Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 133 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
***







Khuất Thị Huyền Nga


Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Thừa Thiên - Huế

Chuyên ngành : Kinh tế
Mã số : 60 31 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ







Người hướng dẫn: TS. Đinh Quang Ty








HÀ NỘI - 2008


1
MỤC LỤC


Trang

PHẦN MỞ ĐẦU

Chƣơng 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế

1.1
Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.1.1
Khái niệm cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế


1.1.2
Chuyển dịch cơ cấu và quan niệm về chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế

1.1.3
Những chỉ tiêu chủ yếu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế

1.2
Nội dung của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.2.1
Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế

1.2.1.1
Các nhân tố cung - cầu (đầu vào và đầu ra của sản xuất trong
nền kinh tế thị trường)

1.2.1.2
Lao động và vốn nhân lực

1.2.1.3
Khoa học và công nghệ

1.2.1.4
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước

1.2.1.5

Yếu tố vị trí địa lý, địa hình, khí hậu và tài nguyên thiên nhiên

1.2.1.6
Mức độ liên kết kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế

1.2.2
Khái quát về một số mô hình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.2.2.1
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình công nghiệp
hóa kiểu cổ điển

1.2.2.2
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình công nghiệp
hoá kiểu kế hoạch hoá tập trung

1.2.2.3
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình công nghiệp
hoá thay thế nhập khẩu


1.2.2.4
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình công nghiệp
hóa hướng xuất khẩu

1.3
Kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và một số
vấn đề rút ra đối với Thừa Thiên - Huế

1.3.1

Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố trong nước

1.3.2
Một số vấn đề có giá trị tham khảo đối với tỉnh Thừa Thiên - Huế

Chƣơng 2

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa
Thiên - Huế trong những năm đổi mới vừa qua

2.1
Những lợi thế, bất lợi thế của Thừa Thiên - Huế ảnh hưởng
và đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

2.1.1
Đặc điểm kinh tế - xã hội và ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ

Formatted: Left: 1.38", Right: 0.59", Top:
0.98", Bottom: 0.79"


2
cấu ngành kinh tế
2.1.2
Tiềm năng và những lợi thế của Thừa Thiên- Huế trong phát
triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

2.1.2.1
Tiềm năng khoáng sản


2.1.2.2
Tiềm năng về đất

2.1.2.3
Tiềm năng về rừng

1.2.2.4
Tiềm năng biển và đầm phá

2.1.2.5
Tiềm năng du lịch

2.1.3
Những khó khăn chủ yếu có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế của Thừa Thiên - Huế

2.2
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế
những năm gần đây và các tác động chính

2.2.1
Đánh giá thực trạng trên một số bình diện cơ bản

2.2.1.1
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nhóm ngành kinh tế

2.2.1.2
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ các ngành sản xuất

a

Chuyển dịch cơ cấu nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản

b
Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp

c
Chuyển dịch cơ cấu nhóm ngành dịch vụ

2.2.2
Tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến động thái
phát triển chung của địa phương


2.2.2.1
Tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

2.2.2.2
Tác động đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực trong sản xuất

2.2.2.3
Tác động đối với việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế hợp lý

2.2.2.4
Tác động đối với phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông
thôn

2.2.2.5
Tác động đối với phát triển nguồn nhân lực


2.3
Đánh giá chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của
Thừa Thiên - Huế trong thời gian vừa qua

2.3.1
Những kết quả tiêu biểu và nguyên nhân

2.3.2
Những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân

Chƣơng 3

Một số kiến nghị góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế Trong giai đoạn 2006 -
2010 và tầm nhìn đến năm 2020

3.1
Về định hướng chung trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

3.1.1
Những luận cứ chủ yếu để kiến nghị về định hướng

3.1.1.1
Bối cảnh mới trong nước và quốc tế có ảnh hưởng đến quá



3
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế


3.1.1.2
Dự kiến tốc độ phát triển một số sản phẩm chủ yếu của Thừa
Thiên - Huế trong thời gian tới

3.1.2
Kiến nghị về quan điểm, và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế


3.1.2.1
Quan điểm

3.1.2.2
Mục tiêu

3.2
Phương hướng phát triển các ngành kinh tế chủ yếu trong
giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020

3.2.1
Ngành công nghiệp


3.2.2
Nhóm ngành dịch vụ


3.2.3
Ngành thuỷ sản



3.2.4
Ngành nông, lâm nghiệp


3.3
Các Các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế

3.3.1
Hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thừa
Thiên Huế

3.3.2
Khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn

33.3
Giải Giải pháp về thị trường

3.3.4
Phát triển, đào tạo nguồn nhân lực


3.3.5
Phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ và bảo vệ môi
trường



KẾT LUẬN




TÀI LIỆU THAM KHẢO











4

PHẦN MỞ ĐẦU

1 - SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Kinh nghiệm xây dựng kinh tế thị trường của nhiều nước trên thế giới và thực tiễn phát
triển kinh tế Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới (1986 - 2007) cho thấy giữa chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa có mối quan hệ biện chứng; và đối với nước ta
hiện nay, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn kết hết sức chặt chẽ với công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Đây là một trong những vấn đề mang tính cơ bản về phương diện lý luận và cũng rất thiết yếu
về phương diện thực tiễn.
Cho đến nay, ở nước ta vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đã được nhiều nhà nghiên cứu, tiếp cận và phân tích theo nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề có nội dung phức tạp xét cả về mặt lí luận và thực tiễn, trong đó có
nhiều khía cạnh chưa được làm sáng tỏ. Và nếu nhìn sâu hơn vào từng địa bàn, thì một trong

những vấn đề cần phải nghiên cứu - đó là xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều
kiện cụ thể của một tỉnh.
Thừa Thiên - Huế là một tỉnh miền Trung, có điều kiện khí hậu khá phức tạp, diện tích đất
nông nghiệp bình quân đầu người thấp, việc phát triển kinh tế nhìn chung gặp nhiều khó khăn so
với các địa phương khác trong nước. Lợi thế nổi bật của Thừa Thiên - Huế thể hiện ở chỗ có nhiều
tiềm năng để phát triển du lịch, nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản và phát triển công nghiệp chế biến.
Song, điều đáng nói là sau 20 năm đổi mới, Thừa Thiên - Huế vẫn là một trong những tỉnh nghèo
nhất miền Trung.
Trước tình hình đó có nhiều vấn được đặt ra: Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
ở Thừa Thiên - Huế có gì khác biệt so với các địa phương khác? Những nét đặc thù đó là gì và làm
thế nào để đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế, phù hợp với
đặc điểm của địa phương, xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam và hội nhập
kinh tế quốc tế.v.v…?
Cho đến nay, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng như định hướng, giải pháp
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Thừa Thiên - Huế chưa được nghiên cứu một cách hệ thống.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Thừa Thiên - Huế ” để thực hiện luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị.

2 - TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Ở nước ngoài, lý thuyết cơ cấu kinh tế được khởi xướng từ những năm 50 của thế kỷ XX,
nhưng mãi tới những năm 70 mới trở thành đối tượng nghiên cứu quan trọng đối với các nhà kinh


5
tế học và cũng được giới chính khách ở các nước phương Tây có nền kinh tế thị trường phát triển
quan tâm.
Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
vừa là giải pháp thực hiện, vừa là bộ phận chủ yếu cấu thành chiến lược phát triển đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một đòi hỏi tất yếu nhằm chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu sang nền kinh tế thị trường hiện đại và phát triển bền vững.

Gắn với chủ đề lớn này, ở nước ta trong những năm gần đây đã có một số công trình
nghiên cứu, tiêu biểu như:
- Tác động kinh tế của Nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, Nguyễn Cúc (Chủ biên) - Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 1994;
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt
Nam, tập thể tác giả (Đỗ Hoài Nam, Trần Đình Thiên, Bùi Tất Thắng, Phí Mạnh Hồng, Nguyễn
Kế Tuấn), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội - 1996;
- Những nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công
nghiệp hoá ở Việt Nam, Bùi Tất Thắng (Chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nôi - 1997;
- Xác định cơ cấu kinh tế lãnh thổ theo hướng phát triển có trọng điểm ở Việt Nam, Ngô
Doãn Vịnh và Nguyễn Văn Phú (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 1998;
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, công trình
nghiên cứu khoa học của tập thể tác giả thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển - Trường Đại
học Kinh tế quốc dân (1999);
- Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Đỗ Hoài Nam (Chủ biên) -
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 2003;
- Yêu cầu và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư trong thời
gian tới, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư),
Chủ nhiệm đề tài: TS Lưu Bích Hồ, 5/2003;
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, PGS.TS Bùi Tất Thắng (Chủ biên), Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 2006); v.v…
Những công trình nói trên có giá trị tham khảo rất bổ ích cho đề tài của luận văn; tuy nhiên,
trong số đó chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu sâu và hệ thống về chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở tỉnh Thừa Thiên - Huế.


3 - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong mối quan
hệ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá;



6
- Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thừa Thiên - Huế trong
những năm đổi mới vừa qua; làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế của địa phương này;
- Đề xuất định hướng, mục tiêu và giải pháp góp phần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế của tỉnh Thừa Thiên - Huế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở giai đoạn
2006 - 2010.

4 - ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
4.1 - Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn lấy vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn Thừa Thiên - Huế làm
đối tượng nghiên cứu.
4.2 - Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu các nội dung chủ yếu của cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Thừa Thiên -
Huế trong khoảng 10 năm gần đây; đề xuất định hướng và các giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế của địa phương này theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn
2006 - 2010.

5 - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, luận văn áp dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu và so sánh, logic và lịch sử, khảo
sát thực tế; đồng thời sử dụng số liệu thống kê của Trung ương và địa phương; tham khảo, chắt lọc
các kết quả nghiên cứu đã có về cơ cấu ngành kinh tế .

6 - DỰ KIẾN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Góp phần làm rõ hơn khái niệm, vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế; bước đầu
tổng kết một số kinh nghiệm thực tiễn của một số tỉnh, thành phố trong nước về chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế.
- Làm rõ thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế trong quá trình

đổi mới.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế.

7 - KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế


7
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế trong những
năm đổi mới vừa qua
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa
Thiên - Huế trong giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ

1.1 - CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1.1.1 - Khái niệm cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế
1.1.1.1 - Khái niệm cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế, nhìn dưới góc độ triết học duy vật biện chứng, là khái niệm
dùng để chỉ cách thức, tính chất bên trong của một hệ thống kinh tế, biểu hiện sự
thống nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của hệ thống
đó.
Cơ cấu là thuộc tính mà bất kỳ một nền kinh tế nào cũng có.
Cơ cấu kinh tế phản ánh tính chất, trình độ, cấu trúc và các mối quan hệ bên
trong của một nền kinh tế - theo đó, nền kinh tế được coi là một hệ thống có tính
lịch sử trong một giai đoạn nhất định. Đó là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu

không chỉ về số lượng và tỷ lệ giữa các yếu tố hợp thành - biểu hiện sự tăng trưởng
của hệ thống mà còn là những mối quan hệ cơ cấu về chất giữa các yếu tố - biểu
hiện sự phát triển của hệ thống.
Các Mác nói rằng: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình con người
có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ, tức
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với trình độ phát triển nhất
định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất
ấy cũng hợp thành cơ cấu kinh tế xã hội”.
Nhìn chung, cách tiếp cận về cơ cấu kinh tế thù rất đa dạng, song đều tập
trung phân tích bản chất cơ cấu kinh tế, và thống nhất nhận thức ở một số điểm
quan trọng:
Một là, coi cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong hệ thống.
Các quan hệ này không phải là quan hệ riêng lẻ mà là quan hệ tổng thể hữu cơ. Các
quan hệ đó không chỉ là quan hệ tỷ lệ về lượng mà còn có quan hệ về chất, quan hệ
về cấu trúc bên trong.


8
Hai là, cơ cấu kinh tế bao gồm các bộ phận cấu thành nền kinh tế, các nhóm
ngành, các khu vực, các thành phần nằm trong hệ thống kinh tế quốc dân.
Ba là, cơ cấu kinh tế biểu hiện trong những điều kiện không gian, thời gian,
về tự nhiên, kinh tế xã hội nhất định.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi cho rằng nền kinh tế quốc dân là một hệ thống
phức tạp, có rất nhiều bộ phận và kiểu cơ cấu hợp thành chúng, tùy theo cách tiếp
cận khi nghiên cứu hệ thống đó. Sự vận động và phát triển của nền kinh tế quốc
dân đã chứa đựng trong nó sự thay đổi của chính bản thân các bộ phận, các kiểu cơ
cấu.
Vì vậy, cơ cấu kinh tế quốc dân là tổng thể hợp thành các bộ phận, các kiểu
cơ cấu, trong mối quan hệ hữu cơ, tương tác lẫn nhau cả về số lượng và chất lượng,
trong không gian, thời gian và những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.

Cơ cấu kinh tế là một phạm trù khách quan. Tính khách quan của cơ cấu
kinh tế thể hiện ở chỗ, trình độ phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động
xã hội quyết định sự hình thành cơ cấu kinh tế. Một cơ cấu kinh tế như thế nào, xu
thế chuyển dịch của nó ra sao phụ thuộc vào những điều kiện khách quan về tự
nhiên, kinh tế, xã hội và thể chế chính trị nhất định. Tương ứng với những điều
kiện tự nhiên và trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong một giai đoạn lịch sử
nhất định, tất yếu có một cơ cấu kinh tế phù hợp. Điều đó thể hiện ở mỗi giai đoạn
phát triển kinh tế, mỗi điều kiện cụ thể đều có thể xác định một cơ cấu kinh tế hợp
lý. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải đảm bảo được các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, phản ánh được và đúng các quy luật khách quan bao gồm các quy
luật tự nhiên, kinh tế và xã hội, đặc biệt là các quy luật kinh tế, như quy luật quan
hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và các quy luật của tái sản xuất…
Thứ hai, đảm bảo khai thác và giải phóng tối đa các tiềm năng, nguồn lực
của cả nước, của ngành, địa phương và lãnh thổ, của các phương án kinh doanh…
Thứ ba, sử dụng được ngày càng nhiều lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh
giữa trong nước và nước ngoài, giữa các vùng và khu vực…
Thứ tư, phản ánh được xu hướng phát triển của cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa và thương mại quốc tế
Thứ năm, đó là một cơ cấu kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Tóm lại, cơ cấu kinh tế hợp lý là một cơ cấu kinh tế đảm bảo được tốc độ
tăng trưởng nhanh, bền vững và đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Nền


9
kinh tế sẽ phát triển thuận lợi nếu cơ cấu kinh tế thực tế càng gần với cơ cấu kinh tế
hợp lý.
Mặt khác quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở từng giai
đoạn đều chịu sự tác động của con người, trong đó sự tác động của cơ quan lãnh
đạo là quan trọng nhất. Những tác động đó đã làm thay đổi các quan hệ kinh tế - xã

hội theo đó cơ cấu kinh tế được hình thành. Do vậy, con người trên cơ sở nắm vững
và tôn trọng yêu cầu của các quy luật khách quan, có thể tác động điều chỉnh cơ
cấu kinh tế ngày càng gần với cơ cấu kinh tế hợp lý hơn.
1.1.1.2 - Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân chỉ được cụ thể hóa thông qua từng loại cơ
cấu cụ thể. Theo các góc độ tiếp cận khác nhau, nền kinh tế có các loại cơ cấu cụ
thể chủ yếu sau đây: cơ cấu kinh tế theo ngành, cơ cấu kinh tế theo vùng và cơ cấu
kinh tế theo thành phần kinh tế (hay đúng hơn là theo khu vực). Giữa các loại cơ
cấu kinh tế đó có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau, làm điều kiện cho nhau
trong quá trình phát triển. Và nhìn một cách kháI quát, cơ cấu kinh tế quốc dân là
tổng thể các cơ cấu ngành, vùng và các thành phần kinh tế. Trong hệ thống các cơ
cấu đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất.
Vậy thế nào là cơ cấu ngành kinh tế? Theo chúng tôi, cơ cấu ngành kinh tế là
tổng thể hợp thành các ngành của nền kinh tế quốc dân, trong mối quan hệ hữu cơ,
tương tác lẫn nhau cả về số lượng và chất lượng trong không gian, thời gian và
những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tổ hợp của các ngành, hợp thành tương quan
tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các ngành đó của nền kinh tế quốc dân.
Ngành kinh tế là tổng thể những hoạt động kinh tế giống nhau hoặc gần
giống nhau của các đơn vị trong nền kinh tế quốc dân để sản xuất ra những sản
phẩm hoặc dịch vụ có những đặc tính chung nhất định.
Các ngành hợp thành trong nền kinh tế có thể phân loại dựa vào đặc điểm
kinh tế - kỹ thuật của nó, bao gồm: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản,
thương mại, dịch vụ,v.v…Trong mỗi ngành lại bao gồm các phân ngành, như trong
công nghiệp có cơ khí, điện lực, hóa chất,v.v…Hoặc có thể phân theo tính chất tác
động vào đối tượng lao động, gồm: khối ngành khai thác (nông nghiệp, các ngành
công nghiệp khai thác), khối ngành chế biến và khối ngành dịch vụ. Theo kinh
nghiệm nhiều nước, để hoạch định chính sách phát triển, người ta còn phân loại
ngành theo chu kỳ vận động của bản thân các ngành đó, gồm ngành mới ra đời và



10
ngành sắp lặn; hoặc dựa vào vị trí, tầm quan trọng, xu thế vận động của nó, gồm
ngành mũi nhọn, ngành then chốt và các ngành khác,v.v…
Có thể có nhiều cách phân ngành khác nhau khi nghiên cứu về chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo ngành. Song cho đến nay, có hai cách thức cơ bản thường được
áp dụng, đó là phân ngành theo hệ thống “sản xuất vật chất” và phân ngành theo hệ
thống tài khoản quốc gia.
Theo hệ thống sản xuất vật chất, các ngành kinh tế được phân làm hai khu
vực: sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất. Khu vực sản xuất vật chất và
không sản xuất vật chất được chia thành các ngành cấp I. Các ngành cấp I lại được
chia thành các ngành cấp II…Đặc biệt trong các ngành công nghiệp, người ta còn
phân ra thành nhóm A và nhóm B.
Theo hệ thống tài khoản quốc gia, các ngành kinh tế được phân thành 3
nhóm lớn là: nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ. Ba
ngành gộp này bao gồm 20 ngành cấp I. Các ngành cấp I lại được chia nhỏ thành
ngành cấp II. Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành các ngành sản phẩm.
Có nhiều mức phân ngành khác nhau, tùy theo mức độ gộp hay chi tiết hóa
đến chừng nào mà có được một tập hợp các ngành tương ứng.
Với một cách phân ngành hợp lý và một đại lượng giá trị được chọn thống
nhất có thể xác định được chỉ tiêu định lượng phản ánh một mặt của cơ cấu ngành,
đó là tỷ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế. Loại chỉ tiêu
định lượng này đã được sử dụng trong các nghiên cứu về phát triển liên quan đến
cơ cấu ngành của nền kinh tế.
1.1.2 - Chuyển dịch cơ cấu và quan niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự biến đổi, vận động, phát triển của các
ngành làm thay đổi vị trí, tương quan tỷ lệ và mối quan hệ, tương tác giữa chúng
theo thời gian dưới tác động của những yếu tố kinh tế - xã hội của đất nước và quốc
tế nhất định.
Việc đưa ra cụm từ chuyển dịch cơ cấu là để nhấn mạnh: chuyển dịch cơ cấu

diễn ra một cách khách quan. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành là sự biến đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; và
trong điều kiện hội nhập kinh tế quôc tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không phải là
sự thay đổi cơ cấu đã có trong khoảng thời gian ngắn, mà sự thay đổi mang tính
biến đổi, làm thay đổi từ một cơ cấu ngành kinh tế mang đặc tính khép kín sang cơ
cấu mở hội nhập.


11
Sức ép của nhu cầu thị trường và yêu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi phải thay
đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế - và đó chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành. Ở đây, có một số quan niệm cần phải được làm sáng tỏ:
Một là, chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích,
có định hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng
với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ trạng
thái này sang trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn.
Hai là, chuyển dịch cơ cấu ngành phải được coi là điểm cốt tử, một nội dung
cơ bản, lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu xác định phương
hướng và giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cao
trong sự phát triển. Ngược lại, sẽ phải trả giá đắt cho những sự phát triển về sau.
Ba là, trong thời đại ngày nay, với sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu thị
trường và tốc độ phát triển vũ bão của khoa học - công nghệ, tất cả các nước đều
phải quan tâm đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành. Riêng ở các nước đang phát
triển, chuyển dịch cơ cấu ngành phải luôn gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa -
tức là tạo lập cơ cấu ngành mới phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Yêu cầu đặt ra là phải định vị được một cơ cấu các ngành kinh tế, xác
định hợp lý các ngành (vùng) trọng điểm, mũi nhọn cho phù hợp với mỗi giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế thành công hay thất bại phụ thuộc
rất nhiều vào các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội và việc tổ chức thực hiện các

mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. Ở đây, Nhà nước có vai trò quyết định trong việc
hoạch định chủ trương và chính sách kinh tế vĩ mô, còn các doanh nghiệp thì có vai
trò quyết định việc thực thi phương hướng, nhiệm vụ chuyển dịch.
Trên thực tế, kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thường
biểu hiện ở những “dấu hiệu” có tính điển hình dưới đây:
- Xuất hiện thêm những ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là đã
có sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế. Sự thay đổi này
chỉ có thể nhận biết được khi hệ thống phân loại ngành là đủ chi tiết.
- Tăng trưởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn đến thay
đổi cơ cấu. Trong trường hợp này, sự biến đổi cơ cấu kinh tế ngành là kết quả của
sự phát triển không đồng đều giữa các ngành sau mỗi thời kỳ hay giai đoạn. Để
đánh giá đúng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành trong mỗi thời kỳ, phải xem xét
đồng thời cả tốc độ tăng trưởng và quy mô phát triển ngành ở điểm xuất phát.


12
- Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành. Sự thay đổi
này trước hết biểu hiện bằng số lượng các ngành có liên quan. Mức độ tác động qua
lại giữa ngành này với các ngành khác thể hiện qua quy mô đầu vào mà nó cung
cấp cho các ngành hay nhận được từ các ngành đó. Những sự thay đổi này thường
liên quan đến thay đổi về công nghệ sản xuất sản phẩm hay khả năng thay thế cho
nhau để đáp ứng những nhu cầu của xã hội trong những điều kiện mới.
Sự tăng trưởng của các ngành dẫn đến thay đổi cơ cấu ngành trong mỗi nền
kinh tế. Cho nên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành xảy ra như là kết quả quá trình
phát triển. Đó là quy luật tất yếu từ xưa đến nay trong hầu hết mọi nền kinh tế. Vấn
đề đáng quan tâm là ở chỗ: sự chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra theo chiều hướng
nào và tốc độ chuyển dịch nhanh chậm ra sao, có những quy luật gì.
Có rất nhiều nền kinh tế đã đạt được thành công trong sự phát triển nhờ quá
trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế ngành đặc thù phù hợp với điều kiện cụ thể. Việc
tìm ra một xu hướng và giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu ngành ở nước ta không

đơn thuần là áp dụng kinh nghiệm có được, mà là sự phát hiện những đặc thù của
đất nước, của môi trường trong nước và thế giới hiện nay để làm thích ứng những
bài học đã có phù hợp với hoàn cảnh Việt nam.
Vì vậy, việc phân tích các “cách tiếp cận chuyển dịch cơ cấu” có quan điểm
lựa chọn một chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phù hợp với điều kiện
Việt Nam là hết sức cần thiết. Trong thực tế có các cách tiếp cận chuyển dịch cơ
cấu sau đây:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở tốc độ tăng trưởng nhanh.
Một chiến lược cơ cấu trên cơ sở tốc độ tăng trưởng nhanh sẽ tập trung vào việc
phân bổ các nguồn đầu tư và nhân lực vào các ngành mà đặc biệt là các phân
ngành, các hoạt động kinh tế và các dự án có mức hoàn vốn cao nhất. Trong điều
kiện hiện nay, điều này có nghĩa là hướng mạnh vào xuất khẩu là chủ yếu.
Áp dụng chiến lược này sẽ có một số hạn chế là: tạo ra một lượng lớn lao
động không có việc làm, do giảm tối đa nhân lực trong các ngành sản xuất, đặc biệt
là sản xuất công nghiệp; làm tăng sự khác biệt và chênh lệch giữa các vùng, do bố
trí sản xuất công nghiệp vào các vùng có kết cấu hạ tầng phát triển; đồng thời tạo ra
chênh lệch lớn về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, giữa các ngành các lĩnh vực.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm giải quyết các nhu cầu cơ bản.
Một chiến lược cơ cấu phát triển nhằm vào việc thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của
nhân dân sẽ được thực hiện trên cơ sở hướng các nguồn lực vào việc phát triển sản


13
xuất và cung ứng cho thị trường trong nước về những nhu cầu hàng lương thực,
thực phẩm cơ bản, may mặc thông thường, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, các
sản phẩm công nghiệp nặng cho nhu cầu trong nước như sắt, thép, hóa chất, phân
bón,v.v…
Áp dụng chiến lược này sẽ có một số hạn chế: hiệu quả thấp, khả năng cạnh
tranh kém, phụ thuộc vào nước ngoài do phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu, máy
móc thiết bị; thị trường nội địa không đủ lớn để kích thích mạnh mẽ sản xuất, do

thu nhập của dân cư thấp.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa trên cơ sở nguồn lực trong nước.
Chiến lược này dựa vào thế mạnh tài nguyên thiên nhiên trong nước: khoáng sản,
nông nghiệp, những hải sản, nghề rừng…Khai thác và chế biến các tài nguyên này
cho cả thị trường trong nước và cả thị trường nước ngoài.
Áp dụng chiến lược này đối với Việt Nam sẽ có những hạn chế, đó là: nguồn
tài nguyên của ta tuy phong phú nhưng quy mô nhỏ, không đủ lớn để phát triển dựa
hẳn vào nguồn tài nguyên trong nước: tăng trưởng chậm, do chủ yếu tập trung phát
triển công nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tập trung vào việc tạo việc làm. Chiến
lược cơ cấu tạo tối đa việc làm chủ yếu tập trung vào các quá trình sản xuất dùng
nhiều lao động mà không nhấn mạnh đến hiệu quả và hợp tác quốc tế.
Hạn chế cơ bản của chiến lược cơ cấu này là công nghệ thấp, sản xuất kém
hiệu quả, chỉ cạnh tranh được ở những sản phẩm có tỷ trọng lao động cao, khả năng
hợp tác quốc tế rất thấp.
Các cách tiếp cận chiến lược cơ cấu nêu trên cho thấy rõ những ưu tiên và
những hạn chế cơ bản của chúng. Rõ ràng là nước ta không thể theo đuổi mục tiêu
riêng của một chiến lược cơ cấu nào. Việt Nam không thể chỉ vì đạt tăng trưởng
nhanh mà tạo ra sự phân hóa xã hội và chênh lệch quá lớn về mức sống; không thể
chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước hoặc sử dụng hết nguồn lao động trong điều kiện
nền kinh kém hiệu quả, không có khả năng hội nhập với kinh tế thế giới; nguồn tài
nguyên nước ta cũng không đủ lớn để dựa vào nó mà phát triển nhanh. Trong thực
tiễn cần lựa chọn một cơ cấu hỗn hợp trên cơ sở xem xét nhiều chính sách và nhiều
hình mẫu khác nhau.
Để đạt được mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp, như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đề ra, phải nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa trên


14

chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu kết hợp thay thế nhập khẩu bằng những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Như vậy, mô hình tăng trưởng của Việt
Nam từ nay đến năm 2020 là một mô hình phát triển hỗn hợp, vừa sản xuất các sản
phẩm xuất khẩu, vừa coi trọng thị trường nội địa, trong đó xuất khẩu được coi là
trọng tâm.
Việc áp dụng mô hình phát triển hỗn hợp ở đây có nghĩa là các ngành xuất
khẩu luôn được coi là hướng ưu tiên hàng đầu, là trọng tâm và là động lực chủ yếu
của sự phát triển. Thay thế nhập khẩu, tận dụng tốt các lợi thế của đất nước chỉ tập
trung cho một số ngành sản xuất trong nước có hiệu quả, coi đây là bước quá độ,
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để hướng mạnh về xuất khẩu trong tương lai. Đồng
thời, cũng phải chú ý thỏa đáng đến việc nâng cao sức mua của thị trường nội địa,
không chỉ ở khu vực đô thị, mà còn cả ở khu vực nông thôn rộng lớn của đất nước.
1.1.3 - Những chỉ tiêu chủ yếu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Khi đánh giá cơ cấu kinh tế, người ta thường đánh giá trên hai mặt: kết cấu
tỷ lệ các ngành hợp thành nền kinh tế, được xác định bằng tỷ lệ % của các ngành
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong GDP; quan hệ tương hỗ giữa các ngành
hợp thành nền kinh tế, biểu hiện ở mối quan hệ trong sản xuất và giao lưu kinh tế
giữa các ngành cần chặt chẽ, cân đối ở mức độ cần thiết.
Có thể phân loại chỉ tiêu đánh giá cơ cấu ngành hợp lý theo lĩnh vực hoạt
động (chia thành chỉ tiêu kinh tế và chỉ tiêu xã hội) hoặc theo khả năng lượng hoá
(chia thành chỉ tiêu định tính hoặc chỉ tiêu định lượng) để xem xét.
a. Theo lĩnh vực hoạt động:
- Các chỉ tiêu kinh tế:
+ Chỉ tiêu trực tiếp, gồm: cơ cấu GDP, cơ cấu GO cho các ngành.
+ Chỉ tiêu gián tiếp, gồm: cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư, cơ cấu diện tích…
+ Chỉ tiêu phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: so sánh cơ cấu
kinh tế qua các thời kỳ, so sánh tốc độ phát triển của các hiện tượng kinh tế, các
ngành trong cùng một kỳ.
+ Chỉ số về tốc độ tăng trưởng kinh tế (chung và từng ngành).
+ Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội (GNP): phản ánh tỷ lệ

của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong GDP; trong đó tỷ lệ
ngành nông nghiệp giảm tương đối.


15
+ Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X - M): thể hiện sự mở cửa của
nền kinh tế đối với thế giới. Nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu ròng
trong GDP tăng lên.
+ Chỉ số về mức tiết kiệm - đầu tư (I): thể hiện khả năng tăng trưởng kinh tế
trong tương lai, là nhân tố quyết định sự tăng trưởng.
+ Tỷ lệ huy động cho ngân sách từ GDP, tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế.
+ Chỉ số về sự liên kết kinh tế: sự chặt chẽ của mối liên kết được đánh giá
thông qua trao đổi các yếu tố đầu vào, đầu ra giữa các ngành, các vùng.
- Các chỉ tiêu xã hội:
+ Cơ cấu nông thôn và thành thị: về dân cư, lao động….
+ Mức thu nhập bình quân đầu người giữa các vùng, các ngành.
+ Cơ cấu lao động giữa các ngành.
+ Trình độ học vấn, trình độ kỹ thuật của dân cư, lao động trong các vùng,
các ngành.
+ Tỷ lệ người biết chữ trong dân số.
+ Các chỉ số phản ánh sự bảo hiểm, chăm sóc sức khoẻ như: số bác sỹ, số
giường bệnh/1vạn dân, số viện điều dưỡng/1vạn dân… giữa các vùng, các địa
phương.
+ Sự độc lập hay phụ thuộc về kinh tế, chính trị của một quốc gia.
b. Theo khả năng lượng hoá
- Về mặt định tính:
Đó là sự phù hợp, đáp ứng được các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - chính trị -
xã hội đặt ra trong từng thời kỳ. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được Đại hội VIII khẳng định và cho đến
nay vẫn có giá trị ứng dụng: “Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng
điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang
cản trở sự phát triển. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng
yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác
dụng nhanh và có hiệu quả cao. Mở rộng thương nghiệp, dịch vụ, du lịch. Đẩy
mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như


16
chế biến nông, lâm, thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí
chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch”.
- Về mặt định lượng:
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự chuyển dịch cơ cấu sản lượng
đầu ra. Sự chuyển dịch này phụ thuộc vào hai yếu tố: năng suất lao động và quy mô
sử dụng các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên và khoa học công nghệ…
Từ đó cho thấy hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế xét về mặt lượng thể hiện hiệu
quả sử dụng các yếu tố đó trên phạm vi toàn nền kinh tế.

1.2 - NỘI DUNG CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1.2.1 - Những nhân tố chủ yếu ảnh hƣởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế
1.2.1.1 - Các nhân tố cung - cầu (đầu vào và đầu ra của sản xuất trong
nền kinh tế thị trường)
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn
của nền kinh tế chịu tác động của yếu tố thị trường, các nguồn lực tự nhiên (tài
nguyên đất, nước, rừng, khoáng sản…); tiến bộ khoa học - công nghệ; các nguồn
lực, định hướng phát triển của Chính phủ, kinh tế đối ngoại, điều kiện, môi trường
lịch sử - xã hội của sự phát triển kinh tế ,v.v…

Thị trường, đặc biệt là nhu cầu và tình hình cạnh tranh trên thị trường (trong
và ngoài nước) là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu
ngành của nền kinh tế. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của
chúng đặt ra những mục tiêu cần vươn lên để thỏa mãn, là cơ sở để đảm bảo tính
thực thi và hiệu quả của phương án cơ cấu ngành của nền kinh tế.
Nhóm nhân tố đầu tiên có ảnh hưởng mạnh tới thiên hướng tự nhiên của cơ
cấu sản xuất của một nền kinh tế là các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của đất
nước. Trong nhiều trường hợp, chúng tạo nên cái mà các nhà kinh tế học gọi là “lợi
thế tuyệt đối” trong phân công lao động quốc tế của các nền kinh tế. Dưới tác động
của sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, giá trị kinh tế của các
nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là bất biến, mà có sự thay đổi không
ngừng. Tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ có ảnh hưởng nhiều mặt đến cơ
cấu ngành của nền kinh tế. Ở nước ta, yếu tố này đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển
một số ngành như dầu khí, điện tử, v.v…, làm thay đổi quy mô, tốc độ phát triển
của các ngành chế biến, dịch vụ.


17
Những định hướng chiến lược và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
cũng có vai trò quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu ngành. Trong trường hợp
phó mặc cho sự tác động của thị trường thì sự hình thành cơ cấu ngành mong muốn
sẽ quá chậm, nhất là những ngành bao gồm các doanh nghiệp hoạt động không vì
mục đích lợi nhuận hoặc mức lãi thấp (sản xuất hàng hóa công cộng, nguyên liệu
cho công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, v.v ). Ngược lại, những định hướng
thiếu cơ sở khách quan, hoặc sự can thiệp quá sâu của Nhà nước trong quá trình
thực hiện đều dẫn tới chỗ hình thành cơ cấu ngành kém hiệu quả.
Nếu như nhóm yếu tố đầu vào phản ánh sự tác động của các nguồn lực có thể
huy động cho sản xuất và sự phân bổ của chúng vào lĩnh vực kinh doanh khác
nhau, thì nhóm các yếu tố đầu ra của sản phẩm quyết định xu hướng vận động của
thị trường, nơi phát ra tín hiệu quan trọng bậc nhất dẫn dắt các luồng vốn đầu tư

cũng như các nguồn lực sản xuất khác được quyết định phân bổ vào những lĩnh vực
sản xuất nào và với quy mô bao nhiêu. Những nhân tố này bao gồm: dung lượng thị
trường, thói quên tiêu dùng, mức độ sẵn có và các khả năng thay thế của các loại
sản phẩm, giá cả và chất lượng hàng hóa và dịch vụ, các chính sách của Nhà
nước…
+ Độ lớn của dung lượng thị trường và xu hướng tiêu dùng là một trong
những nhân tố rất có ý nghĩa đối với sự di chuyển các nguồn lực được phân bổ vào
các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Các nhà kinh doanh là những người phân tích rất
kỹ quy mô và xu hướng vận động của thị trường khi quyết định đầu tư kinh doanh
một loại sản phẩm nào đó. Thông thường, dung lượng thị trường (lượng cầu) được
quyết định bởi quy mô dân số và mức thu nhập. Khi mức thu nhập của dân cư còn
thấp, hầu hết nguồn thu nhập chỉ được dùng cho những mặt hàng thiết yếu, trước
hết là lương thực - thực phẩm. Đây là những loại hàng hóa được coi là có hệ số co
giãn thấp, nghĩa là nhu cầu tiêu dùng chúng ít thay đổi so với sự thay đổi của mức
thu nhập. Nhưng khi mức thu nhập của dân cư tăng lên, cơ cấu tiêu dùng của dân
cư cũng bắt đầu có sự thay đổi theo hướng tỷ lệ chi tiêu cho mặt hàng tiêu dùng
thiết yếu giảm đi tương đối, trong khi tỷ lệ chi tiêu cho những sản phẩm cao cấp
hơn tăng lên. Những loại hàng hóa này được coi là có hệ số co giãn về cầu cao hơn.
Chẳng hạn, theo quan sát của các nhà kinh tế, khi GDP/người đạt mức trên
1000USD/năm, những nhu cầu mua sắm các phương tiện đắt tiền như xe hơi,
phương tiện nghe nhìn, trang bị nội thất nhà ở, du lịch, ăn ngon hơn, mặc đẹp
hơn… bắt đầu xuất hiện, làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng vốn trước đó tập trung cho


18
những mặt hàng thiết yếu theo phương thức ăn no, mặc ấm. Rõ ràng, những dấu
hiệu chuyển dịch cơ cấu cầu có khả năng thanh toán có tác động dẫn dắt hướng đầu
tư kinh doanh của các nhà đầu tư và vì thế, tác động không nhỏ đến sự hình thành
cơ cấu kinh tế.
+ Thói quen tiêu ding:

Cùng với quy mô thị trường, thói quen tiêu dùng là một nhân tố “đầu ra” rất
có ý nghĩa mà các nhà kinh doanh thường rất quan tâm khi quyết định bỏ vốn đầu
tư và lựa chọn sản phẩm để đưa ra thị trường. Tuy đây là những quyết định thuộc
phạm vi quản lý vi mô, nhưng lại có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành cơ cấu sản
phẩm (cơ cấu phân ngành) của nền kinh tế quốc dân. Tính ưa thích theo thói quen
tiêu dùng một số loại sản phẩm nào đó đòi hỏi các nhà đầu tư phải nghiên cứu để
tìm cách đáp ứng và vì thế, tình trạng thỏa dụng của người tiêu dùng đã trở thành
một trong những chỉ tiêu tác động vào sự hình thành cơ cấu của nền kinh tế.
+ Các chính sách của Nhà nước:
Cũng như các nhân tố cung, các chính sách kinh tế của Nhà nước đối với
khía cạnh cầu có tác động mạnh tới sự hình thành và phát triển của những phân
ngành kinh tế nhất định. Sự khuyến khích hay không khuyến khích, thậm chí cấm
ngặt đối với một số lĩnh vực nào đó sẽ có tác động làm gia tăng mức tăng trưởng
hay kìm hãm, thậm chí loại bỏ một số lĩnh vực (sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ)
mặc dù tiềm năng cung và mức cầu của dân cư vẫn tồn tại. Thường thì đây là
những lĩnh vực có thể đem lại lợi nhuận xét về mặt kinh tế tài chính, nhưng việc có
cho phép phát triển hay không lại phụ thuộc vào các quan điểm chính trị, văn hóa
và xã hội, v.v…
1.2.1.2 - Lao động và vốn nhân lực
Độ lớn dân số và tốc độ tăng dân số rõ ràng là có ảnh hưởng đến quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên,
việc lý giải mối quan hệ giữa tốc độ tăng dân số và tăng trưởng kinh tế là tương đối
phức tạp và còn nhiều tranh cãi. Lao động là một yếu tố sản xuất trực tiếp trong quá
trình sản xuất. Tăng trưởng dân số thường được xem là một nhân tố tích cực trong
việc kích thích tăng trưởng kinh tế. Một lực lượng lao động dồi dào có nghĩa là
nguồn nhân lực sản xuất nhiều hơn trong khi đó dân số làm gia tăng tiềm năng của
thị trường nội địa. Ngược lại, cũng có nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tốc độ tăng
dân số có thể làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại. Dân số tăng gây áp lực
lên nguồn tài nguyên thiên nhiên, và nếu khu vực nông nghiệp không đủ khả năng



19
đáp ứng nhu cầu tăng thêm do dân số tăng, thì điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến tăng
trưởng kinh tế.
Trong khi vai trò của số lượng lao động (hay dân số) đối với tăng trưởng
kinh tế là một vấn đề còn đang tranh cãi thì việc gia tăng, cải thiện chất lượng lao
động hay vốn nhân lực có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế đã được nhiều
nhà kinh tế nhất trí. Vốn nhân lực có ý nghĩa là kỹ năng kiến thức mà người lao
động tích lũy trong quá trình lao động, học hỏi, nghiên cứu, giáo dục…Việc nâng
cao chất lượng nguồn lao động hay vốn nhân lực có tác dụng kích thích tăng trưởng
các ngành, do đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời có ý nghĩa nâng
cao chất lượng cơ cấu của nền kinh tế.
1.2.1.3- Khoa học và công nghệ
Trong một số mô hình tăng trưởng, đặc biệt là trong hàm sản xuất tân cổ
điển, khoa học công nghệ được giả định là phần còn lại giữa tốc độ tăng trưởng
thực và tốc độ tăng trưởng có trọng số của các yếu tố sản xuất khác, vì vậy nó đại
diện cho tất cả nhân tố đóng góp cho tăng trưởng ngoại trừ những sự gia tăng trong
những yếu tố sản xuất chính như lao động và vốn; hay nói cách khác, nó đại diện
cho tất cả các yếu tố sản xuất đóng góp cho tổng năng suất, bao gồm lợi thế tăng
dần theo quy mô và sự chuyên môn hóa. Người ta lập luận rằng, khoa học công
nghệ rất quan trọng đối với tăng trưởng, vì nó làm tăng năng suất của tất cả các yếu
tố sản xuất. Việc ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất sẽ có tác
dụng mạnh mẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng suất, chất
lượng hiệu quả của các ngành. Vì vậy, khoa học, công nghệ còn có tác dụng nâng
cao chất lượng cơ cấu của nền kinh tế.
1.2.1.4 - Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước phát sinh từ yêu cầu phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhà nước bằng vai trò can thiệp của mình sẽ bổ sung,
hoàn thiện, sửa chữa, khắc phục những “khuyết tật” của thị trường và cùng với cơ
chế thị trường khắc phục những vấn đề xã hội gay gắt. Chính sự kết hợp hài hòa,

một cách khoa học vai trò của thị trường và vai trò của Nhà nước sẽ đảm bảo cho
kinh tế phát triển bền vững. Sự thành công hay thất bại trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, ở một mức độ lớn gắn liền với việc sử dụng vai trò của Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ở các
mặt chủ yếu sau đây:


20
Một là, vai trò và năng lực của Nhà nước trong hoạch định chiến lược phát
triển và tổ chức quản lý kinh tế vĩ mô.
Tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không đơn thuần chỉ liên quan đến
kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải nằm trong một môi trường nhất định,
mặc dù trong môi trường đó chứa đựng nhiều nhân tố kinh tế, song cơ chế chính
sách tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho sản xuất kinh doanh mang màu sắc
chính trị có ý nghĩa thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế không kém gì màu sắc
kinh tế. Đó là những vấn đề về: định hướng chiến lược mở cửa; định hướng chiến
lược kết hợp các ngành; định hướng xóa đói, giảm nghèo …
Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô là tạo sức mạnh tổng hợp để nền kinh tế tăng
trưởng ổn định, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều đặn, nâng cao đời sống nhân dân,
thực hiện công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Trong nền kinh tế thị trường,
muốn có tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, bền vững thì phải tổ chức
quản lý tốt kinh tế vĩ mô. Đó là cách xử lý các vấn đề lạm phát, chính sách tài
chính - tiền tệ, tỷ giá hối đoái, tích lũy đầu tư và các chính sách có liên quan.
Hai là, nhà nước sử dụng có hiệu quả những đòn bẩy kinh tế mà nó thể hiện
trong hệ thống chính sách đối với việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tác động của Nhà nước tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa trên
những đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ như tài chính quốc gia, các ngân hàng trung ương
và hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Tài chính quốc gia tạo nên sự phát triển hài
hòa của cơ cấu kinh tế bởi ba chức năng cơ bản: chức năng thuế, chức năng điều
tiết kinh tế và chức năng điều chỉnh thu nhập. Các ngân hàng nhà nước, ngân hàng

thương mại và hệ thống tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất trong điều tiết tập
trung vốn vào những ngành kinh tế trọng yếu nhất.
Doanh nghiệp nhà nước được phát triển trong những ngành và lĩnh vực then
chốt. Nhà nước khởi xướng xây dựng những doanh nghiệp mới đảm đương những
hoạt động mà các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư kinh doanh.
Như vậy, vai trò của Nhà nước thông qua hệ thống chính sách có tác dụng to
lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nhân tố then chốt của toàn bộ sự phát triển kinh tế là kết quả hoạt động trí óc
con người. Sự phát triển nguồn nhân lực chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố,
trong đó phát triển giáo dục - đào tạo là nhân tố quyết định trình độ trí tuệ nguồn
nhân lực. Nhà nước có vai trò quyết định trong việc tạo ra và hội tụ các nguồn lực
để phát triển nguồn nhân lực. Điều đó thể hiện ở mục tiêu, công cụ, cơ chế tác động


21
của Nhà nước đến quá trình hình thành, phát triển, quản lý nguồn nhân lực, Nhà
nước tạo ra môi trường động lực cho sự hình thành, phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhà nước đề ra hệ thống chính sách tác
động đến phát triển nguồn nhân lực. Đó là chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách
khoa học - công nghệ, chính sách tuyển dụng, đánh giá và phân phối nguồn nhân
lực…
Nhà nước là nguời duy nhất có khả năng hoạch định chiến lược thực hiện kế
hoạch hóa phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, sự hình thành và phát triển nguồn
nhân lực được thực hiện ở nhiều kênh, trong đó Nhà nước là người duy nhất có khả
năng tổ chức và liên kết đảm bảo thống nhất hình thành phát triển nguồn nhân lực
hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.1.5- Yếu tố vị trí địa lý, địa hình, khí hậu và tài nguyên thiên nhiên
Cơ cấu kinh tế của một nước, một vùng được hình thành và phát triển trong
một không gian nhất định gắn liền với điều kiện cụ thể của không gian đó. Nó có
thể tạo ra lợi thế hay bất lợi cho một quốc gia hay một vùng.

Vị trí địa lý có ý nghĩa quan trọng, là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn
tới việc hình thành cơ cấu kinh tế. Nếu ở vị trí thuận lợi, một nước hay một vùng có
khả năng rất tốt để mở rộng thị trường, tiếp nhận các nguồn lực từ bên ngoài thúc
đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngược lại, nếu vị trí địa lý bất lợi,
thì việc thu hút các nguồn lực bên ngoài, phát huy các nguồn lực bên trong gặp
nhiều khó khăn.
Địa hình là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hình thành và biến đổi cơ cấu
kinh tế. Căn cứ vào vị trí và địa hình để bố trí ngành sản xuất trọng điểm có tác
động lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khí hậu thủy văn là nguồn tài nguyên liên quan và tác nhân ảnh hưởng đến
các ngành kinh tế quốc dân. Đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, yếu tố khí hậu thủy
văn có ảnh hưởng tới mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi; năng suất, chất lượng sản
phẩm và hiệu quả sản xuất.
Tài nguyên thiên nhiên bao gồm: đất đai, rừng, nguồn nước, khoáng sản …
Chúng có ảnh hưởng đến việc hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế. Sự phân bổ và
khai thác tài nguyên thiên nhiên có tác dụng rất quan trọng đối với sự phát triển các
ngành kinh tế. Với trình độ khoa học - công nghệ hiện đại, con người đã sử dụng
ngày càng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ sản xuất. Hiện tại cũng
như tương lai, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt là khó khăn lớn cho quá


22
trình tăng trưởng kinh tế, hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế. Con đường thoát
khỏi tình trạng này là dựa vào tiến bộ khoa học công nghệ, đồng thời tiến hành
thăm dò, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và phát triển theo hướng kinh tế tri thức.
Tóm lại, ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên đến hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế mang tính tất yếu, yếu tố nào cũng có tác dụng. Do vậy, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế phải dựa vào yếu tố tự nhiên và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
1.2.1.6. Mức độ liên kết kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập tạo cho thị trường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ngày càng được

mở rộng hơn về quy mô, phong phú hơn về chủng loại, nhạy cảm và linh hoạt hơn
về giá cả. Từ năm 2006, do tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam tham gia đầy đủ hơn về AFTA và WTO, thị trường sẽ có những thay đổi vô
cùng to lớn, tác động trực tiếp mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển.
Sự thay đổi của thị trường diễn ra trên các mặt sau:
- Thị trường trở thành vấn đề toàn cầu, phạm vi thị trường sẽ được mở rộng
ra toàn thế giới, không còn bị giới hạn trong phạm vi khu vực hay biên giới quốc
gia;
Quy mô thị trường sẽ ngày càng phát triển nhanh mạnh cả về chiều rộng lẫn
về chiều sâu, nhu cầu sẽ ngày càng lớn về quy mô, phong phú hơn về chủng loại và
chất lượng;
- Giá cả của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường quốc tế ngày càng nhạy cảm
hơn, phụ thuộc nhiều hơn vào quy luật của kinh tế thị trường;
- Nếu như hiện nay thị trường trong nước có vai trò quyết định và là cơ sở để
mở rộng, khai thông thị trường trong nước thì trong tương lai thị trường trong nước
và ngoài nước sẽ trở thành “một khối”, ranh giới giữa hai khu vực thị trường sẽ
ngày càng mờ nhạt, trong đó thị trường bên ngoài sẽ trở nên ngày càng quan trọng
hơn…Các xu hướng trên có tác dộng rất thuận lợi cho Thừa Thiên - Huế, việc thị
trường ngày càng mở rộng cho phép mở rộng thêm quy mô sản xuất, phát triển
thêm nhiều sản phẩm mới, tăng thêm xuất khẩu…
Hội nhập tạo cơ hội thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Nhờ hội nhập, các doanh nghiệp được hưởng lợi thế nhập khẩu vật tư, nguyên liệu,
máy móc, thiết bị với mức thuế thấp. Điều này góp phần giảm chi phí, giảm giá
thành sản phẩm, do vậy, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm sẽ có điều kiện để
được nâng cao hơn.
1.2.2 - Khái quát về một số mô hình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế


23
1.2.2.1 - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa

kiểu cổ điển
Mô hình phát triển theo kiểu cổ điển được đại diện bởi các nước đi tiên
phong trong cuộc cách mạng công nghiệp, và ngày nay đã trở thành những nước
công nghiệp phát triển như Anh, Pháp sau đó là Mỹ, Đức, Nga, Nhật Bản. Đây là
những nước có quy mô lãnh thổ và dân số tương đối lớn, tài nguyên thiên nhiên
khá phong phú và đa dạng, có trình độ kỹ thuật công nghệ khá phát triển và đội ngũ
thợ lành nghề đông đảo, đáp ứng tương đối đầy đủ những yêu cầu trong giai đoạn
đầu của cuộc cách mạng công nghiệp.
Đặc trưng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của các nước theo mô hình
cổ điển là diễn ra theo trình tự: công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, giao thông vận
tải và bưu điện, nông nghiệp và cuối cùng là các lĩnh vực dịch vụ và lưu thông.
Công cuộc công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành diễn ra một cách
từ từ, tiệm tiến, hiệu ứng lan tỏa chậm và phải kéo dài hàng trăm năm. So với các
nước công nghiệp mới thì mức tăng trưởng của các nước theo mô hình cổ điển
trước đây là không cao, song quá trình chuyển dịch cơ cấu này đã không gây ra
những mất cân đối trầm trọng và áp lực tích lũy vốn lớn cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, những điều kiện mới đã, đang và sẽ làm
nảy sinh những yếu tố thay thế và tạo ra những cơ hội để đi nhanh hơn, cho phép
các nước đi sau rút ngắn đáng kể quá trình công nghiệp hóa.
Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong mô hình công nghiệp hóa kiểu
cổ điển đã diễn ra “như một quá trình lịch sử tự nhiên”, để lại một hình mẫu có giá
trị tham khảo cho những nước đi sau trong sự nghiệp công nghiệp hóa. Ngày nay,
những điều kiện ràng buộc quá trình công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đã có những thay đổi rất căn bản nên không nhất thiết phải bắt buộc lặp lại quá
trình chuyển dịch cơ cấu của mô hình cổ điển. Song, tuyệt nhiên không phải vì vậy
mà có thể tiến hành những bước đi nhanh hơn theo lối bất chấp quy luật. Nó chỉ có
nghĩa rằng, dựa trên hình mẫu “chuẩn mực” cổ điển, điều kiện mới làm nảy sinh
những nhân tố thay thế, cho phép rút ngắn toàn bộ quá trình, thay vì trong mô hình
cổ điển, quá trình công nghiệp hóa đã phải kéo dài hàng trăm năm.
1.2.2.2 - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình công nghiệp hoá

kiểu kế hoạch hoá tập trung
Mô hình công nghiệp hoá trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung là mô hình
công nghiệp hoá XHCN, do Liên Xô và các nước XHCN trước đây tiến hành. Sự


24
khác biệt lớn nhất giữa mô hình công nghiệp hoá XHCN với mô hình công nghiệp
hoá kiểu “cổ điển” là ở khía cạnh thể chế kinh tế - xã hội. Việc tập trung mọi nguồn
lực kinh tế vào tay Nhà nước đã tạo điều kiện cho các nước theo mô hình kế hoạch
hoá tập trung tiếp cận vấn đề công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu hoàn toàn khác
với mô hình cổ điển. Ngoài ra, quá trình công nghiệp hoá của những nước theo mô
hình kế hoạch hoá tập trung còn diễn ra trong những điều kiện bên trong và bên
ngoài rất khác với các nước công nghiệp hoá kiểu “cổ điển”.
Quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của mô hình
kế hoạch hoá tập trung có một số đặc trưng đáng lưu ý:
Một là, Nhà nước trực tiếp tiến hành công nghiệp hoá bằng cách tập trung cao
độ các nguồn lực cho sự phát triển công nghiệp nặng ngay trong giai đoạn đầu của
thời kỳ công nghiệp hoá (70 - 90 % tổng số đầu tư cho công nghiệp), với mục tiêu
độc lập tự chủ của nền kinh tế; đồng thời coi đó là cơ sở để phát triển nhanh chóng
nền kinh tế, xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, đuổi kịp trình độ của thế giới.
Hai là, việc duy trì tính cân đối giữa các ngành của quá trình công nghiệp hoá
được tính toán dựa trên các chỉ tiêu hiện vật, gần như tách rời hẳn các quan hệ thị
trường.
Đây là một thuộc tính riêng có, gắn liền với yếu tố thể chế của mô hình công
nghiệp hoá theo kiểu kế hoạch hoá tập trung. Dưới chế độ công hữu (về thực chất
mang nặng tính hình thức), các quan hệ thị trường và các công cụ của nó, đặc biệt là
thước đo các mối liên hệ tỷ lệ thông qua giá trị, đã bị gạt ra khỏi quá trình tính toán
kế hoạch và vận động của toàn bộ nền kinh tế. Giá cả chỉ có ý nghĩa kế toán, hỗ trợ
chứ không được xem là căn cứ đề ra quyết định phân bổ nguồn lực có hạn của quốc
gia vào việc phát triển một lĩnh vực hay một ngành nào đó. Vì vậy, chỉ tiêu hiệu quả

kinh tế thiếu đi một thước đo khách quan và thay vào đó là các quyết định mang tính
chủ quan trong phân bổ nguồn lực.
Ba là, quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được
đẩy nhanh bằng cách áp dụng nhiều biện pháp hành chính phi kinh tế.
Đây chính là hệ quả phát sinh trực tiếp từ hai đặc điểm nêu trên. Do mong
muốn đẩy nhanh tốc độ thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện nền kinh tế còn
kém phát triển, các mối quan hệ kinh tế với bên ngoài hạn hẹp nên nguồn vốn đầu tư
hầu như hoàn toàn dựa vào tích luỹ trong nước (hoặc một phần nhờ vào sự viện trợ
từ các nước XHCN anh em trong một số trường hợp khác), nên sự thiếu hụt và căng
thẳng về nguồn vốn đã được giải quyết bằng chỉ tiêu giao nộp (ngân sách) tập trung

×