Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 141 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





LÊ QUANG ĐIỆP





CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH
TẾ
Ở TỈNH THANH HOÁ















CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH
TẾ
Ở TỈNH THANH HOÁ


Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 60. 31. 01




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS PHAN HUY ĐƢỜNG


Hà Nội - 2008




MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………… ………….………………

1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH KINH TẾ ………………………………….…………………………… …………………………….……………….
4
1.1
Cơ cấu kinh tế ………………………………………….…………………………………… ….………………
4
1.1.1
Khái niệm………………………………………………………………………………………… ………………
4
1.1.2
Các tính chất cơ bản của một cơ cấu kinh tế ………………………….……….……….…
5
1.2
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ………………………….…………… ……… …………
8
1.2.1
Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế ……………………………………………….…………………….
8
1.2.2
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa của nó ………………….…… …….
9
1.2.3
Tính quy luật về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ……………………… ………
12
1.2.4
Những tiêu chí cơ bản phản ảnh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

18
1.2.5

Những nhân tố tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
…………
21
1.3
Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một số địa
phƣơng và bài học kinh nghiệm cho Thanh Hoá ……………………….…………
29
1.3.1
Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một số địa phương
29
1.3.2
Bài học kinh nghiệm cho Thanh Hoá …………… ……………………….…………………….
33
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ Ở THANH HOÁ TỪ NĂM 2001 - 2007 …………….…………………………………………
35
2.1
Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thanh Hoá ……
35
2.1.1
Điều kiện tự nhiên ……………… ………………… …………………………………………………………
35
2.1.2
Điều kiện kinh tế - xã hội …… ………………….………………………………………………………
38
2.2
Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá từ năm
2001 - 2007 …………………………………………………………….………………………………………………
41
2.2.1

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo GDP ………………………………………………
43
2.2.2
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế ………………………….……………
44
2.2.3
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo vốn đầu tư…………………….………… ……
45
2.2.4
Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ các ngành kinh tế ………………………… ……
48
2.3
Đánh giá chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn
2001-2007 ở Thanh Hoá ………………………………………………………………………… ……….
73
2.3.1
Những kết quả đạt được ……………………………………………… …………….………………………
73
2.3.2
Những hạn chế và nguyên
76


nhân………………………………………………………………………….



CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở THANH HÓA TRONG THỜI GIAN TỚI
79

3.1
Bối cảnh kinh tế mới ảnh hƣởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở Thanh Hoá ……………………………………………………………….…………
79
3.1.1
Bối cảnh quốc tế …………………………………………………………………………………… ……………
79
3.1.2
Bối cảnh trong nước ………………………………….………………………….………… …………………
81
3.1.3
Cơ hội và thách thức đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Thanh Hoá ………………………………………………………………… ……………………… ………………
85
3.2
Quan điểm và phƣơng hƣớng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Thanh Hoá trong thời gian tới ……………………………….………………… …………………
86
3.2.1
Quan điểm và mục tiêu chuyển dịch ………………………………….……………………………
86
3.2.2
Phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế …………………….………………….
88
3.3
Các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở Thanh Hoá trong thời gian tới …………………….………………
101
3.3.1
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội …………………………………… ………………….……

101
3.3.2
Vốn đầu tư ………………………………….……………… ………………………………….………………………
106
3.3.3
Khoa học kỹ thuật - công nghệ ……………………………….……………… ………………………
113
3.3.4
Đào tạo và nâng cao chất lượng nhân lực …………………………… ……………………….
116
3.3.5
Thị trường ………………………………….……………………………….……………………… ………………….
121
3.3.6
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội …………………………………………………… ………………….
122
3.3.7
Cơ chế chính sách……………………………………………………………………………… …………………
123
3.3.8
Công tác lãnh đạo điều hành của chính quyền các các cấp ………………………
126

KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………………… ……………
127

Tài liệu tham khảo ……………………………………………………………… …………………
129












DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


AFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
CCKT
Cơ cấu kinh tế
CCNKT
Cơ cấu ngành kinh tế
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
LLSX
Lực lượng sản xuất
NSNN
Ngân sách nhà nước

ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
QHSX
Quan hệ sản xuất
TPKT
Thành phần kinh tế
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
WTO
Tổ chức thương mại thế giới





1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thanh Hoá nằm ở khu vực Bắc miền Trung, là địa phương giàu truyền thống
cách mạng, nơi được coi là "địa linh nhân kiệt", có nhiều tiềm năng, lợi thế so
sánh về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, nguồn nhân lực
dồi dào … để phát triển kinh tế - xã hội. Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng, Thanh Hoá đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đời sống của
nhân dân không ngừng được nâng cao, kinh tế tăng trưởng khá, các mặt văn hoá -
xã hội có điều kiện phát triển. Tuy nhiên đến nay, khả năng khai thác một cách
hiệu quả các nguồn lực để phát triển vẫn chưa tương xứng với các tiềm năng hiện
có. Do vậy, Thanh Hoá vẫn là một tỉnh nghèo, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn, kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật còn lạc hậu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng còn chậm, trình độ của nền kinh tế

vẫn ở mức thấp và cơ bản vẫn là tỉnh nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ là chủ
yếu, chưa tạo ra những ngành, vùng sản xuất hàng hoá có khối lượng lớn và chất
lượng cao, chất lượng tăng trưởng, khả năng hội nhập và hiệu quả của nền kinh tế
còn thấp, chưa thật sự phát huy khai thác được thế mạnh của các vùng, miền để
phát triển nhanh và bền vững.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, phân
công lao động quốc tế ngày một sâu sắc hơn, sự cạnh tranh giữa các nước cũng
diễn ra vô cùng gay gắt. Để có thể khai thác được mọi nguồn lực, đem lại hiệu
quả và sức cạnh tranh cao cho nền kinh tế thì việc lựa chọn một cơ cấu kinh tế
hợp lý là điều rất cần thiết đối với bất cứ một quốc gia hay địa phương nào.
Với mục tiêu tổng quát là đến năm 2010 đưa Thanh Hoá thoát ra khỏi tỉnh
nghèo, đến năm 2020 đưa Thanh Hoá cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp.
Đồng thời, trước những yêu cầu mới của công cuộc đổi mới thì việc chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá đang đặt ra nhiều vấn đề bức bách cần phải
giải quyết kịp thời. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một trong những
nội dung đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, được Đảng bộ


2
và nhân dân trong Tỉnh đặt ra tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV.
Với ý nghĩa ấy, đề tài: "Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Tỉnh Thanh Hoá"
mà tôi chọn lựa nghiên cứu làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Kinh tế Chính trị là
hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Vấn đề cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng
đã có nhiều tác giả và nhiều công trình nghiên cứu được công bố, như:
- Ngô Đình Giao: "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH nền
kinh tế quốc dân" tập II - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Hà Nội 1994.
- Đỗ Hoài Nam: "Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và phát triển những ngành
trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam" Nhà xuất bản Khoa học Xã hội - Hà Nội 1996.

- Lê Du Phong - Nguyễn Thành Độ: "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều
kiện hội nhập với khu vực và thế giới" Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm
1999.
- Nguyễn Trần Quế: "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm
đầu thế kỷ 21" Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội 2004.
- Bùi Tất Thắng: "Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam" Nhà xuất
bản khoa học xã hội - Hà Nội 2006.
Nói chung, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến nhiều nội dung
quan trọng về CCKT và chuyển dịch CCNKT, các kết quả đạt được đã có tác
động nhất định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các địa
phương. Nhưng chưa có tài liệu nào tập trung nghiên cứu sự chuyển dịch CCNKT
ở Thanh Hoá. Vì thế, việc nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề Chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế ở Tỉnh Thanh Hoá thực sự là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là trên cơ sở phân tích lý luận và thực
trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Tỉnh Thanh Hoá từ năm 2001 - 2007,
tìm ra nguyên nhân của các kết quả đã đạt được, cũng như những tồn tại, hạn chế
để đề ra quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá trong thời gian tới.


3
Để đạt được mục đích trên, Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Trình bày cơ sở lý luận về CCKT và chuyển dịch CCNKT.
- Phân tích thực trạng chuyển dịch CCNKT ở Thanh Hoá từ năm 2001 - 2007.
- Đề ra quan điểm, phương hướng và giải pháp tiếp tục thực hiện chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế ở Tỉnh Thanh Hoá.

- Phạm vi nghiên cứu: Tác giả luận văn tiến hành thu thập số liệu, nghiên cứu
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Tỉnh Thanh Hoá trong khoảng thời
gian từ năm 2001 - 2007.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, mà chủ yếu là nghiên
cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, điều tra,
khảo sát, thống kê, mô hình … trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ nội dung luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn:
- Trên cơ sở hệ thống hoá lý luận và kinh nghiệm, luận văn làm rõ tính tất yếu
khách quan phải chuyển dịch CCNKT ở Thanh Hoá trong thời gian tới.
- Đánh giá kết quả chuyển dịch CCNKT ở Thanh Hoá trong những năm qua,
đặc biệt là từ năm 2001 - 2007. Đồng thời, chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong quá
trình thực hiện chuyển dịch CCNKT.
- Đưa ra quan điểm, phương hướng và giải pháp tiếp tục đẩy mạnh chuyển
dịch CCNKT ở Thanh Hoá trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 3 chương.
Chương 1: Lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Tỉnh Thanh
Hoá từ 2001 - 2007


4
Chương 3: Quan điểm, phƣơng hƣớng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở Tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới.
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ


1.1 Cơ cấu kinh tế
1.1.1 Khái niệm
Với sự phát triển không ngừng của LLSX đã thúc đẩy phân công lao động xã
hội ngày càng sâu sắc hơn. Các ngành, lĩnh vực được phân chia theo tính chất sản
phẩm, chuyên môn kỹ thuật. Khi các ngành, lĩnh vực kinh tế ấy được hình thành,
chúng không đứng độc lập với nhau mà luôn tác động qua lại lẫn nhau, vừa hợp
tác vừa đấu tranh với nhau trong quá trình tồn tại và phát triển. Sự phân công và
mối quan hệ hợp tác giữa các bộ phận cấu thành trong một hệ thống kinh tế thống
nhất là tiền đề cho quá trình hình thành CCKT.
Đến nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau về CCKT, tuỳ theo quan điểm và
mục đích nghiên cứu. Song có thể tổng hợp một số cách tiếp cận cơ bản sau đây:
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam viết: "CCKT là tổng thể các ngành, lĩnh
vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành"[23, tr.610].
Khi phân tích quá trình phân công lao động xã hội, C. Mác đã viết: "CCKT
của xã hội là toàn bộ những QHSX phù hợp với tính chất và quá trình phát triển
nhất định của LLSX vật chất"[1, tr.7]. Như vậy, theo quan điểm của C. Mác,
CCKT có cấu trúc bao gồm: Những yếu tố gắn với LLSX (quan hệ giữa họ với tự
nhiên và kỹ thuật) và các nội dung của QHSX (quan hệ giữa người với người
trong quá trình tái sản xuất xã hội) hợp thành. C.Mác cũng nhấn mạnh, khi phân
tích CCKT phải chú ý đến cả hai khía cạnh là chất lượng và số lượng. Theo Ông,
cơ cấu là một sự phân chia về chất và một tỷ lệ về số lượng của quá trình sản xuất
xã hội.
Theo cách tiếp cận hệ thống, CCKT hiểu một cách đầy đủ là một tổng thể hệ
thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua


5
lại lẫn nhau trong những khoảng không gian và thời gian nhất định, được thể
hiện cả về mặt định tính và định lượng, cả về mặt số lượng lẫn chất lượng, phù

hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế.
Rõ ràng, cách tiếp cận này đã phản ánh được bản chất của CCKT, đó là:
CCKT là tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của
một quốc gia.
CCKT bao gồm số lượng, tỷ trọng các nhóm ngành và các yếu tố cấu thành hệ
thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Trong CCKT, giữa các nhóm ngành luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau và cùng hướng vào mục tiêu xác định.
CCKT không chỉ giới hạn trong mối quan hệ giữa các ngành mang tính cố
định hay khuôn mẫu, mà luôn biến đổi tuỳ thuộc vào điều kiện không gian và thời
gian xác định. CCKT không thể cố định lâu dài mà cần có sự thay đổi thích hợp
(tương thích) với các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi đất nước, địa
phương, qua đó hình thành nên một CCKT hợp lý để có thể cho phép khai thác
một cách hiệu quả các nguồn lực hiện có nhằm tạo ra sự phát triển cân đối và bền
vững.
Kế thừa các quan niệm trên, có thể đi đến định nghĩa về CCKT như sau:
CCKT là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương
ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
1.1.2 Các tính chất cơ bản của một cơ cấu kinh tế
Để nhận thức đúng đắn quá trình hình thành và xu thế biến đổi khách quan của
CCKT, trên cơ sở đó tìm ra luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách phát
triển kinh tế sát thực với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, địa phương trong mỗi
giai đoạn nhất định, cần làm rõ một số tính chất chủ yếu sau đây của CCKT.
Một là, cơ cấu kinh tế mang tính chất khách quan
CCKT được hình thành trên cơ sở phát triển không ngừng của LLSX và phân
công lao động xã hội, do vậy mà nó mang tính khách quan. Khi ấy, tất yếu nền
kinh tế sẽ hình thành nên một CCKT với tỷ lệ cân đối tương ứng giữa các bộ
phận, tỷ lệ đó được thay đổi thường xuyên và tự giác theo quá trình diễn biến



6
khách quan của nhu cầu xã hội và khả năng đáp ứng yêu cầu đó. Theo C. Mác:
“Trong sự phân công xã hội thì con số tỷ lệ là một tất yếu không sao tranh khỏi,
một sự tất yếu thầm kín yên lặng …”[2, tr.58].
Trên thực tế, CCKT chính là sự biểu hiện tóm tắt, cô đọng nội dung chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay địa phương trong từng giai đoạn
nhất định. Việc xây dựng một CCKT hợp lý phải tuân theo các quy luật kinh tế
khách quan, không được áp đặt chủ quan, tự đặt ra cho các ngành những vị trí, tỷ
lệ không phù hợp với nhu cầu thực tế và xu thế phát triển của xã hội. Mọi sự áp
đặt chủ quan, nóng vội nhằm nhanh chóng tạo ra một CCKT theo ý muốn thường
dẫn đến những hậu quả khôn lường, bởi lẽ sai lầm về CCKT là sai lầm lớn về
chiến lược, rất khó có thể khắc phục hậu quả.
Hai là, cơ cấu kinh tế mang tính chất lịch sử - xã hội cụ thể
Sự biến đổi của CCKT luôn gắn liền với sự thay đổi không ngừng của LLSX,
nhu cầu tiêu dùng và đặc điểm chính trị - xã hội của từng thời kỳ. CCKT được
hình thành khi quan hệ giữa các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế được xác lập
một cách cân đối và sự phân công lao động xã hội diễn ra một cách hợp lý.
Sự vận động và phát triển không ngừng của LLSX là xu hướng phổ biến ở mọi
quốc gia. Song, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự
nhiên trong quá trình tái sản xuất mở rộng ở mỗi giai đoạn lịch sử, ở mỗi quốc gia
lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi QHSX, đặc trựng văn hoá -
xã hội, các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc … Ngay như ở những nước có hình thái
kinh tế - xã hội giống nhau, song cũng có sự khác nhau trong việc hình thành
CCKT, bởi vì các điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội và quan điểm chiến lược
ở mỗi nước là khác nhau.
Do vậy, sự hình thành CCKT chẳng những mang tính khách quan mà còn
mang tính lịch sử - xã hội cụ thể. Điều đó đòi hỏi chủ thể quản lý nền kinh tế là
Nhà nước không chỉ cần có khả năng nhận thức đúng đắn các quy luật kinh tế mà
còn biết cách vận dụng chúng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước.
Muốn vậy, Nhà nước cần đánh giá chính xác các nguồn lực hiện có ở trong nước

và ngoài nước, tìm ra phương thức khai thác có hiệu quả các nguồn lực ấy trên cơ


7
sở phát huy lợi thế so sánh của đất nước để hình thành nên một CCKT hợp lý
nhằm không ngừng nâng cao sức sản xuất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
nhất là trong điều kiện quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng
diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc.


Ba là, cơ cấu kinh tế có tính động
Theo quan điểm của Triết học Mác-xít, mọi sự vật và hiện tượng luôn luôn
vận động và biến đổi không ngừng. Do vậy, CCKT cũng không thể nằm ngoài
quy luật biến đổi khách quan đó. Khi một CCKT được hình thành nó cũng có sự
ổn định tương đối, nhưng bên trong nó luôn có sự biến đổi không ngừng cho phù
hợp sự biến đổi của LLSX và phân công lao động xã hội. LLSX ngày càng phát
triển, con người ngày càng văn minh, khoa học kỹ thuật - công nghệ ngày càng
hiện đại, trình độ chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng cao,
tất yếu sẽ làm cho CCKT biến đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Khi đó,
nó cho phép nền kinh tế khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực phát
triển, nâng cao năng suất lao động, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn với chất lượng
ngày càng cao, chủng loại mẫu mã hàng hoá phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng của xã hội.
Trong một CCKT, các bộ phận hợp thành cũng luôn biến đổi và có tác động
tương hỗ lẫn nhau, bộ phận kinh tế phát triển hơn sẽ có tác dụng như “đầu tàu"
kéo các bộ phận kinh tế kém phát triển biến đổi theo. Khi các bộ phận kinh tế này
tích luỹ đủ về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất, và khi đó, một CCKT mới ra
đời sẽ mang trong mình nhiều tính vượt trội hơn so với CCKT trước đó. Tuy
nhiên, CCKT không biến đổi một cách cơ học mà nó có tính ổn định tương đối
trong một thời gian nhất định để đảm bảo cho sự phù hợp với quá trình hình thành

và phát triển của nó một cách khách quan. Bởi vì, nếu có sự thay đổi thường
xuyên, CCKT sẽ tạo ra sự bất ổn định trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi
và tiêu dùng, gây tổn thất cho nền kinh tế.
Bốn là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình


8
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng luôn diễn ra theo quy luật phát triển
từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến này càng hoàn thiện hơn. Sự biến đổi ấy
dù diễn ra nhanh hay chậm cũng cần phải có một khoảng thời gian nhất định đủ
để tích luỹ về lượng, tạo ra sự biến đổi về chất, sinh ra sự vật mới tiến bộ hơn.
Một CCKT mới ra đời không thể từ hư vô, mà nó là kết quả của sự biến đổi
dần dần từ CCKT cũ trên cơ sở kế thừa những nhân tố còn phù hợp, đào thải
những nhân tố lạc hậu và bổ sung thêm ngày càng nhiều những nhân tố tiên tiến
hơn. Tính tất yếu khách quan này trước hết đòi hỏi chủ thể quản lý nền kinh tế
cần có sự tác động hợp lý trên cơ sở tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan,
vận dụng linh hoạt và phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia, địa
phương để thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch CCKT theo hướng tiến bộ. Trong hoạt
động thực tiễn, cần tránh sự nóng vội, áp đặt chủ quan, duy ý chí vì như vậy sẽ
kìm hãm sự chuyển dịch CCKT theo hướng tiến bộ.
1.2 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.2.1 Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế
Từ sự phân tích lý luận về CCKT ở trên, chúng ta có thể hiểu: CCNKT là tổ
hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các
nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân.
CCNKT là một trong những thước đo quan trọng phản ánh trình độ phát triển
của LLSX và phân công lao động xã hội của mỗi quốc gia.
Khi nghiên cứu về CCNKT của một quốc gia, người ta thường phân tích 3
nhóm ngành chính là nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ (ngành cấp I). Tuỳ theo
mục đích, tính chất, mức độ nghiên cứu mà có thể chia ra các phân ngành (ngành

cấp II) như: trồng trọt, chăn nuôi… trong nông nghiệp; cơ khí, luyện kim, năng
lượng … trong công nghiệp; ngành cấp III (lúa, màu …) trong trồng trọt .v.v…
Sự vận động của các ngành kinh tế và mối liên hệ của nó với nhau vừa tuân theo
quy luật chung của sự phát triển sản xuất xã hội, lại vừa mang nét đặc thù của mỗi
giai đoạn và mỗi quốc gia.
Vì vậy, mục đích nghiên cứu CCNKT là nhằm tìm ra cách thức duy trì tính tỷ
lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung các nguồn lực có hạn


9
của quốc gia trong mỗi thời kỳ để thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
CCNKT là một bộ phận cơ bản cấu thành cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Nó
là một phạm trù trừu tượng, có quan hệ phức tạp với các bộ phận kinh tế khác,
nên muốn nắm vững bản chất của CCNKT và đưa ra được các giải pháp phù hợp
nhằm chuyển dịch CCNKT nhanh và hiệu quả cũng cần xem xét, làm rõ bản chất
của các bộ phận kinh tế hợp thành khác. Đó là CCKT vùng lãnh thổ và cơ cấu
TPKT.
Nhưng vì CCNKT là nội dung trụ cột phản ánh trình độ phát triển của nền
kinh tế, nó chiếm vị trí rất quan trọng nên đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu vào
những vấn đề liên quan đến CCNKT.
1.2.2 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa của nó
1.2.2.1 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
CCNKT không thể cố định, bất biến mà liên tục vận động, biến đổi để phù hợp
với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội của từng quốc gia, địa
phương trong mỗi thời kỳ nhất định. Sự thay đổi đó có thể gọi là chuyển dịch
CCNKT. Đây là một tất yếu khách quan, xuất phát từ sự phát triển của LLSX và
phân công lao động xã hội, trong đó chịu sự tác động mạnh mẽ nhất của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ.
CCNKT cần phải chuyển dịch để phù hợp với sự phát triển mau lẹ của môi

trường kỹ thuật - công nghệ bên ngoài, quá trình chuyển dịch sẽ làm cho một số
ngành lạc hậu mất đi, một số ngành mới ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất
và tinh thần của xã hội trong giai đoạn phát triển mới. Tốc độ phát triển của các
ngành thường diễn ra không đồng đều, theo quy luật của sự chọn lọc tự nhiên thì
những ngành nào thật sự cần thiết cho quốc kế dân sinh sẽ phát triển nhanh, và
ngược lại những ngành lạc hậu thì tốc độ phát triển sẽ chậm dần lại, quy mô ngày
càng bị thu hẹp, thậm chí bị tiêu vong. Sự phát triển không đồng đều ấy dẫn đến
sự thay đổi CCNKT quốc dân.
Như vậy, chuyển dịch CCNKT chính là sự vận động, phát triển của các ngành
làm thay đổi vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương tác giữa chúng theo thời gian


10
để phù hợp với sự phát triển ngày càng cao của LLSX và phân công lao động xã
hội.
Trên bình diện kinh tế vĩ mô, chuyển dịch CCNKT là kết quả của sự vận động,
phát triển của ba ngành chính: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Sự thay đổi
CCKT phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội, được biểu hiện chủ
yếu trên hai mặt là: Thứ nhất, LLSX càng phát triển càng tạo điều kiện cho phân
công lao động xã hội trở nên sâu sắc hơn; và thứ hai là, sự phát triển của phân
công lao động xã hội đến lượt nó lại càng làm cho mối quan hệ kinh tế thị trường
được củng cố và phát triển. Như vậy, sự thay đổi về chất và lượng của CCKT, đặc
biệt là CCNKT phản ánh trình độ phát triển của LLSX xã hội, và trong thời kỳ
CNH, HĐH nó phản ánh mức độ đạt được của quá trình công nghiệp hoá. Chính
vì vậy, ngày nay kinh tế học coi chuyển dịch CCKT là một trong những nội dung
trụ cột phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Sự khẳng định này là một
bước tiến quan trọng trong nhận thức lý luận và tư duy chính sách kinh tế. Bởi vì,
thực tế cho thấy rằng, có nhiều quốc gia tuy đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
(tức là chỉ số gia tăng GDP, GNP hay GDP/người, GNP/người cao) nhưng cấu
trúc (cơ cấu) của nền kinh tế vẫn ít có sự thay đổi, thậm chí có sự tách rời giữa

khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại với khu vực nông nghiệp lạc hậu, và vì
vậy, khu vực nông nghiệp với đông đảo nông dân nghèo khó vẫn không được chia
sẻ những thành quả của tăng trưởng kinh tế.
Ngày nay, với sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ và xu
hướng toàn cầu hoá, thế giới đã bắt đầu bước sang kỷ nguyên nền kinh tế tri thức,
khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ đã làm cho quá trình chuyển dịch CCKT đi
theo xu hướng tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ trong GDP và trong
tổng nguồn lao động xã hội tăng, trong khi tỷ trọng của nông nghiệp (cũng tính
trong GDP và tổng nguồn lao động xã hội) giảm. Tỷ trọng các ngành công nghệ -
kỹ thuật mới tăng lên nhanh chóng và dần chiếm ưu thế, tỷ trọng các ngành
truyền thống giảm dần. Các quốc gia đi đầu trong lĩnh vực công nghệ mới, đặc
biệt là công nghệ tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường sẽ giành vị trí thống
trị, áp đảo trong nền kinh tế khu vực và thế giới. Đồng thời, dân cư thành thị tăng,


11
dân cư nông thôn giảm. Sự thay đổi của CCKT phản ánh mức độ thay đổi của
phương thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những khu vực có năng
suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn có tốc độ phát triển nhanh hơn và thay thế
dẫn những khu vực sản xuất kinh doanh có năng suất lao động và giá trị gia tăng
thấp. Điều đó làm cho các quốc gia cũng phải có chính sách điều chỉnh CCKT
cho phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế toàn cầu.
1.2.2.2 Ý nghĩa của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch CCNKT luôn là một trong những vấn đề then chốt, đóng vai trò
rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Một là, phát huy các
lợi thế so sánh để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển của
quốc gia, địa phương như về đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn, nguồn nhân lực,
trên cơ sở đó tái cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phân bổ những nguồn lực từ
khu vực có năng suất thấp sang khu vực có năng suất cao hơn. Hai là, tạo ra sức
sản xuất hàng hoá với khối lượng lớn, chất lượng cao, đa dạng về chủng loại để

đáp ứng nhu cầu cho nhân dân và xuất khẩu. Ba là, góp phần tạo ra nhiều công ăn
việc làm và không ngừng tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người lao động,
góp phần xoá đói, giảm nghèo, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi thành phần trong xã
hội vươn lên làm giàu chính đáng trong khuôn khổ pháp luật. Bốn là, góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mở ra cơ hội cho các ngành tiến
hành CNH, HĐH, nâng cao trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật - công nghệ cao
và phương thức quản lý tiên tiến vào các hoạt động sản xuất - kinh doanh, mở ra
cơ hội để thâm nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới…
Việt Nam đã đạt được nhiều thành công vì đã có sự chuyển dịch CCNKT đúng
hướng. Đảng và Nhà nước ta chủ trương giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng
tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, thực hiện CNH, HĐH đất nước. Tỷ trọng
ngành nông nghiệp giảm từ 24,53% năm 2000 xuống còn 20,30% năm 2007;
công nghiệp - xây dựng tăng từ 36,73% năm 2000 lên 41,58% năm 2007, dịch vụ
giảm nhẹ từ 38,74% năm 2000 xuống còn 38,12% năm 2007. Điều đó đã làm cho
tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt khá cao, với mức bình quân giai đoạn
(2000-2007) đạt 7,7%.


12
Chuyển dịch CCNKT ở Việt nam trong thời gian qua đã cải thiện đáng kể
cuộc sống của người dân. Từ một quốc gia thiếu lương thực trở thành nước xuất
khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Điều đó càng có ý nghĩa hơn khi hiện nay việc
thiếu lương thực ở nhiều quốc gia khác là một vấn đề nan giải, rất khó giải quyết.
Hơn nữa, năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của các ngành kinh tế được
nâng lên đáng kể, tạo ra tiền đề quan trọng để bước vào hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vấn đề chuyển dịch
CCNKT ở Việt Nam hiện nay còn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức như:
chưa đầu tư đúng mức cho các ngành công nghiệp công nghệ cao, vẫn còn nặng
nề về công nghiệp sử dụng nhiều lao động, quá trình hiện đại hoá chưa được quan
tâm đúng mức, chưa xác định được cơ cấu đầu tư hợp lý. Ngành công nghiệp chủ

yếu phát triển theo chiều rộng, cơ bản vẫn là các ngành sử dụng nhiều lao động,
chất lượng chưa cao và vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế. Chính vì vậy
làm cho sức cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp thấp, tình trạng "thua trên sân
nhà" diễn ra phổ biến.
Ngành nông nghiệp về cơ bản vẫn sản xuất theo phương thức truyền thống,
chưa tạo ra được nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, chuyển dịch CCKT
nông nghiệp diễn ra chậm chạp, trình độ sản xuất lạc hậu … nên năng suất lao
động thấp, chất lượng hàng hoá không cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường
quốc tế còn nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người nông dân,
tầng lớp chiếm gần 70% dân số cả nước.
Các ngành dịch vụ cao cấp có hàm lượng chất xám cao phát triển chậm, đóng
góp vào GDP còn nhỏ.
Tất cả những điều đó đòi hỏi chuyển dịch CCNKT ở Việt Nam diễn ra nhanh
hơn, làm cho nền kinh tế đất nước giữ vững nhịp độ tăng trưởng nhanh, phát triển
bền vững trong tương lai.
1.2.3 Tính quy luật về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Mọi sự vật, hiện tượng đều có quy luật vận động và phát triển vốn có của nó.
Các ngành kinh tế cũng không nằm ngoài quy luật đó, khi đã ra đời chúng cũng
có quy luật hoạt động nhất định, không theo ý muốn chủ quan của con người. Vì


13
lẽ đó, con người chỉ có thể khám phá ra quy luật vận động của chúng, từ đó có
cách thức tác động phù hợp để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch theo hướng có lợi
chứ tuyệt nhiên không thể làm trái ngược quy luật.
1.2.3.1 Quy luật biến đổi chung của các ngành kinh tế vĩ mô
CCNKT luôn có sự biến đổi và phát triển không ngừng theo nguyên lý của sự
phát triển là từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Các bộ phận hợp thành CCNKT là các ngành kinh tế vĩ mô (hay ngành cấp I),
giữa chúng đều có mối liên hệ gắn bó hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động

qua lại lẫn nhau, tạo ra những điều kiện, tiền đề cho nhau trong quá trình phát
triển. Sự ảnh hưởng ấy vừa thống nhất, vừa đấu tranh nhau do sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập trong một chỉnh thể CCNKT, là nguyên nhân của sự
phát triển. Quá trình đó diễn ra tuần tự từ sự tích luỹ về lượng đến sự nhảy vọt về
chất. Cách thức của sự phát triển là phủ định những nhân tố lạc hậu, kế thừa
những nhân tố hợp lý và bổ sung thêm những nhân tố mới để hình thành nên một
CCNKT tiến bộ hơn.
Trên thực tế, các ngành kinh tế vĩ mô vận động theo xu hướng chung là: Tỷ
trọng ngành nông nghiệp giảm tương đối (có thể tăng tuyệt đối), tỷ trọng ngành
công nghiệp và dịch vụ tăng tương đối trong cơ cấu GDP.
Xu hướng chung ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay là chuyển dịch
CCNKT theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghệ kỹ thuật cao và ngành
dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, ưu tiên phát triển những ngành tiết
kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Về bản chất, đây là sự chuyển dịch từ khu vực có năng suất lao động thấp sang
khu vực có năng suất lao động cao hơn để tái cơ cấu lại nền kinh tế, ngành kinh tế
nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nước trong
xu thế toàn cầu hoá để tạo ra tốc độ phát triển nhanh và bền vững. Tính phổ quát
này do tính chất ưu việt trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ quyết định. Bởi vì:
Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thiên nhiên,
có độ rủi ro cao, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp, qui mô sản xuất nhỏ
bé, không mang lại giá trị gia tăng cao. Nên để có thể phát triển nhanh cần phải


14
rút bớt các nguồn lực dành cho nông nghiệp như lao động, đất đai, vốn … để
chuyển sang khu vực công nghiệp, dịch vụ - nơi có khả năng sử dụng nguồn lực
ấy với hiệu suất sinh lời và hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. Tuy nhiên, trên thực
tế thì không nhất thiết xảy ra như vậy, ngành nông nghiệp vẫn có thể tăng cả tuyệt
đối và tương đối tuỳ thuộc vào từng thời kỳ, miễn là khi đó nó vẫn mang lại giá trị

gia tăng và hiệu quả kinh tế cao. Chẳng hạn, có những lĩnh vực nông nghiệp khi
được đầu tư đúng mức về hạ tầng kinh tế kỹ thuật, nhất là được áp dụng khoa học
kỹ thuật - công nghệ hiện đại vào sản xuất thì vẫn mang lại hiệu quả và giá trị gia
tăng cao. Do đó, trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển các ngành kinh
tế cần nhận thức sâu sắc rằng, những ngành, lĩnh vực nào có khả năng tạo ra giá
trị gia tăng cao, có thể cạnh tranh được trên thị trường thì vẫn nên tập trung đầu tư
phát triển, chứ không nhất thiết là trong nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ.
Khu vực công nghiệp, với tính ưu việt của nó trong sản xuất, có thể tạo ra khối
lượng sản phẩm hàng hoá quy mô lớn, chất lượng cao, phương thức tổ chức sản
xuất và quản lý hiện đại nhờ áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ
thuật - công nghệ, cho phép sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào, tạo ra năng
suất lao động và giá trị kinh tế cao, do đó cần ưu tiên đầu tư phát triển.
Ngày nay, đa số các nước đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và đang
chuyển sang giai đoạn văn minh hậu công nghiệp, với sự phát triển nhanh nền
kinh tế dịch vụ và kinh tế tri thức. Quá trình ấy được thúc đẩy mạnh mẽ bởi xu thế
toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới (đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, thương mại và
đầu tư) dựa trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật - công
nghệ, đặc biệt là sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, đã làm cho các
ngành công nghệ cao và kinh tế dịch vụ phát triển rất mạnh mẽ, đã và đang trở
thành xu thế phát triển tất yếu của thời đại, vì nó cho phép nâng cao năng suất lao
động nhanh, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, đáp ứng
được nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của xã hội.
Lịch sử cũng cho thấy, các nước có trình độ phát triển cao hiện nay như Mỹ,
Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức và một số nước mới nổi lên vài thập kỷ gần đây như
Hàn Quốc, Trung Quốc … cũng đã có sự chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế quốc dân


15
từ một nước nông nghiệp sang công nghiệp và ngày nay là công nghiệp, dịch vụ.
Tính tất yếu này là kết quả của sự phát triển LLSX và trình độ phân công lao

động xã hội ngày càng cao. Nền văn minh nông nghiệp chỉ tồn tại khi trình độ
phát triển của LLSX còn thấp kém, nhưng khi LLSX phát triển đến một mức độ
nào đó dựa trên những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ sẽ
làm cho sức sản xuất xã hội cao hơn, phân công lao động xã hội sâu sắc hơn và tất
yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi phương thức sản xuất, và nền văn minh công nghiệp ra
đời. LLSX cứ liên tục phát triển làm cho nền văn minh hậu công nghiệp ra đời.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đang trong quá
trình CNH, HĐH thì sự chuyển dịch CCNKT cũng phải diễn ra theo quy luật này.
Tất nhiên, là nước đi sau nên Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện chiến lược "đi
tắt", "đón đầu" để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước, chuyển dịch CCKT
phù hợp với điều kiện mới của đất nước và xu thế phát triển của thời đại bằng
cách mở cửu nền kinh tế, chủ động tham gia hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới nhằm phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực để đưa đất nước
phát triển nhanh, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp
như mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đưa ra.
1.2.3.2 Quy luật biến đổi trong nội bộ các ngành kinh tế
Trong mỗi ngành kinh tế vĩ mô được cấu thành từ nhiều phân ngành nhỏ hơn
theo sự phân công lao động, thể hiện tính chuyên môn hoá ngày càng cao. Do tính
chất đặc thù về đối tượng sản xuất mà các phân ngành ấy cũng có tốc độ tăng
trưởng và phát triển không đồng đều nhau, tuỳ theo từng điều kiện và từng thời kỳ
cụ thể.
Về mặt lượng, các phân ngành có thể biến đổi theo hướng tăng lên hoặc giảm
đi tuỳ theo điều kiện sản xuất ở các thời kỳ khác nhau.
Về mặt chất, trong một ngành kinh tế, những phân ngành nào có trình độ sản
xuất cao, tạo ra giá trị gia tăng lớn thì sẽ ngày càng phát triển, còn những phân
ngành nào có năng suất lao động thấp, hiệu quả kinh tế kém thì sẽ phát triển
chậm, qui mô sẽ ngày một thu hẹp lại và thậm chí bị tiêu vong. Cụ thể:


16

- Trong ngành nông nghiệp: Ngành trồng trọt có xu hướng giảm tỷ trọng trong
cơ cấu GDP vì đây vẫn là ngành hoạt động phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên,
hiệu quả kinh tế thấp. Hơn nữa, cùng với tốc độ CNH, HĐH ngày càng gia tăng
sẽ làm cho diện tích đất dùng để sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp lại, lực lượng
lao động sẽ chuyển dần sang khu vực công nghiệp và dịch vụ do khu vực này tạo
ra việc làm ổn định và thu nhập cao hơn. Ngành chăn nuôi sẽ tăng nhanh hơn và
dần dần chiếm ưu thế do tỷ suất lợi nhuận của ngành này vẫn cao hơn ngành trồng
trọt, yêu cầu quy mô vốn không lớn, và quan trọng là nhiều người dân có thể tham
gia để tận dụng quỹ thời gian nông nhàn và các sản phẩm từ trồng trọt để phát
triển chăn nuôi. Khi nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển theo cơ chế thị
trường thì tất yếu ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp cũng sẽ phát triển nhanh để
đáp ứng các nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp.
Ngành lâm nghiệp tuy có đóng góp nhỏ trong cơ cấu GDP, song cũng là ngành
đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, bời vì nó cho phép giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động, nhất là khu vực miền núi còn khó khăn.
Việc bảo vệ rừng, trồng rừng và khai thác vốn rừng hợp lý không những cung cấp
nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, bảo đảm đa dạng sinh học, bảo vệ
môi trường sống, hạn chế thiên tai mà còn mang lại giá trị kinh tế cao.
Trong ngành thuỷ sản, tốc độ tăng trưởng của ngành khai thác và nuôi trồng
đều tăng, những về lâu dài, ngành nuôi trồng sẽ phát triển nhanh hơn và dần
chiếm ưu thế trong tỷ trọng GDP. Điều này do nguồn đánh bắt thuỷ sản là có giới
hạn, ý thức khai thác nguồn lợi thuỷ sản của người dân chưa cao, chưa theo
hướng khai thác và phát triển nguồn lợi thuỷ sản một cách bền vững. Trong khi
nhu cầu của xã hội về thuỷ sản ngày càng tăng cao, để đáp ứng được cần phải chủ
động đầu tư nuôi trồng thuỷ sản.
- Trong ngành công nghiệp: Công nghiệp khai thác mỏ sẽ dần dần thu hẹp lại
do sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là những loại tài nguyên
không thể tái sinh như dầu mỏ, khí đốt, than, quặng kim loại …
Công nghiệp chế biến nói chung sẽ phát triển nhanh chóng, phong phú về loại
hình, bởi vì quy mô vốn để các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này không



17
nhất thiết phải lớn, có thể là nhỏ và vừa. Lĩnh vực hoạt động trong ngành công
nghiệp chế biến cũng rất nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều đối tượng khác
nhau có thể gia nhập thị trường. Công nghiệp chế biến hiện nay đang là ngành tạo
ra nhiều công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động nên được quan tâm đầu
tư nhiều hơn.
Về lâu dài cũng rất cần thiết phát triển công nghiệp nặng, vì đây là ngành trụ
cột trong nền kinh tế, là nơi sản xuất ra tư liệu sản xuất và hàng hoá tiêu dùng cho
xã hội. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, cần có chính
sách phát triển công nghiệp nặng phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể để
tạo ra các động lực cho nền kinh tế phát triển bền vững.
- Trong lĩnh vực dịch vụ: Lĩnh vực này sẽ phát triển rất nhanh chóng ở mọi
quy mô và cấp độ, với nhiều đối tượng tham gia và ngày càng chiếm tỷ phần lớn
trong cơ cấu GDP. Trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới,
nhiều ngành dịch vụ cao cấp sẽ phát triển như tài chính, ngân hàng, đầu tư,
thương mại, vận tải, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, tư vấn, an sinh xã hội, du
lịch, giáo dục - đào tạo … để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của nền
sản xuất xã hội. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho các nước đi sau tiếp cận và thực
hiện chuyển dịch CCKT, nhất là khi trên thế giới đã có nhiều nước bước sang giai
đoạn phát triển nền kinh tế tri thức và kinh tế dịch vụ.
Việc nắm được xu thế phát triển trong nội bộ các ngành là để xác định lợi thế
so sánh của từng ngành nhỏ, từ đó tập trung đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất,
bố trí lại và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo ra giá trị kinh tế cao, giảm chi
phí sản xuất và không ngừng nâng cao tính linh hoạt sức cạnh tranh cho nền kinh
tế trong hội nhập quốc tế.
1.2.3.3 Tính đặc thù về chuyển dịch CCNKT đối với một địa phương.
Mỗi địa phương có các điều kiện khác nhau về tự nhiên, kinh tế - xã hội,
truyền thống, kinh nghiệm sản xuất, lực lượng lao động, tập quán văn hoá … nên

việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chuyển dịch
CCNKT nói riêng cũng mang tính đặc thù và không nhất thiết phải tuyệt đối tuân
theo quy luật chuyển dịch CCNKT nêu trên. Điều quan trọng là phải phân tích,


18
đánh giá đúng các điều kiện cụ thể của địa phương, tìm ra những ngành, lĩnh vực
nào có lợi thế so sánh để xây dựng một CCNKT hợp lý, ở đó cho phép khai thác
hiệu quả nhất các nguồn lực về tự nhiện, kinh tế - xã hội, văn hoá, lao động …
nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
hàng hoá.
Theo lôgíc đó, một địa phương có thể hình thành một CCKT không cân đối,
tức là không nhất thiết phải đầu tư phát triển tất cả các ngành, mà chỉ nên tập
trung đầu tư phát triển những ngành và phân ngành mà địa phương có lợi thế
trong mối quan hệ tương tác với bên ngoài. Điểm đặc thù này là do không gian
phát triển, các điều kiện về tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn nhân lực và
tiềm lực khoa học công nghệ … ở mỗi địa phương là khác nhau và có quy mô nhỏ
hơn nhiều so với cấp quốc gia.
Việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung, chính sách
chuyển dịch CCNKT nói riêng phải dựa trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của cả nước, đặt trong mối tương quan với chiến lược phát triển vùng
miền. Tuy nhiên, trên nền tảng chung ấy, các địa phương có thể vận dụng linh
hoạt để đưa ra chiến lược chuyển dịch CCNKT sát thực với tình hình cụ thể của
địa phương mình, không nên dập khuôn một cách máy móc hay tách rời với cơ
chế chính sách phát triển kinh tế chung của Nhà nước.
Trong những giai đoạn nhất định, khi các điều kiện về phát triển công nghiệp
và dịch vụ chưa đủ, vẫn có thể ưu tiên đầu tư phát triển nông nghiệp, miễn là có
thuận lợi về đất đai, khí hậu, sức lao động … để sản xuất ra sản phẩm nông
nghiệp chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Việc xây dựng
chiến lược phát triển công nghiệp của địa phương cũng cần được tính toán kỹ

lưỡng, lựa chọn mô hình và bước đi phù hợp khi các điều kiện cho phát triển đã
chín muồi, tránh tình trạng quy hoạch phát triển các khu, ngành công nghiệp theo
kiểu phong trào hay chạy đua lấy thành tích. Vì điều này sẽ gây lãng phí các
nguồn lực phát triển vốn rất khan hiếm, để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế
sau này.
1.2.4 Những tiêu chí cơ bản phản ánh sự chuyển dịch CCNKT


19
Do CCKT phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất mối tương quan tỷ lệ giữa
các bộ phận hợp thành của nền kinh tế nên khi đánh giá quá trình chuyển dịch
CCNKT, cần chú ý cả quan hệ tỷ lệ về mặt lượng cũng như phân tích sự thay đổi
về chất của các mối tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá
không thể không chú ý tới những đặc điểm riêng của các loại CCKT khác như
CCKT theo vùng lãnh thổ và cơ cấu TPKT. Những tiêu chí cơ bản phản ánh quá
trình chuyển dịch CCNKT vĩ mô bao gồm:
1.2.4.1 Cơ cấu Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Mặc dù có những khiếm khuyết nhất định, nhưng khoa học kinh tế hiện đại đã
sử dụng chỉ tiêu GDP như một trong những thước đo khái quát nhất, phổ biến
nhất để đo lường, đánh giá về tốc độ tăng trưởng, trạng thái và xu hướng chuyển
dịch cơ cấu của nền kinh tế.
Trong đánh giá quá trình chuyển dịch CCKT, cơ cấu GDP giữa các ngành
kinh tế là một trong những tiêu chí quan trọng nhất phản ánh xu hướng vận động
và mức độ thành công của công nghiệp hoá. Tỷ lệ % của các ngành cấp I (nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) là một trong những tiêu chí thường xuyên được
dùng để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế. Trong quá
trình công nghiệp hoá, mối tương quan này có xu hướng biến đổi chung là khu
vực nông nghiệp có tỷ lệ ngày càng giảm, còn khu vực phi nông nghiệp (công
nghiệp, dịch vụ) ngày càng tăng lên, và trong điều kiện của khoa học công nghệ
hiện đại, khu vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó

là công nghiệp và cuối cùng là nông nghiệp.
Để đánh giá sát thực hơn CCNKT, việc phân tích cơ cấu các phân ngành (cấp
II, cấp III …) có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường, cơ cấu phân ngành
phản ánh sát thực hơn khía cạnh chất lượng và mức độ hiện đại hoá của nền kinh
tế. Ví dụ, trong ngành công nghiệp, những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi
tay nghề kỹ thuật cao, vốn lớn hay công nghệ hiện đại như cơ khí chế tạo, điện tử
công nghiệp, dược phẩm, hoá mỹ phẩm … chiếm tỷ trọng cao sẽ chứng tỏ nền
kinh tế đạt mức độ CNH, HĐH cao hơn so với những lĩnh vực công nghiệp khai
khoáng, sơ chế nông sản, công nghiệp lắp ráp, dệt may … Trong lĩnh vực dịch vụ,


20
những lĩnh vực dịch vụ cao gắn với công nghệ hiện đại như tài chính - ngân hàng,
bảo hiểm, tư vấn, viễn thông, hàng không … chiếm tỷ lệ cao sẽ rất khác với
những lĩnh vực dịch vụ phục vụ sinh hoạt dân sự với công nghệ thủ công, trình độ
thấp, quy mô nhỏ lẻ.
1.2.4.2 Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế.
Trong quá trình CNH, HĐH, sự chuyển dịch CCNKT còn được đánh giá qua
một tiêu chí rất quan trọng là cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
được phân bổ như thế nào vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Các nhà kinh tế
học đánh giá rất cao tiêu chí này, vì ở góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao
động xã hội mới là tiêu chí phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh
tế - xã hội của quá trình CNH, HĐH. Bởi vì, công nghiệp hoá hiểu theo nghĩa đầy
đủ của nó, không phải chỉ đơn thuần là sự gia tăng tỷ trọng giá trị của sản xuất
công nghiệp mà là cùng với mức độ đóng góp vào GDP ngày càng tăng của lĩnh
vực công nghiệp (mà ngày nay là công nghiệp, dịch vụ dựa trên kỹ thuật công
nghệ hiện đại), phải là quá trình CNH, HĐH đời sống xã hội con người, trong đó
cơ sở quan trọng nhất là số lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực phi nông
nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lực lượng lao động đang làm việc
trong nền kinh tế.

So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động phân theo ngành sở dĩ được các nhà kinh
tế coi trọng và đánh giá cao là do tiêu chí này không chỉ phản ánh sát thực hơn
mức độ chuyển biến sang xã hội công nghiệp của một đất nước, mà còn ít bị ảnh
hưởng bởi nhân tố ngoại lai hơn. Ở một số nền kinh tế, trong khi tỷ trọng lao động
phi nông nghiệp (nhất là khu vực sản xuất công nghiệp) còn chiếm tỷ trọng nhỏ,
nhưng cơ cấu GDP lại chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều. Lý giải cho hiện tượng này,
các nhà kinh tế học chỉ ra tình trạng "méo mó" về giá cả, nhất là trong trường hợp
có sự chênh lệch giá “cánh kéo” lớn giữa sản phẩm công nghiệp và dịch vụ so với
sản phẩm nông nghiệp. Vì thế, cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế đôi khi không
phản ánh đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.
1.2.4.3 Cơ cấu hàng xuất khẩu

×