Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 128 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




LÊ THỊ THU HÀ



CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở BẮC NINH





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
















HÀ NỘI - 2009






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




LÊ THỊ THU HÀ






CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở BẮC NINH


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐÀO THỊ BÍCH THỦY













DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1
APEC
Asia- Pacific Economic
Cooperation Forum
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á –
Thái Bình Dương
2
ASEAN
Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á

3
CNH -
HĐH

Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
4
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
5
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
6
GNP
Gross National Product
Tổng sản phẩm quốc dân
7
GTSX

Giá trị sản xuất
8
IMF
International Monetary Fund
Quĩ Tiền tệ Quốc tế
9
ICOR
Incremental Capital - Output
Ratio
Hệ số sản lượng vốn tăng thêm

10
KCN

Khu công nghiệp
11
KTTĐ

Kinh tế trọng điểm
12
NICs
Newly Industrialized
Countries
Các nước công nghiệp mới
13
NNL

Nguồn nhân lực
14
ODA
Official Development
Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
15
XDCB

Xây dựng cơ bản
16
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới

17
WB
World Bank
Ngân hàng Thế giới





DANH MC BNG BIU
STT
Tờn bng chng 2
Trang
Bng 2.1
C cu GDP cỏc ngnh kinh t ca tnh Bc Ninh t 1997-
2008
43
Bng 2.2
Tc tng trng GTSX giai on 1997-2008 theo cỏc
ngnh kinh t (Theo giỏ so sỏnh 1994)
44
Bng 2.3
C cu GDP ngnh nụng nghip tnh Bc Ninh giai on t
1997-2008
48
Bng 2.4
Tỡnh hỡnh chuyn dch c cu trong ni b ngnh nụng
nghip t 1997-2008
49
B

ng 2.5

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu gieo trồng từ 1997-2008
50
B

ng 2.6

Kết quả chăn nuôi của tỉnh Bắc Ninh từ 1997-2008
53
Bng 2.7
Thc trng chuyn dch c cu trong ngnh cụng nghip -
xõy dng t 1997-2008
55
Bng 2.8
úng gúp ca mt s ngnh dch v ch cht vo GDP giai
on 1997-2008
59
B
ng 2.9
Cơ cấu lao động của tỉnh Bắc Ninh trong các ngành kinh tế
65
Bảng 2.10
Trình độ lao động trong các ngành kinh tế của tỉnh Bắc
Ninh
67

Tên bảng ch-ơng 3

Bng 3.1

D kin ch tiờu chuyn dch c cu ngnh kinh t n nm
2015 v 2020 ca tnh Bc Ninh
82

Tờn biu chng 2


Biu 2.1
C cu GDP phõn theo ba ngnh kinh t
44
Biu 2.2
C cu lao ng theo ba ngnh kinh t
66




MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Mở đầu
Trang

Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1
1.1. Khái niệm và phân loại cơ cấu ngành kinh tế
1
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế

1
1.1.2. Cơ cấu ngành kinh tế
2
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
6
1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa và các yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế
6
1.2.2. Những chỉ tiêu và nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế
10
1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại một số địa phương
ở nước ta giai đoạn từ 1997 đến nay
18
1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Hưng Yên
19
1.3.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Vĩnh Phúc
23
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế ở tỉnh Bắc Ninh
28
Kết luận chương 1
29
Chương 2. Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
tỉnh Bắc Ninh
30
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
ở Bắc Ninh
30
2.1.1. Vị trí địa lý

30
2.1.2. Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và dân số
31


2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
35
2.1.4. Vai trò của Nhà nước, nhu cầu của thị trường trong từng giai đoạn
phát triển
37
2.1.5. Cách mạng khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hoá, khu vực
hoá
39
2.2. Tổng quan về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh từ
năm 1997 đến nay
42
2.3. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ
47
2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp - lâm nghiệp - thuỷ
sản
47
2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng
55
2.3.3. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành dịch vụ
58
2.4. Chuyển dịch cơ cấu lao động
64
2.4.1. Về cơ cấu lao động theo ba ngành kinh tế
64

2.4.2. Về chất lượng nguồn nhân lực
67
2.5. Đánh giá chung sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh
68
2.5.1. Những thành tựu
68
2.5.2. Những tồn tại và nguyên nhân
70
Kết luận chương 2
72
Chương 3. Quan điểm và giải pháp chủ yếu thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh trong những năm
tới
74
3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế tác động đến chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở Bắc Ninh
74
3.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế
74
3.1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới
77


3.2. Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh
79
3.2.1. Các quan điểm phát triển
79
3.2.2. Các mục tiêu phát triển
79
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh

85
3.3.1. Các giải pháp vĩ mô thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
85
3.3.2. Giải pháp phát triển từng ngành
95
Kết luận chương 3
103
Kết luận
105
Danh mục tài liệu tham khảo
107



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, đất nước ta bước
vào thời kỳ đổi mới toàn diện để phát triển nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta
đang phát triển với ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, để thực
hiện quá trình CNH - HĐH đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong
những vấn đề quan trọng hàng đầu, trong đó đặc biệt chú trọng tới vùng
KTTĐ của đất nước.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng
KTTĐ Bắc Bộ: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có vị trí thuận lợi để phát
triển kinh tế. Cũng như các tỉnh khác trong cả nước, Bắc Ninh đã và đang nỗ
lực thực hiện theo đường lối của Đảng: tiến hành CNH - HĐH nông nghiệp
nông thôn gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Xuất phát điểm là một tỉnh thuần nông, có cơ cấu ngành kinh tế không
cân đối, ngành công nghiệp thấp kém, do đó thực hiện công cuộc hiện đại hoá

nông nghiệp nông thôn là một vấn đề hết sức khó khăn đối với Bắc Ninh.
Ngay từ thời kỳ đầu tái lập (01/01/1997), Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra kế
hoạch chính sách phát triển kinh tế gắn với chuyển dịch mạnh cơ cấu ngành
kinh tế, phấn đấu đưa Bắc Ninh thoát ra khỏi tình trạng thấp kém.
Đến nay, Bắc Ninh đã đạt được nhiều kết quả đáng kể trong lĩnh vực
kinh tế - xã hội: GDP liên tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hướng: tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm, tăng tương ứng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện.
Có được thành tựu như vậy là do Bắc Ninh đã xác định được một
hướng đi phù hợp, hoà nhập được với tinh thần chung của cả nước cũng như


xu thế phát triển của thế giới, xây dựng được một cơ cấu ngành kinh tế hợp
lý, tận dụng được ưu thế riêng của tỉnh để phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Bắc Ninh vẫn còn bộc lộ
một số mặt yếu kém như: tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa xứng với lợi thế của
tỉnh, GDP bình quân đầu người chưa cao, thu hút vốn đầu tư bên ngoài vào
chưa mạnh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, tỷ trọng dịch vụ trong GDP
đạt thấp.
Do vậy, tiếp tục hoàn thiện cơ cấu ngành kinh tế để phát huy lợi thế so
sánh của Bắc Ninh là một vấn đề hết sức cấp bách, phù hợp với tinh thần Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X; với chính sách phát triển kinh tế của tỉnh và
trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế thế giới hiện nay. Chính vì lẽ đó, tác giả
chọn “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh” làm đề tài của luận văn
Thạc sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu:
Cho đến nay, nhiều công trình nghiên cứu đề cập ở các cấp độ khác
nhau về quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh đã được
công bố. Cụ thể là:
“Bắc Ninh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2001-

2005” của Nguyễn Hữu Thành, (2005) - tạp chí Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, số 17, tr. 8-12. Trong bài này, tác giả đã phân tích thực trạng
chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2001 - 2005, đánh
giá thành công và hạn chế, sau đó đưa ra giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu ngành này trong những năm tới. Vì phạm vi của bài viết chỉ dừng lại ở
ngành nông nghiệp, phạm vi thời gian trong một giai đoạn ngắn nên chưa
phản ánh được rõ nét bức tranh về các ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh.
“Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh từ 1986-2005 và một số
giải pháp, kiến nghị” - Bài tham luận tại Hội thảo Khoa học: Chuyển dịch cơ


cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh từ 1986-2005 của tác giả Ngô Văn Tuệ - Cục
Thống kê Bắc Ninh.
“Động thái kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh 1997 - 2005”, Nxb Thống kê
(2006). Qua đó, những số liệu về các lĩnh vực kinh tế - xã hội của tỉnh đã
được phân tích và tập hợp một cách hệ thống và khá đầy đủ, vấn đề chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 1997 - 2005 cũng được khái quát qua tài
liệu này. Tuy nhiên, phạm vi thời gian chỉ tính đến năm 2005 nên đến nay
công trình này không còn phù hợp để phản ánh thực trạng chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh.
“Nông thôn, nông nghiệp và nông dân Bắc Ninh trên đường đổi mới”
của Trần Văn Tuý (Chủ biên), Nxb Thống kê (2008). Tuy không đề cập sâu
về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhưng cuốn sách này được ví như một
kho thông tin về nông thôn, nông nghiệp và nông dân Bắc Ninh rất đồ sộ và
phong phú. Nó giúp người đọc hình dung phần nào về sự chuyển dịch cơ cấu
ngành nông nghiệp và định hướng phát triển ngành này sau hơn 10 năm tái
lập tỉnh.
Bên cạnh đó, còn một số tài liệu về Bắc Ninh như: Báo cáo thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và Báo cáo thực hiện kế hoạch
5 năm 2001 - 2005 của Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh; bài viết của tác giả

Nguyễn Thế Thảo, (2003), “Bắc Ninh: Thành tựu đột phá và triển vọng đến
năm 2010” - Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 8, tr. 22-24; (2002), “Bắc Ninh và
5 giải pháp thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”
- Tạp chí Nông thôn mới, số 1+2, tr. 64-65.
Những nghiên cứu trên vì mục đích và yêu cầu khác nhau nên nhìn
chung chưa thoả đáng để phản ánh một cách có hệ thống về chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến nay. Trong quá trình hội
nhập nền kinh tế thế giới hiện nay, Bắc Ninh định hướng phát triển kinh tế


theo hướng CNH - HĐH thì liệu sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với tốc
độ như các giai đoạn trước có còn phù hợp không? Đây là một trong những
câu hỏi đặt ra cho đề tài “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh”.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh
từ năm 1997 đến nay và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế.
- Phân tích chuyển dịch cơ cấu ngành và chuyển dịch trong nội bộ
ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến nay.
- Từ đó đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc
Ninh

- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh.
+ Về thời gian: Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh
Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2008.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình nghiên cứu, kết hợp cùng các
phương pháp như: tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, lôgic, xử lý các
nguồn số liệu và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
Đồng thời, luận văn cũng tham khảo các công trình nghiên cứu đã được
công bố, kế thừa kết quả để làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.


6. Dự kiến đóng góp của luận văn:
- Trình bày một cách hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế.
- Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc
Ninh.
- Làm rõ những nhân tố tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh: quá trình xây dựng cơ cấu ngành kinh tế hợp
lý và tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới.
7. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm có 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế.
- Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh trong những năm tới












1
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH KINH TẾ
1.1. Khái niệm và phân loại cơ cấu ngành kinh tế
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
Khái niệm cơ cấu kinh tế được định nghĩa khác nhau tuỳ thuộc vào
cách tiếp cận, nghiên cứu. Khi tìm hiểu về cơ cấu kinh tế, cần làm rõ khái
niệm về cơ cấu.
Cơ cấu là một khái niệm mà triết học duy vật biện chứng dùng để chỉ
cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống. Biểu hiện sự thống nhất của
các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong khi chỉ rõ
mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện ra như là một
thuộc tính của sự vật, hiện tượng, và biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật,
hiện tượng [25, tr. 269 - 270]. Bởi vậy khi nghiên cứu về cơ cấu của một đối
tượng nào đó cần phải tiếp cận một cách hệ thống đối với nó.
Cũng như vậy đối với nền kinh tế quốc dân, khi xem nó là một hệ
thống phức tạp, có thể thấy rất nhiều các bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp
thành của chúng. Nếu đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ

thống có thể hiểu: Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố
của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, tương tác qua lại
cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế -
xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Do vậy,
cơ cấu kinh tế là phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã
hội.
Theo lý luận kinh tế chính trị, khi phân tích quá trình phân công lao
động xã hội, Các Mác đã nhấn mạnh: “Cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ
những quan hệ sản xuất phù hợp với một quá trình phát triển nhất định của


2
các lực lượng sản xuất vật chất”[5, tr. 7]. Đó là tính thống nhất giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất trong khái niệm cơ cấu kinh tế, là kết quả của sự
phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng.
Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: “Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân
là tổng thể những mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế: Các
lĩnh vực (sản xuất, trao đổi, tiêu dùng), các ngành (công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ), các thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, cá thể) hay các vùng
kinh tế.[19, tr. 21].
Nhìn chung, có thể hiểu một cách đơn giản cơ cấu kinh tế là tổng thể
các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một quốc gia.
Trong quá trình vận động của nền kinh tế, chúng có quan hệ tương tác lẫn
nhau về số lượng, tỷ trọng và cùng hướng vào những mục tiêu đã xác định.
Nền kinh tế quốc dân dưới góc độ cấu trúc là sự đan xen của nhiều loại
cơ cấu khác nhau, có mối quan hệ chi phối lẫn nhau trong quá trình phát triển
kinh tế. Trên bình diện vĩ mô, có các loại cơ cấu kinh tế cơ bản là cơ cấu
vùng, lãnh thổ; cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế.
1.1.2. Cơ cấu ngành kinh tế

1.1.2.1. Khái niệm
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp ngành kinh tế được hình thành trên các
tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ tổng hợp giữa các ngành với nhau
phản ánh trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh tế và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội.
Biểu thị cơ cấu ngành kinh tế bằng vị trí, tỷ trọng của mỗi ngành trong
hệ thống nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu vùng, lãnh thổ được hình thành bởi
việc bố trí không gian địa lý. Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ
cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Tuỳ theo tiềm năng


3
phát triển kinh tế, gắn liền với sự hình thành phân bố dân cư trên lãnh thổ để
phát triển tổng hợp hay ưu tiên một vài ngành kinh tế nào đó. Trong khi đó,
cơ cấu thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với các chế độ sở
hữu khác nhau có khả năng thúc đẩy phân công lao động xã hội. Cơ cấu thành
phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu
vùng, lãnh thổ trong quá trình phát triển.
Trong ba loại cơ cấu trên của cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế là
biểu hiện quan trọng nhất và đặc trưng nhất. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, vai trò của từng ngành trong phát
triển kinh tế-xã hội, căn cứ vào điều kiện thực tế để phát triển chúng. Thay
đổi nhanh chóng và mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của nền kinh tế
nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển khác.
Một số đặc trưng của cơ cấu ngành kinh tế bao gồm: bị chi phối bởi các
quy trình kỹ thuật, công nghệ và yêu cầu thị trường; bị ràng buộc bởi tính hệ
thống và yêu cầu cân đối (hay ở chừng mực nào đó là yêu cầu đồng bộ); đan
xen tính hiện đại và tính lạc hậu; bị chi phối bởi các yếu tố chính trị, xã hội.
Để xem xét số lượng các ngành tạo nên nền kinh tế và chất lượng các
mối quan hệ giữa chúng với nhau ra sao, người ta thường chia nền kinh tế

thành các nhóm ngành để quan sát. Theo quan điểm của tác giả Ngô Doãn
Vịnh, về mặt định lượng, cơ cấu ngành kinh tế bao gồm số ngành kinh tế và
tỷ trọng trong mỗi ngành đó trong tổng thể nền kinh tế quốc dân; về mặt định
tính, cơ cấu ngành thể hiện mối quan hệ giữa các ngành kinh tế và vị trí của
mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân. Trong mối quan hệ giữa các ngành
kinh tế thường biểu hiện hai mối quan hệ chủ yếu, gồm: ngành có mối quan
hệ trực tiếp, trong đó có các ngành quan hệ ngược chiều, các ngành quan hệ
xuôi chiều và ngành quan hệ gián tiếp.[29, tr.99-100].


4
Cơ cấu ngành kinh tế hình thành trên cơ sở phân công lao động xã hội
và chuyên môn hoá sản xuất. Do đó, nó phản ánh phần nào trình độ sản xuất
và phân công lao động xã hội của một quốc gia.
Nghiên cứu các loại cơ cấu kinh tế nhằm tìm ra cách thức duy trì tính
hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung cao nguồn lực có
hạn của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Từ đó thúc đẩy sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh chóng nhất, có hiệu quả nhất.
1.1.2.2. Phân loại cơ cấu ngành kinh tế
Có nhiều cách phân loại các ngành hợp thành trong cơ cấu ngành kinh
tế. Tuy nhiên, căn cứ vào phân ngành của Tổng cục Thống kê Việt Nam, có
thể nhìn nhận nền kinh tế nước ta là tổng hòa của ba nhóm ngành sau:
Nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp (ngành nông nghiệp), gồm các ngành
trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp; Nhóm ngành công nghiệp và xây
dựng (ngành công nghiệp), gồm các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp
khai thác, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp lọc dầu,
ngành xây dựng; Nhóm ngành dịch vụ gồm các ngành thương mại, du lịch, giao
thông vận tải, tài chính ngân hàng, bưu điện và các ngành dịch vụ khác.
Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa trên phương thức, công nghệ sản xuất:
nông nghiệp và phi nông nghiệp. Việc phân chia cơ cấu kinh tế thành hai nhóm

ngành này để quan sát trình độ của cơ cấu, yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế. Khi phân tích theo hai nhóm ngành này, chúng ta cần quan sát
phương thức, công nghệ tạo ra sản phẩm. Khi nhóm ngành phi nông nghiệp càng
phát triển và chiếm tỷ trọng càng lớn thì nền kinh tế càng phát triển ở trình độ cao.
Nhóm ngành nông nghiệp gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp;
nhóm ngành phi nông nghiệp gồm các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Đối với các nước đang phát triển thì việc xem xét cơ cấu ngành kinh tế theo kiểu
này có ý nghĩa to lớn. Việc chuyển dân cư nông thôn sang sống tại các đô thị và


5
chuyển lao động nông nghiệp sang làm việc trong các khu vực phi nông nghiệp là
vấn đề có tính quy luật tiến tới sự hiện đại; sự chuyển động này đến một mức đô
nào đó thì nền kinh tế được coi là phát triển. Ở các nước đang phát triển, các
ngành nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế; khi đó công nghệ
của nền kinh tế không cao.[30, tr.100].
Căn cứ vào phương thức sản xuất, người ta còn chia các ngành thành hai
nhóm sau đây:
- Cơ cấu giữa các doanh nghiệp theo quy mô. Tức là, cơ cấu giữa doanh
nghiệp quy mô nhỏ, vừa và doanh nghiệp quy mô lớn. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng nhạy nhanh, kịp thời với những biến động
kinh tế trong một quốc gia hay trên phạm vi toàn thế giới. Nhờ đó, có thể giảm
thiểu tổn thất cho đầu tư và cho sản xuất. Mặt khác, một vấn đề quan trọng cần
chú ý trong bối cảnh toàn cầu hoá là luôn tồn tại sự cạnh tranh khốc liệt. Những
tập đoàn kinh tế lớn mạnh có điều kiện cạnh tranh tốt hơn. Vì thế, bên cạnh việc
khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần đặc biệt chú ý tạo dựng
những tập đoàn kinh tế lớn.
- Cơ cấu giữa các doanh nghiệp có công nghệ trình độ cao với các doanh
nghiệp có công nghệ trình độ trung bình. Dù hiển nhiên những doanh nghiệp có
công nghệ cao sẽ quyết định sự phát triển của cơ cấu kinh tế, nhưng trong khi lao

động cần việc làm có số lượng lớn và lực lượng lao động có chất lượng không cao
thì việc phát triển các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động vô cùng cần thiết. Nó
không chỉ góp phần giải quyết việc làm mà còn có ý nghĩa toàn dụng lao động để
tăng trưởng kinh tế.
Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa vào tính chất sản phẩm cuối cùng: nhóm
ngành sản xuất sản phẩm vật chất và nhóm ngành sản xuất sản phẩm dịch vụ.
Việc phân chia cơ cấu kinh tế theo hai nhóm ngành này nhằm nghiên cứu về mức
độ hài hoà giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình CNH-HĐH


6
nền kinh tế không thể không quan sát quan hệ giữa hai khối ngành này. Dịch vụ
phát triển được coi như làm “trơn tru” các quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu khu
vực sản xuất phát triển mà khu vực dịch vụ không phát triển thì sản xuất cũng sẽ
bị ngưng trệ. Sự hài hoà giữa hai khối ngành này là rất cần thiết. Nếu xét theo
hành vi tăng trưởng (hành vi tham gia tăng trưởng) thì các ngành sản xuất ra các
sản phẩm dịch vụ có quan hệ khăng khít với nhau theo một tương quan nhất định.
Đặc trưng tiêu biểu nhất là các ngành dịch vụ phải tăng nhanh hơn các ngành sản
xuất vật chất. [30, tr.101].
Khi xem xét cơ cấu ngành kinh tế, chúng ta cũng phải chú ý đến tỷ trọng
hay mức đóng góp của các sản phẩm chủ lực cho nền kinh tế, cũng như của các
sản phẩm chứa hàm lượng công nghệ cao, hàm lượng chất xám cao. Nếu như các
sản phẩm này chiếm tỷ trọng càng lớn thì nền kinh tế càng tốt và ngược lại. Một
nền kinh tế được xem là phát triển phải có các ngành chế tạo chiếm tỷ trọng lớn
trong GDP (trên 30%). Mặt khác, phải chú ý đến cơ cấu nội bộ của các ngành
kinh tế. Tính hợp lý trong nội bộ của các ngành và cơ cấu ngành kinh tế sẽ đảm
bảo tính hiệu quả cho sự phát triển nền kinh tế.
Nghiên cứu cơ cấu giữa hai nhóm ngành sản xuất vật chất và khối sản xuất
sản phẩm dịch vụ nhằm phát huy toàn diện, đầy đủ quan hệ giữa chúng làm cho
nền kinh tế có sức mạnh tổng hợp, phát triển cân đối, hài hoà giữa các mặt, giữa

đầu vào và đầu ra. Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân luôn vận động và phát triển,
việc phân tích và đưa ra hướng điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế thích hợp trong
quá trình đổi mới và thực hiện CNH - HĐH là vấn đề hết sức cần thiết.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa và các yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế
1.2.1.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế


7
Quá trình phát triển kinh tế, đồng thời cũng là quá trình làm thay đổi cơ
cấu kinh tế (trong đó có cơ cấu ngành kinh tế) cả về tỷ lệ, số lượng và chất
lượng. Sự ổn định của cơ cấu kinh tế chỉ là tương đối, nó thường xuyên ở
trạng thái vận động và biến đổi không ngừng. Sự biến đổi ấy phụ thuộc vào cả
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, như: điều kiện tự nhiên,
khoa học công nghệ, trình độ phân công lao động xã hội, sự liên kết hợp tác
kinh tế và nhân tố chủ quan của nhà nước… Trong đó có nhân tố quan trọng
và dễ dàng nhìn nhận thấy đó là quá trình chuyên môn hoá trong phạm vi
quốc gia và mở rộng chuyên môn hoá quốc tế, thay đổi công nghệ, tiến bộ kỹ
thuật. Chuyên môn hoá mở đường cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng
công nghệ tiên tiến, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Bên cạnh đó, tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ lại thúc đẩy quá trình
chuyên môn hoá. Điều đó làm cho tỷ trọng các ngành truyền thống giảm đi, tỷ
trọng các ngành dịch vụ kỹ thuật mới tăng lên nhanh chóng và dần dần chiếm
ưu thế. Phân công lao động và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ ngày càng phát
triển sâu sắc tạo ra những tiền đề cho việc phát triển các yếu tố sản xuất. Và
ngược lại, việc phát triển thị trường các yếu tố sản xuất lại thúc đẩy quá trình
phát triển, tăng trưởng kinh tế và do vậy làm sâu sắc thêm quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.[27, tr.13-14].
Thực chất của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự phát

triển không đồng đều giữa các ngành. Ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc
độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ tăng tỷ trọng và ngược lại, ngành có
tốc độ phát triển thấp hơn sẽ giảm tỷ trọng. Nếu tất cả các ngành có cùng một
tốc độ tăng trưởng thì tỷ trọng các ngành sẽ không đổi, nghĩa là không có
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Do vậy có thể hiểu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự thay đổi cả
về vị trí, vai trò, số lượng và chất lượng của các yếu tố, bộ phận hợp thành


8
các ngành kinh tế đã có sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, lịch sử, kinh
tế và xã hội của một nước.
Mục tiêu của sự chuyển dịch là đạt được sự hài hòa, hợp lý giữa các bộ
phận trong một chỉnh thể thống nhất của nền kinh tế quốc dân hay của khu
vực nào đó. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải phản ánh được sự tác động của
quy luật khách quan và phù hợp với các quy luật phát triển khách quan đó.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc các quy luật ấy, người ta phân tích và đánh giá
những xu thế phát triển để tìm ra phương án thay đổi cơ cấu có hiệu lực nhất
trong từng điều kiện cụ thể.
Ngày nay, kinh tế học phát triển coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một
trong những nội dung trụ cột phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Sự
khẳng định này là bước tiến quan trọng trong lí luận nhận thức và tư duy
chính sách kinh tế. Thực tế, những quốc gia đạt mức độ tăng trưởng kinh tế
cao nhưng cơ cấu của nền kinh tế vẫn ít có sự thay đổi, thậm chí có sự tách
rời giữa khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại với các khu vực nông nghiệp
lạc hậu; vì vậy, khu vực nông nghiệp với đông đảo nông dân nghèo khó vẫn
không chia sẻ những thành quả của tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình phát triển, tỉ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ
trong GDP tăng, nhất là công nghiệp chế biến trong khi tỉ trọng của nông
nghiệp trong GDP giảm. Sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế phản ánh mức độ

thay đổi của phương thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những khu
vực có năng suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn có tốc độ phát triển cao hơn
và thay thế những khu vực sản xuất kinh doanh có năng suất lao động và giá
trị gia tăng thấp. Đặc biệt, một vài thập kỉ gần đây, sự phát triển của khu vực
dịch vụ được xem là một trong những đặc trưng mới của xu hướng phát triển
thế giới nên cách tiếp cận vấn đề cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu trong quá trình
phát triển nền kinh tế có những thay đổi.


9
Tuy nhiên, phải lưu ý đến tính khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh
tế mang tính qui luật thông qua các xu hướng dưới đây:
- Xu hướng chuyển dịch cơ cấu của kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng
hóa, tức là từ một nền kinh tế có kết cấu giản đơn sang nền kinh tế có mối
quan hệ phức tạp và ở một trình độ cao hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay, việc tận dụng, khai thác lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối, tranh thủ sự
phân công lao động quốc tế để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng này
được nhiều quốc gia chọn lựa.
- Xu hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất và lao động trong công nghiệp
và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Nguyên nhân là do chi tiêu cho
các loại hàng hóa thiết yếu sẽ giảm khi thu nhập tăng. Do vậy, nhu cầu về sản
phẩm công nghiệp và dịch vụ sẽ phát triển nhanh hơn nhu cầu về sản phẩm
nông nghiệp. Mặt khác, do đặc tính sinh học của cây trồng, vật nuôi và đất
canh tác có tác hại nên nông nghiệp phát triển chậm hơn công nghiệp và dịch vụ.
- Xu hướng đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của con người luôn tịnh tiến cùng với thu nhập. Chính quy luật thị trường và
lợi ích là động lực tác động đến sản xuất, làm cho sản xuất phát triển nhanh
theo xu hướng đa dạng hóa sản phẩm.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với sự biến đổi không
ngừng của các yếu tố, bộ phận và những quan hệ hợp thành của nền kinh tế

quốc dân. Nó là một quá trình tất yếu của một quốc gia, đặc biệt là sự phát
triển trong quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu hiện nay.
1.2.1.2. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế do yêu cầu của CNH-HĐH. Đảng ta
đã xác định: “Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động kinh tế-xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện và phương pháp


10
tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động cao. Đối với nước ta đó là một
quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, xã hội nhằm cải biến một xã
hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp gắn với việc hình
thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản
chất của chế độ mới".[15].
Trong điều kiện nước ta, ngành nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn
trong GDP, GDP bình quân đầu người còn thấp so với trung bình của thế giới.
Để thoát khỏi tình trạng lạc hậu kém phát triển, việc tiến hành CNH-HĐH đất
nước là vấn đề quan trọng hàng đầu. Theo một chuyên gia kinh tế của Ngân
hàng thế giới - Tatyana P.Soubbotina: “Công nghiệp hoá là giai đoạn phát
triển kinh tế của một nước, trong đó công nghiệp tăng trưởng nhanh hơn nông
nghiệp và dần dần đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế”.[44]. Vì thế, vai trò
hết sức to lớn của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là nhằm khai thác và sử
dụng có hiệu quả nguồn lực để tìm ra các ngành kinh tế mũi nhọn, thiết lập
mối quan hệ chặt chẽ giữa các ngành kinh tế trong tổng thể nền kinh tế để tạo
đà cùng nhau phát triển.
Ngày nay, xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh
mẽ, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giúp các quốc gia có thể phát huy được
lợi thế so sánh của mình, có điều kiện tiếp thu trình độ khoa học - công nghệ
tiên tiến nhằm nâng cao tính hiệu quả và mở rộng hơn quan hệ hợp tác kinh

tế quốc tế trên mọi lĩnh vực.
1.2.2. Những chỉ tiêu và nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế
1.2.2.1. Những chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu kinh tế phản ánh cả về lượng lẫn về chất mối tương quan tỷ lệ
giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế. Khi đánh giá quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cần chú ý cả những quan hệ tỷ lệ về mặt lượng cũng như


11
phân tích sự thay đổi về chất (theo quan điểm lượng đổi chất đổi) của các mối
tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá, không thể không
chú ý tới những đặc điểm riêng của mỗi loại cơ cấu kinh tế (và cả cơ cấu kinh
tế theo lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế…). Những chỉ tiêu phản ánh
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bao gồm:
Cơ cấu GDP
Một trong những thước đo khái quát nhất để đo lường, đánh giá về tốc
độ tăng trưởng, trạng thái và xu hướng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế đó
là chỉ tiêu GDP. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định nhưng trong khoa
học kinh tế hiện đại, chỉ tiêu này vẫn được sử dụng khá phổ biến.
Trong đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu GDP giữa
các ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh xu
hướng vận động và mức độ thành công của công nghiệp hóa. Tỷ lệ phần trăm
GDP của các ngành cấp I (khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) là
một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để đánh giá quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế. Trong quá trình đổi mới nền kinh
tế và thực hiện công nghiệp hóa, mối tương quan này có xu hướng chung là
khu vực nông nghiệp có tỷ lệ ngày càng giảm, còn khu vực phi nông nghiệp
(công nghiệp và dịch vụ) ngày càng tăng lên. Và trong điều kiện của khoa học
công nghệ hiện đại, khu vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỷ trọng

cao nhất, sau đó là công nghiệp và cuối cùng là nông nghiệp.
Ở góc độ cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô và cơ cấu các thành phần kinh tế,
một chỉ số kinh tế khác cũng thường được sử dụng cơ cấu GNP chỉ ở chỗ, chỉ
tiêu GNP chỉ phần giá trị tăng thêm hàng năm được sản xuất ra thuộc sở hữu
của một nền kinh tế, còn GDP thì ở trong nền kinh tế đó. Tuy nhiên, sự ưa
dùng cơ cấu GDP đối với những nền kinh tế đang phát triển, đang công
nghiệp hóa không phải bởi nhìn chung quy mô GDP ở đây thường lớn hơn


12
GNP (do phần FDI ở đây thường lớn hơn là đầu tư của họ ra nước ngoài),
điều quan trọng là ở chỗ quy mô GDP phản ánh rõ hơn những khía cạnh khác
nhau của môi trường kinh doanh và đặc biệt là cùng với cơ cấu GDP, cơ cấu
lao động của nền kinh tế cũng được phản ánh rõ ràng hơn.
Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế
trong quá trình đổi mới nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH, việc phân tích cơ
cấu các ngành (cấp II, cấp III…) có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông
thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát hơn khía cạnh chất lượng và mức độ
hiện đại hóa của nền kinh tế.
Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế và thực hiện CNH - HĐH, sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được đánh giá qua một chỉ tiêu rất quan
trọng là cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế được phân bố như
thế nào vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Các nhà kinh tế học đánh giá rất
cao chỉ tiêu cơ cấu lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế, vì ở
góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao động xã hội mới là chỉ tiêu phản
ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế-xã hội của quá trình CNH
- HĐH. Bởi vì công nghiệp hóa, hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó, không phải
chỉ đơn thuần là sự gia tăng tỷ trọng giá trị của sản xuất công nghiệp, mà là
cùng với mức đóng góp vào GDP ngày càng tăng của lĩnh vực công nghiệp

(hiện nay, công nghiệp và dịch vụ dựa trên công nghệ kỹ thuật hiện đại), phải
là quá trình CNH - HĐH đời sống xã hội con người, trong đó, cơ sở quan
trọng nhất là số lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lực lượng lao động đang làm việc
trong nền kinh tế.
Cơ cấu lao động phân theo ngành sở dĩ được các nhà kinh tế học đánh
giá cao và coi trọng là do chỉ tiêu này không chỉ phản ánh xác thực hơn mức

×