hóa (loại hàng hóa đặc biệt), nên nó có giá trị. Người lao động khi bán sức lao
động của mình cho người sử dụng lao động, thì trong quá trình sử dụng sức
lao động đó nó có khả năng tạo ra giá trị mới của hàng hóa và dịch vụ lớn hơn
giá trị của bản thân nó. Người sử dụng lao động sau khi bán hàng hóa và dịch
vụ, trích một phần để trả lương cho người lao động tương ứng với giá trị của
lao động theo nguyên tắc trao đổi ngang giá. Đây là chức năng cơ bản nhất
của tiền lương và cũng thể hiện bản chất của tiền lương như là giá cả sức lao
động. Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường, tiền lương phụ thuộc và chịu sự
điều tiết của quy luật giá trị hàng hóa, quy luật cạnh tranh, quy luật cung –
cầu lao động… Do đó, nó có thể lên xuống, xoay xung quanh giá trị lao
động. Trong thực tế, trả đúng giá trị lao động là xu thế khách quan và cũng là
thực hiện nguyên tắc công bằng trong tiền lương. Đặc biệt, trong kinh tế thị
trường tiền lương được coi là sự hoàn trả giá trị lao động được phản ánh
thông qua giá trị việc làm đã được thực hiện. Giá trị việc làm phụ thuộc vào
tính chất kỹ thuật và công nghệ áp dụng cao hay thấp; tính chất kinh tế của
việc làm như thế nào (vị trí của việc làm trong quan hệ lao động, trong hệ
thống phân công lao động xã hội: quản lý (việc làm bậc cao), công nhân kỹ
thuật (việc làm bậc trung), nhân viên (việc làm bậc thấp)… Tương ứng với nó
là các yêu cầu về tri thức, năng lực nghề nghiệp (nhất là kỹ năng) và phẩm
chất của người lao động. Giá trị việc làm càng cao thì các mức trả lương càng
cao.
1.1.2.2 Duy trì và phát triển sức lao động:
Đây thực chất là chức năng tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở
rộng sức lao động. Người lao động làm thuê cho người sử dụng lao động và
nhận được tiền lương không những phải đủ thỏa mãn các nhu cầu vật chất và

15


tinh thần để duy trì cuộc sống của bản thân và gia đình họ, mà còn phát triển
sức lao động. Và do đó, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị lao động,
mang tính khách quan và phải là điểm xuất phát trong mọi bài toán của sản
xuất hàng hóa nói chung, của người sử dụng lao động nói riêng. Từ đó, tiền
lương không những phải đảm bảo đủ sống, mà còn phải được coi là đầu tư
cho phát triển con người, đầu tư cho phát triển.

16


1.1.2.3 Kích thích lao động:
Tiền lương là bộ phận cấu thành quan trọng trong giá trị hàng hóa và
dịch vụ. Tiền lương cũng là bộ phận thu nhập chính của người lao động nhằm
thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình. Do vậy,
nó gắn chặt với lợi ích thiết thân, sống còn của người lao động làm thuê và trở
thành động cơ trực tiếp kích thích người lao động làm việc. Khi độ lớn của
tiền lương phụ thuộc vào năng suất lao động cá nhân (mức đóng góp) và hiệu
quả sản xuất chung sẽ kích thích người lao động quan tâm nhiều hơn đến
năng suất, chất lượng và kết quả sản xuất cuối cùng. Do đó, người sử dụng lao
động thường sử dụng công cụ tiền lương như là đòn bẩy kinh tế quan trọng để
thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình
trong kinh tế thị trường.
1.1.2.4 Thúc đẩy chuyển dịch và phân bố nguồn lực lao động hợp lý:
Trong kinh tế thị trường, thị trường lao động tham gia vào điều chỉnh
các dòng di chuyển lao động, phân bố hợp lý nguồn lực lao động theo ngành,
khu vực trên phạm vi vùng, quốc gia và quốc tế, thực hiện phân công lao
động nhằm sử dụng có hiệu quả vốn nhân lực. Trong đó, tiền lương là một
trong những yếu tố cấu thành quan trọng của thị trường lao động (giá cả lao
động) và là lực hút mạnh mẽ thúc đẩy chuyển dịch lao động đến các ngành,

khu vực, vùng, nơi có tiền lương cao hơn, hấp dẫn hơn. Chức năng này thể
hiện mức tiền lương trả cho lao động được tính trên cơ sở giá trị cận biên, tức
là phụ thuộc vào tổng sản phẩm tiêu thụ và mức giá cả trên thị trường (giá trị
sản phẩm cận biên bằng sản phẩm cận lao động lao động nhân với giá của sản
phẩm cuối cùng). Mặt khác, tổng mức tiền lương quyết định tổng cầu về hàng
hóa và dịch vụ cần thiết phải sản xuất ra cũng như giá cả của nó. Do đó, tăng
các mức tiền lương phải dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (sản phẩm cận
biên). Việc tăng năng suất lao động luôn dẫn đến sự tái phân bố lao động.

17

Theo quy luật thị trường, lao động sẽ di chuyển và tái phân bố theo các
ngành, khu vực và vùng có năng suất lao động cao hơn để nhận được các mức
tiền lương cao hơn.
1.1.2.5 Tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực:
Phát triển nguồn nhân lực trong kinh tế thị trường phản ánh trình độ
phát triển cao của nền kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực là tạo cơ hội và năng
lực cho mọi người lao động trong phát triển, trở thành vốn nhân lực. Theo các
nhà kinh tế, vốn nhân lực là toàn bộ trình độ chuyên môn kỹ thuật mà một
người lao động có được do được đào tạo và tích lũy trong cuộc sống, trong
làm việc, là kết quả đầu tư trong quá khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong
tương lai. Theo lý thuyết về hoàn trả tiền lương trong đào tạo dựa trên cơ sở
vốn con người, vốn nhân lực thì trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động
càng cao, càng có khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động và có cơ hội
việc làm giá trị cao, làm việc có năng suất cận biên và hiệu quả lao động cao
hơn, do đó, sẽ có mức tiền lương cao hơn. Chính vì vậy, tiền lương được trả
đúng với giá trị lao động, phụ thuộc vào năng suất lao động cá nhân và kết
quả đầu ra của sản xuất sẽ trở thành động lực thúc đẩy phát triển nguồn nhân
lực.
1.1.2.6 Chức năng xã hội của tiền lương:

Trong kinh tế thị trường, chức năng xã hội của tiền lương thể hiện rất
rõ ở mức tiền lương tối thiểu đủ sống cho bản thân và gia đình người lao
động. Đó là mức sàn thấp nhất đảm bảo duy trì cuộc sống của bản thân người
lao động và gia đình với tư cách là một con người khi làm công việc giản đơn,
trong điều kiện lao động bình thường.
Tiền lương còn có chức năng xã hội rất lớn khi chính sách tiền lương
được đặt trong tổng thể chính sách việc làm và giải quyết vấn đề thất nghiệp.
Trong kinh tế thị trường, cạnh trạnh việc làm là rất quyết liệt và phụ thuộc
vào quan hệ cung – cầu lao động trên thị trường lao động. Một mức tiền

18

lương linh hoạt và theo mô hình hướng cầu sẽ tạo cơ hội việc làm cho nhiều
người với giá tiền lương đang thịnh hành và góp phần giảm thất nghiệp. Với
chức năng này, tiền lương được coi là một trong các giải pháp kích cầu để giải
bài toán xã hội về việc làm và thất nghiệp, nhất là trong một thị trường lao
động không hoàn hảo (thị trường dư thừa lao động).
Hơn nữa, xét về mặt xã hội, một mặt tiền lương thuộc quan hệ lao
động. Cùng với việc kích thích, không ngừng nâng cao năng suất lao động,
tiền lương là yếu tố kích thích xây dựng và phát triển, hoàn thiện quan hệ lao
động hài hòa, đồng thuận giữa các bên và vì lợi ích phát triển chung thông
qua đối thoại, thương lượng và thỏa thuận tiền lương giữa các bên. Mặt khác,
việc gắn tiền lương với năng suất lao động và hiệu quả kinh tế sẽ thúc đẩy
mối quan hệ hợp tác, cải thiện năng lực làm việc theo nhóm, trong môi trường
đa văn hóa, đa tôn giáo…, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện con người và
thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ, dân chủ, công bằng và văn
minh hơn.
1.2.3 Các yếu tố ảnh hƣởng đến tiền lƣơng
Như đã phân tích ở trên, tiền lương phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu
lao động trên thị trường lao động và tiền lương tối thiểu. Vì vậy những yếu tố

ảnh hưởng đến tiền lương chính là cung, cầu lao động và tiền lương tối thiểu.
1.2.3.1 Cung lao động
Cung lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận
được ở mỗi mức giá (tiền lương) nhất định. Ở mỗi mức giá có một lượng
cung nhất định. Cung lao động tỷ lệ thuận với giá cả. Khi giá tăng thì lượng
cung lao động sẽ tăng và ngược lại.
Cung trên thị trường lao động phụ thuộc vào tổng số lao động có thể
cung cấp, hay cụ thể hơn phụ thuộc vào quy mô dân số, tỷ lệ tham gia vào lực
lượng lao động, độ dài thời gian làm việc và chất lượng của lực lượng lao
động.

19

- Quy mô dân số
- Tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động
- Độ dài thời gian làm việc
- Chất lượng của lực lượng lao động
1.2.3.2 Cầu lao động
Cầu lao động là lượng lao động mà người thuê có thể thuê tại mỗi mức
giá (tiền lương) có thể chấp nhận được. Cầu về lao động là cầu dẫn xuất vì
xuất phát từ sản phẩm mới có nhu cầu về lao động để sản xuất ra sản phẩm
đó. Ở mỗi mức giá có một lượng cầu nhất định. Cầu lao động tỷ lệ nghịch với
giá cả sức lao động (tiền lương). Khi giá (tiền lương) tăng thì lượng cầu lao
động sẽ giảm và ngược lại.
Cầu lao động chịu ảnh hưởng tác động của các yếu tố: chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, tiến bộ khoa học kỹ thuật và hệ thống chính sách điều tiết
của Nhà nước.
- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật
- Hệ thống chính sách điều tiết của Nhà nước

1.2. Chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước
1.2.1 Khái niệm
1.2.1.1 Khái niệm về chính sách tiền lương:
Theo quan niệm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được
một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp
lại
2
.


2
Khoa Khoa học quản lý- Đại học KTQD: Giáo trình Chinhs ách trong quản lý kinh tế – xã hội –
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1998.

20

Chính sách kinh tế-xã hội là tổng thể các quan điểm tư tưởng phát triển,
những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục
tiêu phát triển của đất nước.
Một số đặc trưng cơ bản của chính sách kinh tế-xã hội:
- Chính sách là tư tưởng điển hình về các kiểu can thiệp của Nhà nước
vào kinh tế thị trường.
- Chính sách kinh tế-xã hội là hành động can thiệp của Nhà nước nhằm
giải quyết một hoặc một số vấn đề chính sách chín muồi. Đó là những vấn đề
lớn, có tầm ảnh hưởng rộng, mang tính bức xúc trong đời sống xã hội.
- Chính sách kinh tế-xã hội giải quyết những mục tiêu bộ phận, có thể
mang tính dài hạn, trung hạn hoặc ngắn hạn nhưng phải hướng vào việc thực
hiện những mục tiêu chung, mang tính tối cao của đất nước.
- Chính sách kinh tế-xã hội không chỉ thể hiện kế hoạch của các nhà
hoạch định chính sách mà còn bao gồm những hành vi thực hiện những kế

hoạch trên.
- Chính sách kinh tế-xã hội được Nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích
chung của nhiều người hoặc của xã hội. Thước đo chính để đánh giá, so sánh
và lựa chọn chính sách phù hợp là lợi ích mang tính xã hội mà chính sách đó
đem lại. Đây cũng chính là lý do để gọi các chính sách kinh tế-xã hội là chính
sách công.
- Chính sách là một quá trình do nhiều người, nhiều tổ chức tham gia.
Trước hết, chính sách kinh tế-xã hội là sản phẩm của các đường lối chính trị,
do Nhà nước, với tư cách là người tổ chức và quản lý xã hội xây dựng và chịu
trách nhiệm tổ chức thực thi. Tuy nhiên, quá trình này không chỉ có các tổ
chức Nhà nước tham gia. Trong quá trình dân chủ hoá chính sách, vai trò của
các tổ chức ngoài Nhà nước và dân chúng ngày càng được nâng cao.

21

- Chính sách kinh tế-xã hội có phạm vi tác động rộng lớn. Chính sách
có thể tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện vai trò can
thiệp của Nhà nước trong các lĩnh vực đó.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các chính sách kinh tế-xã hội có thể được
chia thành những nhóm chính sách sau:
- Các chính sách kinh tế như: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ,
chính sách thương mại, chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách đầu tư, v.v…
Đây là các chính sách điều tiết các mối quan hệ kinh tế nhằm tạo ra động lực
phát triển kinh tế.
- Các chính sách xã hội như: chính sách lao động, việc làm, chính sách
dân số và kế hoạch hoá gia đình, chính sách an sinh xã hội, chính sách giảm
nghèo, chính sách bảo vệ môi trường, chính sách dân tộc, v.v… Đây là
những chính sách điều tiết các mối quan hệ xã hội, là cho xã hội phát triển
theo hướng công bằng và văn minh.
- Các chính sách văn hoá như: chính sách giáo dục và đào tạo, chính

sách phát triển KH, KT và công nghệ, chính sách bảo tồn và phát huy di sản
văn hoá dân tộc, v.v… Đây là những chính sách nhằm phát triển nền văn hoá
với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển của xã hội.
- Chính sách đối ngoại là những chính sách điều tiết các mối quan hệ
đối ngoại của một quốc gia với các nước khác trên thế giới.
- Chính sách an ninh, quốc phòng là chính sách hướng vào tăng cường
tiềm lực an ninh, quốc phòng, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo điều kiện
cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Chính sách tiền lương là một chính sách xã hội điều tiết quan hệ tiền
lương trên thị trường lao động nhằm đảm bảo nâng cao năng suất lao động,
phát triển sản xuất và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao
động.

22

Chính sách tiền lương là phương thức hành động có tổ chức và điều
chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với quá trình tổ chức trả công lao động nhằm
đạt được các mục tiêu đã định của Nhà nước. Đối tượng điều chỉnh của chính sách
tiền lương là các chủ thể quan hệ lao động (người lao động, người sử dụng lao
động, v.v…).

23


1.2.1.2 Những yêu cầu và nguyên tắc cơ bản đối với tổ chức tiền lương
trong nền kinh tế:
Nội dung cơ bản của tổ chức tiền lương là xác định được những chế độ
và phụ cấp lương cũng như tìm được các hình thức trả lương thích hợp nhằm
nâng cao năng suất lao động, phát triển sản xuất và cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần của người lao động.

Khi tổ chức tiền lương cho người lao động cần đạt được các yêu cầu cơ
bản sau đây:
- Bảo đảm tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho người lao động.
- Làm cho năng suất lao động không ngừng nâng cao.
- Đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng, dề hiểu.
Để phản ánh đầy đủ những yêu cầu trên, khi tổ chức tiền lương bảo
đảm những nguyên tắc cơ bản sau đây:
1. Trả công ngang nhau cho lao động như nhau
Trả công ngang nhau cho lao động như nhau có nghĩa là khi quy định
các chế độ tiền lương, nhất thiết không phân biệt giới tính, tuổi tác, dân tộc.
2. Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân
Năng suất lao động là sự so sánh một khối lượng sản phẩm với một
khối lượng nguồn lực đầu vào được sử dụng để sản xuất ra một khối lượng
sản phẩm đầu ra trong một đơn vị thời gian nhất đinh. Như vậy năng suất lao
động cao hơn có nghĩa là việc sử dụng các nguồn lực đầu vào hiệu quả hơn và
với hiệu quả cao hơn. Năng suất cao hơn đem lại chi phí thấp hơn, chất lượng
cao hơn, giá cả rẻ hơn, tiền công và tiền lương cao hơn và với lợi nhuận từ
đâu tư cao hơn.

×