Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Hàng hóa trên thị trường chứng khoán Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 89 trang )




I HC QUC GIA H NI
KHOA KINH T





Lấ QUANG HNG





Hng húa trờn th trng chng khoỏn Vit Nam
thc trng v gii phỏp




luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị










Hà nội - 2005





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ




LÊ QUANG HƯNG




Hàng hóa trên thị trường chứng khoán Việt Nam
thực trạng và giải pháp


Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 5.02.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Quốc Luật




Hµ néi - 2005





1
MỤC LỤC
Mục lục 1
Lời nói đầu 3
Chƣơng 1. Những vấn đề chung về thị trƣờng chứng khoán và hàng hoá cho
thị trƣờng 6
1.1. Các vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán 6
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của thị trƣờng chứng khoán trên thế giới và
VN 6
1.1.2. Khái niệm và phân loại thị trƣờng chứng khoán 7
1.1.3. Những tác động của thị trƣờng chứng khoán trong nền kinh tế thị trƣờng 9
1.2. Hàng hoá của thị trường chứng khoán 14
1.2.1. Khái niệm và bản chất chứng khoán 14
1.2.2. Phân loại hàng hoá trên thị trƣờng chứng khoán 15
1.2.3. Những điều kiện hình thành và phát triển hàng hoá của thị trƣờng chứng
khoán 22
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về phát triển hàng hoá cho thị trường chứng khoán 24
Chƣơng 2. Thực trạng hàng hoá của thị trƣờng chứng khoán Việt Nam 29
2.1. Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán ở Việt Nam 29

2.1.1. Sự cần thiết ra đời thị trƣờng chứng khoán ở Việt Nam 29
2.1.2. Những đặc trƣng chủ yếu của thị trƣờng chứng khoán Việt Nam 31
2.1.3. Hàng hoá của thị trƣờng chứng khoán Việt Nam 34
2.2. Diễn biến hàng hoá trên thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua 39
2.2.1. Diễn biến của trái phiếu trên thị trƣờng 39
2.2.2. Diễn biến của cổ phiếu trên thị trƣờng 43
2.2.3. Hoạt động trên thị trƣờng tự do ở Việt Nam 45
2.2.4. Các tổ chức trung gian liên quan đến phát hành và PT chứng khoán niêm
yết 46
2.2.5. Nhận xét chung về hoạt động và hàng hoá trên thị trƣờng chứng khoán
Việt Nam 48
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trên 50
2.3.1. Tầm kinh tế vĩ mô 51
2.3.2. Các doanh nghiệp 55
2.3.3. Vấn đề nội tại của thị trƣờng chứng khoán 56
2.3.4. Công tác đào tạo, tuyên truyền, phổ cập các kiến thức và thông tin về thị
trƣờng chứng khoán chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. 57
2.3.5. Về phía các nhà đầu tƣ 57
Chƣơng 3. Định hƣớng và một số giải pháp chủ yếu phát triển hàng hoá cho
thị trƣờng chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới 59
3.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán trong thời gian tới 59
3.2. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển hàng hoá cho thị trường
chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới 61
3.2.1. Nhóm giải pháp về kinh tế vĩ mô 61
3.2.2. Nhóm giải pháp nhằm tăng cung và kích cầu hàng hoá cho thị trƣờng
chứng khoán Việt Nam 65
3.2.3. Nhóm giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng của thị trƣờng chứng khoán 69


2

Kết luận và kiến nghị 76
1. Kết luận 76
2. Kiến nghị 77
Tài liệu tham khảo 80


3
LỜI NÓI ĐẦU

1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thị trƣờng chứng khoán là sản phẩm của nền kinh tế thị trƣờng. Ngày
nay, thị trƣờng chứng khoán hầu nhƣ đã có mặt ở tất cả các nƣớc phát triển và
đang phát triển. Thị trƣờng chứng khoán đã trở thành một định chế tài chính
không thể thiếu đƣợc trong cơ chế kinh tế của các nƣớc có nền kinh tế thị
trƣờng.
Thị trƣờng chứng khoán có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với nền
kinh tế. Đây là nơi thu hút vốn đầu tƣ dài hạn cho phát triển kinh tế; là tấm
gƣơng phản ánh nền kinh tế và hoạt động tài chính của các doanh nghiệp;
thúc đẩy khả năng di chuyển và kiểm soát nguồn vốn đầu tƣ một cách hiệu
quả; là công cụ đắc lực để Chính phủ điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
Trong Chiến lƣợc phát triển để thực hiện quá trình đổi mới, chuyển đổi
nền kinh tế của đất nƣớc, Nhà nƣớc đã luôn quan tâm đến việc xây dựng và
đồng bộ hoá hệ thống thị trƣờng, trong đó có thị trƣờng chứng khoán. Thị
trƣờng chứng khoán Việt Nam đã đƣợc khai trƣơng và đi vào hoạt động từ
tháng 7 năm 2000. Cho đến nay, qua hơn 5 năm hoạt động thị trƣờng đã đạt
đƣợc một số kết quả quan trọng, song vẫn còn không ít khó khăn trở ngại.
Một trong số đó nổi lên trong giai đoạn hiện nay là việc tạo hàng hoá có chất
lƣợng và sự ổn định cho thị trƣờng chứng khoán. Qui mô thị trƣờng chứng
khoán còn nhỏ bé, tốc độ phát triển chƣa đạt nhƣ mong muốn. Việc tạo hàng
hoá cho thị trƣờng chứng khoán gặp rất nhiều khó khăn từ nhiều phía.

Từ thực tế trên, đề tài “hàng hoá của thị trường chứng khoán Việt
Nam: thực trạng và giải pháp” đƣợc đƣa ra và thực hiện. Đề tài vừa mang
tính lý luận vừa mang tính thực tiễn, đồng thời đây cũng là vấn đề đang thu
hút sự quan tâm của nhiều cán bộ và cơ quan nghiên cứu.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Đối với những nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng, việc nghiên cứu các vấn
đề nhằm phát triển thị trƣờng chứng khoán - một định chế tài chính quan
trọng đã tồn tại từ hàng trăm năm nay - là hết sức cần thiết. Ở Việt Nam cũng
vậy, tuy thị trƣờng chứng khoán ra đời chƣa lâu, nhƣng đã có nhiều đề tài
nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau nhằm mục đích phát triển thị trƣờng
chứng khoán, có thể kể đến nhƣ


4
- Cuốn sách: “Những điều kiện kinh tế - xã hội hình thành và phát triển
thị trường chứng khoán ở Việt Nam” của: TS. Trần Thị Minh Châu, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế: “giải pháp để hình thành và phát triển thị
trường chững khoán phi tập trung ở Việt Nam” của Võ Văn Quang - Học
viện Ngân Hàng, năm 2003
- Luận văn thạc sỹ kinh tế “Xây dựng thị trƣờng trái phiếu công ty
nhằm phát triển các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế thị trƣờng” của
Nguyễn Thị Liên Hoa, Đại học Kinh tế Quốc dân, 2003,
Tuy nhiên vẫn cần có các nghiên cứu thêm về thị trƣờng chứng khoán
đặc biệt là về phát triển hàng hoá cho thị trƣờng chứng khoán Việt Nam trong
thời gian tới.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài đƣợc đặt ra với các mục đích sau:
- Làm rõ vai trò của hàng hoá trên thị trƣờng chứng khoán.
- Đánh giá thực trạng về hàng hoá của thị trƣờng chứng khoán Việt

Nam trong những năm qua, chỉ rõ mặt làm đƣợc, mặt hạn chế và nêu các
nguyên nhân của tồn tại đó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển thị trƣờng chứng
khoán nói chung, đặc biệt là sự phát triển hàng hoá cho thị trƣờng chứng
khoán nói riêng.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề đạt đƣợc các mục tiêu trên, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề
tài gồm:
- Góp phần làm rõ và hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về chứng
khoán và thị trƣờng chứng khoán.
- Phân tích thực trạng hàng hoá trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam,
kinh nghiệm của một số thị trƣờng chứng khoán trên thế giới và khu vực.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm phát triển hàng hoá cho thị trƣờng
chứng khoán Việt Nam trong quá trình phát triển đến năm 2010.


5
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Tác giả sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
để phân tích thực trạng hàng hoá trên thị trƣờng chứng khoán. Phân tích ảnh
hƣởng trực tiếp và gián tiếp của hàng hoá đối với thị trƣờng chứng khoán và
ngƣợc lại.
- Phƣơng pháp thừa kế và thu thập những số liệu có liên quan đến nội
dung nghiên cứu của đề tài.
- Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp khác nhƣ: so sánh,
phân tích và tổng hợp để nghiên cứu.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu nhằm góp phần hoàn thiện một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về chứng khoán trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam cụ thể là:
- Nghiên cứu các khía cạnh lý luận cơ bản về hàng hóa trên thị trƣờng

chứng khoán.
- Phân tích các nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển hàng hoá cho thị
trƣờng chứng khoán
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển hàng hoá cho
thị trƣờng chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới.
7. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc kết cấu thành ba chƣơng cụ thể là:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về thị trƣờng chứng khoán và hàng hoá
cho thị trƣờng.
Chƣơng 2: Thực trạng hàng hoá trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
Chƣơng 3: Định hƣớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy
phát triển hàng hoá cho thị trƣờng chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới.



6
CHƢƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
VÀ HÀNG HOÁ CHO THỊ TRƢỜNG

1.1. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của thị trƣờng chứng khoán
trên thế giới và Việt Nam
Thị trƣờng chứng khoán là một bộ phận của thị trƣờng tài chính hoạt
động trong lĩnh vực phát hành và trao đổi cổ phiếu, trái phiếu dài hạn, kể cả
các công cụ tài chính phái sinh từ cổ phiếu, trái phiếu theo những phƣơng
thức có tổ chức nhƣ giao dịch qua Sở Giao dịch Chứng khoán, Công ty
Chứng khoán, giao dịch trực tiếp, hoặc qua mạng
Tuy nhiên, thị trƣờng chứng khoán ban đầu không phải ngay lập tức đã

hoàn chỉnh nhƣ các hình thái trên. Thị trƣờng chứng khoán đã manh nha ra
đời từ thế kỷ XV ở các nƣớc phƣơng Tây, tại các thành phố trung tâm buôn
bán. Cùng với thời gian, thị trƣờng chứng khoán đã ra đời tự phát tại một số
nƣớc nhƣ: Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ vào thế kỷ 18-19.
Trải qua các thời kỳ thị trƣờng chứng khoán càng phát triển và có vị trí
ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Môi giới đã trở thành một nghề hoạt
động trên thị trƣờng này. Hoạt động của thị trƣờng chứng khoán đƣợc nhà
nƣớc thừa nhận bằng pháp luật, nhà nƣớc còn giữ vai trò ngƣời giám sát để
đảm bảo nguyên tắc công bằng, công khai và định hƣớng mục tiêu hoạt động
của thị trƣờng.
Hiện nay đã có trên 160 thị trƣờng chứng khoán lớn nhỏ hoạt động trên
khắp các châu lục. ở các nƣớc có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế, thị trƣờng
chứng khoán cũng đã dần đƣợc xây dựng. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế thị trƣờng, thị trƣờng chứng khoán đã trở thành một định chế tài chính
không thể thiếu đƣợc, nó là kênh huy động vốn trung và dài hạn to lớn, hỗ trợ
cho kênh tạo vốn gián tiếp qua ngân hàng và trung gian tài chính.
Việt Nam, với sự ra đời của hai Trung tâm giao dịch chứng khoán tại TP.
Hồ Chí Minh tháng 7 năm 2000 và tại Hà Nội tháng 3 năm 2005 đánh dấu
một bƣớc tiến quan trọng trong nỗ lực hoàn thiện và đồng bộ hoá thị trƣờng


7
tài chính quốc gia. Đây đƣợc coi là bƣớc khởi đầu để các bộ, ngành, doanh
nghiệp và các nhà đầu tƣ làm quen và hƣớng tới một lĩnh vực đầu tƣ mới.
Thị trƣờng chứng khoán có kỹ thuật và công nghệ riêng, hầu hết các
nƣớc phát triển, Sở giao dịch chứng khoán đã sử dụng triệt để sự phát triển
của công nghệ thông tin, nhất là sử dụng các đƣờng truyền số liệu. Nhƣng ở
các thị trƣờng chứng khoán tập trung tính chất sôi động nhƣ một khu chợ
ngoài trời nhìn chung vẫn còn. Tuy nhiên không phải tất cả các thị trƣờng
chứng khoán trên thế giới đều giống nhau. Tuỳ theo đặc điểm kinh tế, xã hội

và tâm lý mà mỗi nƣớc có cách tổ chức và giao dịch riêng. Nhƣng dù tổ chức
theo cách nào, thì các thị trƣờng chứng khoán cũng dựa trên các nguyên tắc
căn bản liên quan đến chứng khoán, tổ chức thị trƣờng, giao dịch và sự kiểm
soát của Nhà nƣớc.
1.1.2. Khái niệm và phân loại thị trƣờng chứng khoán
1.1.2.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa và cách giải thích khác nhau về thị
trƣờng chứng khoán, điều này cho thấy bản thân thị trƣờng chứng khoán là
một thực thể phức tạp với nhiều mối liên hệ đặc trƣng khác nhau, hơn nữa thị
trƣờng chứng khoán là hiện tƣợng kinh tế khách quan có sự phát sinh, phát
triển. Ở từng giai đoạn phát triển, thị trƣờng chứng khoán cũng mang những
nội dung khác nhau về mô hình tổ chức, chủng loại hàng hoá và phƣơng thức
giao dịch. Chính vì thế dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhƣng nhìn
chung có thể nêu khái quát "thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị
trường tài chính, trong đó chuyên môn hoá việc giao dịch một số loại hàng
hoá đặc biệt như cổ phiếu, trái phiếu dài hạn, kể cả các công cụ tài chính
phát sinh từ cổ phiếu, trái phiếu, theo những phương thức có tổ chức như
giao dịch qua sở giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán, trực tiếp hoặc
gián tiếp qua mạng" [3]
Hiểu theo nghĩa đơn giản thị trƣờng chứng khoán là nơi chứng khoán
đƣợc phát hành, trao đổi gồm ngƣời mua, ngƣời bán và ngƣời trung gian.
Thị trƣờng chứng khoán là một thể chế tài chính đặc trƣng của cơ chế
thị trƣờng, ra đời với tƣ cách là một bộ phận của thị trƣờng vốn, nhằm đáp
ứng nhu cầu trao đổi chứng khoán các loại, tạo ra kênh huy động vốn dài hạn,
khối lƣợng lớn phục vụ cho nền kinh tế. Chỉ có nền kinh tế thị trƣờng mới có
thị trƣờng chứng khoán và ngƣợc lại một khi thị trƣờng chứng khoán hoạt


8
động có hiệu quả cũng chứng tỏ đó là một nền kinh tế đƣợc vận hành theo cơ

chế thị trƣờng.
Bản chất thị trƣờng chứng khoán là nơi mua bán, chuyển nhƣợng quyền
sở hữu về vốn và tài sản của những ngƣời sở hữu chứng khoán. Tổ chức thị
trƣờng chứng khoán nhƣ thế nào chủ yếu là do quan niệm về thị trƣờng chứng
khoán của mỗi nƣớc, mà không phải do trình độ kỹ thuật hay khả năng kinh
tế. Thị trƣờng chứng khoán Anh, Pháp và một số nƣớc mới có thị trƣờng
chứng khoán sau này nhƣ Thái Lan, Singapore thực hiện hệ thống giao dịch
tự động có thị trƣờng nhƣng không có “chợ”. Trong khi đó ở Mỹ, Nhật, Đức
vẫn trung thành với phƣơng thức giao dịch truyền thống luôn đông đúc, ồn ào
bởi sự la hét và dùng các ký hiệu bằng tay.
1.1.2.2. Phân loại thị trường chứng khoán
Cho đến nay, có nhiều cách phân loại thị trƣờng chứng khoán
Một là: căn cứ vào hàng hoá có thể chia thành thị trƣờng trái phiếu và thị
trƣờng cổ phiếu.
Hai là: căn cứ vào phƣơng thức giao dịch có thể chia thành thị trƣờng
sơ cấp và thị trƣờng thứ cấp.
- Thị tƣờng sơ cấp (thị trƣờng cấp I hay thị trƣờng phát hành) đây là
nơi mua bán chứng khoán mới phát hành (phát hành lần đầu) để tạo lập doanh
nghiệp; tăng thêm vốn cho doanh nghiệp; huy động vốn cho chi tiêu của chính
phủ, từ đó, đƣa nguồn vốn tiết kiệm vào đầu tƣ. Nguồn cung cấp vốn chủ yếu
của thị trƣờng này là từ tiết kiệm của dân chúng, một số tổ chức tài chính và
phi tài chính. Đây là giai đoạn khó khăn, phức tạp, có liên quan tới nhiều yếu
tố tạo lập hàng hoá nhƣ hình thức chứng khoán, phƣơng thức phát hành, các
định giá chứng khoán, các thủ tục về đăng ký, lƣu thông, bảo quản Việc
phát hành chứng khoán ra công chúng, các nhà đầu tƣ ở các nƣớc có thị
trƣờng chứng khoán phát triển hiện nay hầu hết đều thông qua các công ty
chứng khoán, các ngân hàng lớn theo phƣơng thức bảo lãnh chắc chắn. Trong
quá trình phát hành, chỉ một sai xót nhỏ cũng có thể làm chứng khoán không
thể tiêu thụ đƣợc, gây tổn thất tài sản cũng nhƣ uy tín của chủ thể phát hành.
Vì vậy, chính phủ các nƣớc thƣờng có các quy định chặt chẽ và kiểm soát

nghiêm ngặt việc phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để đảm bảo thị
trƣờng cấp I hoạt động có hiệu quả, bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tƣ.
- Thị trƣờng thứ cấp (thị trƣờng cấp II) đây là thị trƣờng mua đi bán lại
các chứng khoán đã đƣợc phát hành với nhiều lần mua bán và giá cả khác


9
nhau. Dòng vốn đƣợc lƣu chuyển giữa các nhà kinh doanh chứng khoán chứ
không thuộc về nhà phát hành. Nói cách khác tiền vốn từ thị trƣờng này
không làm tăng quy mô đầu tƣ vốn cho nền kinh tế mà chỉ luân chuyển giữa
các nhà đầu tƣ. Đây là sự khác nhau căn bản giữa thị trƣờng sơ cấp và thị
trƣờng thứ cấp.
Thị trƣờng thứ cấp, nếu xét theo tính chất tổ chức có thể chia thành thị
trƣờng tập trung và phi tập trung (OTC). Nếu xét theo loại hàng hoá có thể
chia thành thị trƣờng cổ phiếu, thị trƣờng trái phiếu, thị trƣờng chứng khoán
phái sinh
Thị trƣờng sơ cấp và thị trƣờng thứ cấp có quan hệ mật thiết và không
thể tách rời nhau, chúng là hai bộ phận cấu thành một thị trƣờng, trong đó thị
trƣờng sơ cấp là cơ sở còn thị trƣờng thứ cấp là động lực. Nếu không có thị
trƣờng sơ cấp thì không có hàng hoá cho thị trƣờng thứ cấp. Ngƣợc lại, nếu
không có thị trƣờng thứ cấp thì thị trƣờng sơ cấp không thể hoạt động trôi
chảy. Sự có mặt của thị trƣờng thứ cấp tạo tính thanh khoản cho chứng khoán,
làm tăng tính hấp dẫn của chứng khoán; từ đó làm tăng tiềm năng huy động
vốn cho chủ thể phát hành. Nhƣ vậy, thị trƣờng thứ cấp tạo điều kiện cho thị
trƣờng sơ cấp phát triển.
Trong thực tế, khó có thể phân biệt hai thị trƣờng này. Mặc dù vậy, việc
phân định hai cấp của thị trƣờng chứng khoán có ý nghĩa quan trọng trong
tiếp cận thị trƣờng, nhất là trong nghiên cứu, tìm hiểu các quan hệ cung cầu,
quan hệ cơ bản nhất có tác dụng định tính và định hƣớng quy trình hoạt động
của thị trƣờng chứng khoán.

1.1.3. Những tác động của thị trƣờng chứng khoán trong nền kinh tế thị
trƣờng
1.1.3.1. Những tác động tích cực.
Một là: Cung cấp nguồn vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế: Trên thị
trƣờng chứng khoán các hình thức huy động vốn đƣợc thực hiện thông qua
các công cụ là chứng khoán. Chính phủ và chính quyền địa phƣơng có thể huy
động vốn cho mục đích sử dụng và đầu tƣ phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ
các nhu cầu chung của xã hội bằng cách phát hành các chứng khoán có giá
dƣới dạng chứng khoán nợ trên thị trƣờng sơ cấp. Khi đó, chính phủ là ngƣời
đi vay và ngƣời nắm giữ các chứng khoán này là những chủ nợ. Các công ty
để thành lập hoặc tăng vốn điều lệ sẽ phát hành các loại chứng khoán vốn.
Nguồn vốn này ổn định, đảm bảo sử dụng trong dài hạn các doanh nghiệp
không phải lo hoàn trả nhƣ khi đi vay ngân hàng. Ngoài ra các công ty còn có


10
thể phát hành các loại chứng khoán nợ vay vốn trực tiếp từ các nhà đầu tƣ.
Nhƣ vậy thông qua thị trƣờng chứng khoán với hoạt động đầu tƣ, một lƣợng
tiền tiết kiệm từ khu vực dân cƣ đƣợc chuyển thành vốn đầu tƣ dài hạn cho
sản xuất kinh doanh.
Thị trƣờng chứng khoán còn là nơi thu hút nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài
khá hiệu quả thông qua các tổ chức đầu tƣ chứng khoán chuyên nghiệp cũng
nhƣ các cá nhân nƣớc ngoài.
Hai là: Nơi luân chuyển, phân bổ và kiểm soát nguồn vốn đầu tư có hiệu
quả: Các sản phẩm trên thị trƣờng chứng khoán rất đa dạng, có mức độ rủi ro
và lãi suất rất khác nhau. Thông qua các danh mục đầu tƣ do thị trƣờng chứng
khoán cung cấp nhà đầu tƣ có thể lựa chọn cho mình một danh mục có hiệu
quả nhất, nói cách khác nhà đầu tƣ luôn muốn tối đa hoá lợi nhuận của mình
và hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro. Do tính thanh khoản của chứng
khoán làm cho nó đƣợc mua đi bán lại một cách dễ dàng, nhà đầu tƣ cũng dễ

dàng chuyển đổi vốn sang các công ty, các ngành, các lĩnh vực khác. Sự lên
xuống của giá cả chứng khoán làm ảnh hƣởng đến lợi nhuận của các nhà đầu
tƣ, với các thông tin có đƣợc các nhà đầu tƣ nhanh chóng chuyển hƣớng đầu
tƣ sang các loại có lợi nhuận cao hơn. Nhƣ vậy, các công ty hoạt động kém
hiệu quả, giá cổ phiếu giảm sẽ khó huy động vốn trong khi các công ty khác
có mức doanh lợi cao, giá cổ phiếu lên sẽ dễ dàng huy động vốn hơn. Thông
qua thị trƣờng chứng khoán nguồn vốn đầu tƣ sẽ nhanh chóng “chảy” vào các
lĩnh vực làm ăn có hiệu quả nhất trong nền kinh tế.
Ba là: Là tấm gương phản ánh nền kinh tế nói chung và hoạt động tài
chính của doanh nghiệp nói riêng: Các chỉ số giá cả chứng khoán phản ánh
một cách tổng quát thực trạng nền kinh tế. Thông qua giá cả lên hay xuống
của các loại chứng khoán, ngƣời ta có thể đánh giá đƣợc hoạt động tài chính
cũng nhƣ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, nhìn xa
hơn nữa đó là thực trạng tổng thể của cả nền kinh tế nói chung. Thị trƣờng
chứng khoán giúp đánh giá doanh nghiệp một cách nhanh chóng và thuận
tiện, từ đó tạo ra một môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều thừa nhận tín hiệu từ thị
trƣờng chứng khoán không phải lúc nào cũng phản ánh trung thực thực trạng
kinh tế, bởi các biến động của nó còn chịu ảnh hƣởng nhiều của các yếu tố phi
kinh tế.
Bốn là: Kênh để Chính phủ thực hiện một số chính sách kinh tế vĩ mô:
Các chỉ báo của thị trƣờng chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế


11
một cách nhạy bén và khá chính xác. Khi giá chứng khoán tăng cho thấy đầu
tƣ đang mở rộng, nền kinh tế đang tăng trƣởng; và ngƣợc lại, khi giá chứng
khoán giảm báo hiệu những khó khăn của nền kinh tế. Vì thế, thị trƣờng
chứng khoán đƣợc ví nhƣ “phong vũ biểu” của nền kinh tế, là một công cụ
quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua

thị trƣờng chứng khoán Chính phủ có thể mua, bán trái phiếu tạo nguồn thu,
bù đắp thâm hụt ngân sách, kìm chế lạm phát, tạo lãi suất chuẩn cho thị
trƣờng. Ngoài ra, Chính phủ còn có thể sử dụng một số biện pháp, chính sách
khác tác động vào thị trƣờng chứng khoán nhằm định hƣớng đầu tƣ, đảm bảo
cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
Năm là: Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Công việc hàng
ngày của thị trƣờng chứng khoán thứ cấp là trao đổi mua bán các loại chứng
khoán đã đƣợc phát hành giữa những ngƣời đầu tƣ vì lý do nào đó cần thay
đổi quyết định trƣớc đó. Thông qua thị trƣờng, các loại chứng khoán dễ dàng
chuyển đổi thành tiền, đây là đặc tính làm tăng tính linh hoạt của vốn đầu tƣ,
tăng sức hấp dẫn của chứng khoán. Thị trƣờng chứng khoán hoạt động càng
năng động thì tính thanh khoản của chứng khoán càng đƣợc nâng cao.
Sáu là: Tăng thêm lựa chọn đầu tư, tạo điều kiện để đa dạng hoá đầu tƣ,
giảm thiểu rủi ro từ đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tƣ trên toàn bộ các lĩnh
vực của nền kinh tế.
1.1.3.2. Những hạn chế của thị trường chứng khoán
Thị trƣờng chứng khoán là sản phẩm của nền kinh tế thị trƣờng, cũng
giống nhƣ bản thân nền kinh tế thị trƣờng nó cũng có các mặt trái.
* Thị trường chứng khoán chứa đựng các nguy cơ rủi ro:
+ Với doanh nghiệp: khi đầu tƣ đúng hƣớng, làm ăn có lãi, giá cả và tính
lỏng của chứng khoán mà công ty phát hành sẽ tăng, các nhà đầu tƣ vào
doanh nghiệp thu đƣợc lợi nhuận cao. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp gặp khó
khăn, mất lòng tin với các nhà đầu tƣ, chứng khoán của doanh nghiệp sẽ bị
bán tống bán tháo, giá cả cũng sẽ sụt giảm nghiêm trọng, các nhà dầu tƣ bị
thiệt hại và rất khó cho doanh nghiệp gƣợng dậy sau những cú sốc nhƣ vậy.
Nói cách khác lợi nhuận của các nhà đầu tƣ phụ thuộc hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
+ Với nền kinh tế: Trong những giai đoạn phát triển, các công ty làm ăn
có hiệu quả, thu đƣợc lợi nhuận cao, thị trƣờng chứng khoán cũng thăng tiến.
Giá cả chứng khoán tăng và công chúng háo hức trong việc đầu tƣ vốn.



12
Ngƣợc lại, khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, thị trƣờng chứng khoán sẽ là
nơi đầu tiên có phản ứng và đôi khi vƣợt quá mức độ các hiện tƣợng kinh tế
làm tình hình càng xấu thêm.
* Đầu cơ
Đầu cơ là yếu tố có tính toán của những ngƣời chấp nhận rủi ro. Họ có
thể mua ngay một khối lƣợng lớn cổ phiếu với hy vọng giá sẽ tăng trong
tƣơng lai. Hành động này của họ dễ gây các phản ứng dây chuyền làm cho giá
cả cổ phiếu biến động giả tạo. Xét về phƣơng diện nào đó, đầu cơ giống với
đầu tƣ thông thƣờng và không bị luật về thị trƣờng chứng khoán cấm. Tuy
nhiên, yếu tố đầu cơ sẽ có tác hại khi một số ngƣời hay tổ chức cấu kết với
nhau để cùng mua vào hay bán ra một lƣợng lớn hàng hoá làm giá cả thay đổi
đột ngột nhằm mục tiêu thao túng, lũng loạn giá. Hành động đầu cơ có sự cấu
kết để tạo ra giá cả giả tạo sẽ bị cấm.
Một hình thức đầu cơ khác là liên tục mua hoặc bán một loại chứng
khoán. Thị trƣờng chứng khoán không cho phép mua hoặc bán liên tục một
loại chứng khoán nào đó làm cho giá cả thay đổi để đầu cơ. (liên tục mua vào
để đẩy giá lên cao đến một lúc nào đó sẽ bán ra để kiếm lời; Hoặc liên tục bán
tống bán tháo nhằm đƣa giá xuống thấp, đến lúc nào đó lại mua vào với giá
thấp). Hiện tƣợng này tuy không phổ biến, nhƣng vẫn có thể xảy ra. Ngƣời ta
có thể giả mua hoặc giả bán nhƣng không thực sự chuyển quyền sở hữu và
việc ngăn chặn, khám phá là rất khó khăn.
* Tình trạng mua bán nội gián
Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm giữ những thông tin nội bộ của
đơn vị kinh tế để mua bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình
thƣờng nhằm thu lợi cho mình. Hành động mua bán nội gián đƣợc xem là phi
đạo đức về thƣơng mại, đi ngƣợc lại với nguyên tắc “mọi người đầu tư đều
bình đẳng về thông tin”. Ngƣời mua bán nội gián thu đƣợc lợi hoặc tránh

đƣợc lỗ một cách không công bằng và hậu quả thì những ngƣời đầu tƣ khác
phải gánh chịu.
* Mua bán ngoài Sở giao dịch
Thông thƣờng, luật về thị trƣờng chứng khoán cấm việc giao dịch, mua
bán chứng khoán ngoài Sở giao dịch. Nếu để việc mua bán này đƣợc tự do sẽ
gây hậu quả khó lƣờng. Việc mua bán ngoài Sở giao dịch không đƣợc kiểm
soát sẽ tạo áp lực lên các nhà đầu tƣ khác, thậm chí có thể đƣa đến tình trạng
khống chế, ép buộc thay thế lãnh đạo các công ty. Hầu hết các thị trƣờng


13
chứng khoán đều quy định việc nua bán cổ phiếu đã niêm yết phải đƣợc thực
hiện tại Sở giao dịch.
Các mặt tiêu cực của thị trƣờng chứng khoán đều có thể đƣợc nhận diện
cũng nhƣ phòng tránh và ngăn chặn bằng việc ban hành một hệ thống luật
pháp hoàn chỉnh, cùng với sự giám sát chặt chẽ liên tục của cơ quan giám sát
thị trƣờng chứng khoán của Nhà nƣớc.


14
1.2. HÀNG HOÁ CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.2.1. Khái niệm và bản chất chứng khoán
1.2.1.1. Khái niệm về chứng khoán
Chứng khoán là từ dùng để chỉ các loại cổ phiếu và trái phiếu nói
chung. Để làm rõ thêm khái niệm về chứng khoán, cần thiết phải bắt đầu từ
những ví dụ sau:
- Ví dụ 1: Một công ty muốn huy động vốn để thành lập hoặc mở rộng
sản xuất thì công ty đó phải trao cho các tổ chức hay cá nhân góp vốn, giấy
ghi nhận mà nội dung thƣờng là: số tiền góp, các quyền lợi và nghĩa vụ cơ
bản của ngƣời sở hữu chúng Tuy nhiên, các giấy tờ này không hề có một

cam kết trả nợ nào, cũng không có thời hạn trả nợ, tài sản thế chấp. Công ty sẽ
chia lãi cho những ngƣời sở hữu chúng khi làm ăn có lãi. Chúng đƣợc gọi là
cổ phiếu thƣờng - chứng khoán vốn.
- Ví dụ 2: Nhà nƣớc hay một công ty muốn vay tiền của dân cũng phải
phát hành cho chủ nợ các giấy tờ ghi nhận số tiền đã vay, thời hạn trả nợ, lãi
suất chúng đƣợc gọi là trái phiếu - chứng khoán nợ. Khác với cổ phiếu, trên
tờ trái phiếu có ghi đầy đủ các yếu tố về lãi suất, thời hạn trả nợ.
Tóm lại, chứng khoán là loại giấy tờ thể hiện quyền và nghĩa vụ của
ngƣời góp vốn, là giá khoán động sản, các loại công cụ vốn dài hạn. Chứng
khoán gồm cổ phiếu, trái phiếu, ngoài ra còn có các giấy tờ có giá khác liên
quan đến chứng khoán
1.2.1.2. Bản chất của chứng khoán
Chứng khoán là hàng hoá nhƣng đó là hàng hoá đặc biệt. Là hàng hoá
nên chứng khoán có đủ hai đặc tính giá trị và giá trị sử dụng. Để hiểu rõ hơn
bản chất chứng khoán chúng ta cần nghiên cứu và nhận thức đầy đủ quan
điểm của C. Mác về tƣ bản giả: “Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức
chứng khoán có giá đem lại thu nhập cho người sở hữu chúng. Tư bản giả
được thể hiện chủ yếu qua hai loại chứng khoán có giá là cổ phiếu và trái
phiếu. Các chứng khoán có giá là tư bản giả vì tự bản thân chúng không có
giá trị; giá trị danh nghĩa ghi trên tờ chứng khoán chỉ là bản sao, là sự ghi
chép lại giá trị của tư bản thực tế đã đầu tư vào sản xuất - kinh doanh; trong
khi tư bản thực tế tồn tại dưới dạng nhà xưởng, máy móc, vật tư, nguyên vật
liệu và sự vận động của tư bản thực tế gắn liền với sản xuất - kinh doanh,
thì tư bản giả không tham gia vào quá trình sản xuất, chỉ là tờ giấy chứng


15
nhận quyền sở hữu về quyền được hưởng thu nhập trong một thời gian nhất
định”[1]. Sự vận động của tƣ bản giả thƣờng tách rời với sự vận động của tƣ
bản thực tế. Ngay cả khi tƣ bản thực tế đã sử dụng hết không còn tồn tại, thì

tƣ bản giả vẫn tiếp tục lƣu thông (nhƣ công trái). Tƣ bản giả không những
khác tƣ bản thật về chất mà còn cả về lƣợng. Ban đầu giá trị danh nghĩa của
chứng khoán phản ánh giá trị thực tế đã đầu tƣ, nhƣng sau một thời gian trên
thị trƣờng, giá cả của chúng không còn giữ nguyên mà phụ thuộc nhiều yếu tố
có thể tăng giảm thất thƣờng.
Nhƣ vậy chứng khoán là hàng hoá đặc biệt, giá trị của nó là giá trị tƣ
bản thực tế đã đầu tƣ; Giá trị sử dụng của chúng là bằng chứng xác nhận
quyền sở hữu và quyền đƣợc hƣởng thu nhập sau một thời gian nhất định.
1.2.2. Phân loại hàng hoá trên thị trƣờng chứng khoán
Hàng hoá của thị trƣờng chứng khoán gồm cổ phiếu, trái phiếu và các
loại chứng khoán phái sinh liên quan đến cổ phiếu, trái phiếu.
1.2.2.1. Cổ phiếu
Khi một công ty cổ phần gọi vốn để thành lập hoặc mở rộng, hiện đại
hoá sản xuất, số vốn cần gọi đƣợc chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là
cổ phần. Ngƣời mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông đƣợc cấp một giấy xác
nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Công ty cổ phần là nơi khai sinh ra cổ
phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới đƣợc phép phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu
là một loại chứng khoán vĩnh viễn.
* Khái niệm:
Theo Nghị định số 144/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 của Chính
phủ thì: cổ phiếu là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu cổ phiếu với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần.
* Phân loại cổ phiếu:
Theo quyền lợi của cổ đông, cổ phiếu có thể đƣợc chia thành hai loại: cổ
phiếu thƣờng và cổ phiếu ƣu đãi
- Cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông): là loại cổ phiếu chủ chốt của
một công ty cổ phần. Đây là loại chứng khoán vốn, không có thời hạn, tồn tại



16
cùng với sự tồn tại của công ty. Lợi tức (cổ tức) của cổ phiếu thƣờng đƣợc trả
vào cuối năm tài chính. Cổ phiếu thƣờng có các đặc điểm chính sau:
+ Lợi tức cổ phiếu không cố định, phụ thuộc vào lợi nhuận và chính sách
chia lãi của công ty.
+ Hình thức trả cổ tức có thể đƣợc thực hiện bằng nhiều cách: trả bằng
tiền mặt; trả bằng chính cổ phiếu của công ty; hoặc trả bằng tài sản của công
ty.
+ Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thƣờng có một số quyền cơ bản sau:
1. Quyền lựa chọn hội đồng quản trị công ty
2. Quyền bỏ phiếu về tất cả các vấn đề ảnh hƣởng đến toàn bộ tài sản
của công ty
3. Quyền đƣợc cung cấp thông tin cụ thể về tiến trình hoạt động của
công ty
4. Quyền truy đòi cuối cùng với tài sản của công ty phát hành (chia lợi
nhuận khi có lãi, chia giá trị thị trƣờng của tài sản công ty khi thanh lý).
- Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu đƣợc hƣởng những quyền ƣu tiên
hơn so với cổ phiếu thƣờng
+ Đƣợc hƣởng một mức lãi suất cổ phần riêng biệt có tính chất cố định
hàng năm. Thông thƣờng mức lãi suất đƣợc in trên tờ cổ phiếu ở dạng chứng
chỉ.
+ Đƣợc ƣu tiên chia lãi cổ phần trƣớc loại cổ phiếu thƣờng.
Tuy nhiên, khác cổ phiếu thƣờng, ngƣời mua cổ phiếu ƣu đãi thƣờng
không đƣợc quyền bỏ phiếu để bầu Hội đồng quản trị công ty. Cổ đông ƣu đãi
chỉ có quyền sở hữu hữu hạn trong công ty. Giá cổ phiếu ƣu đãi thƣờng ổn
định hơn giá cổ phiếu thƣờng. Cổ phiếu ƣu đãi phù hợp với các nhà đầu tƣ
muốn có thu nhập ổn định, ít rủi ro. Nhƣng lại không phù hợp với những
ngƣời ƣa mạo hiểm và muốn tham gia quản trị công ty.
Để tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu ƣu đãi ngƣời ta ngày càng đa dạng
hoá chủng loại của chúng: Cổ phiếu ƣu đãi tích luỹ; cổ phiếu ƣu đãi không

tích luỹ; cổ phiếu ƣu đãi tham dự chia phần và cổ phiếu ƣu đãi không tham dự
chia phần; cổ phiếu ƣu đãi có quyền chuộc lại; cổ phiếu ƣu đãi có quyền
chuyển đổi.


17
Cổ phiếu ưu đãi tích luỹ, là loại cổ phiếu ƣu đãi, theo đó công ty sẽ ghi
lại số nợ cổ tức chƣa trả đƣợc trong những năm công ty không có lợi nhuận
để trả cổ tức ƣu đãi; Công ty sẽ hoàn trả phần nợ này vào những năm sau đó
khi tình hình tài chính tốt lên (công ty có lợi nhuận cao).
Cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ, là cổ phiếu mà cổ đông của nó chỉ nhận
đƣợc cổ tức theo kết quả kinh doanh hàng năm.
Cổ phiếu ưu đãi tham dự chia phần, là loại cổ phiếu ƣu đãi mà cổ đông
sẽ nhận đƣợc phần cổ tức tăng thêm (ngoài cổ tức đã đƣợc xác định) khi công
ty có lợi nhuận cao (những năm cổ tức của cổ phần thƣờng cao hơn cổ tức của
cổ phần ƣu đãi).
Cổ phiếu ưu đãi không tham gia chia phần, là loại cổ phiếu mà cổ đông
sở hữu không nhận đƣợc cổ tức tăng thêm mặc dù cổ tức của cổ phần thƣờng
có cao đến bao nhiêu đi nữa.
Cổ phiếu ưu đãi có thể chuộc lại, là loại cổ phiếu công ty phát hành có
thể thu về bất cứ lúc nào khi khả năng tài chính cho phép.
Cổ phiếu có khả năng chuyển đổi, là loại cổ phiếu ƣu đãi có khả năng
chuyển thành cổ phiếu thƣờng sau một thời gian nhất định, theo một số điều
kiện nhất định, đƣợc xác định khi phát hành.
Các quyền hƣởng lợi nói trên của cổ phiếu ƣu đãi đều đƣợc xác định và
công bố ngay khi phát hành.
1.2.2.2. Trái phiếu
Do nhu cầu đầu tƣ phát triển, bù đắp thiếu hụt ngân sách của Chính phủ
hoặc Chính quyền các địa phƣơng, hoặc do nhu cầu mở rộng sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, những chủ thể này có thể phát hành trái phiếu để

huy động vốn phục vụ mục đích của mình. Có rất nhiều định nghĩa về trái
phiếu. Có thể hiểu trái phiếu là chứng thƣ xác nhận nợ của tổ chức phát hành
với ngƣời sở hữu chúng, trong đó cam kết trả vốn gốc và lãi sau một thời gian
nhất định.
* Định nghĩa:
Theo Nghị định số 144/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 của Chính
phủ thì: Trái phiếu là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ (bao gồm vốn gốc và lãi) của
tổ chức phát hành trái phiếu với người sở hữu trái phiếu.


18
Đơn vị phát hành trái phiếu là chính phủ, chính quyền địa phƣơng, và
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế theo quy định của pháp luật.
* Phân loại trái phiếu:
- Phân theo tính chuyển nhƣợng có thể chia thành trái phiếu vô danh và
trái phiếu ghi danh
- Phân theo chủ thể phát hành có:
+ Trái phiếu Chính phủ: phân biệt theo thời gian có 3 loại: Trái phiếu
ngắn hạn - thời hạn dƣới 1 năm; trái phiếu trung hạn - thời hạn từ 1 năm đến 5
năm và trái phiếu dài hạn - thời hạn trên 5 năm.
Trái phiếu chính phủ ngắn hạn, là loại có thời hạn ngắn nhất trên thị
trƣờng tài chính, thƣờng là 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm. Trái phiếu ngắn hạn
thƣờng đƣợc bán theo giá chiết khấu (lãi đƣợc trả ngay khi mua, bằng cách
khấu trừ vào vốn)
Tín phiếu kho bạc, là công cụ để Ngân hàng Trung ƣơng vận hành thị
trƣờng mở, thời hạn của nó là 90 ngày và 180 ngày. Thị trƣờng tín phiếu kho
bạc là thị trƣờng tiền tệ liên ngân hàng, thông qua nó Ngân hàng TW thực
hiện điều hoà vốn, tiền tệ.
Trái phiếu chính phủ ngắn hạn đƣợc coi là không có rủi ro và tính thanh

khoản cao nên rất đƣợc ƣa chuộng trên thị trƣờng tài chính.
Trái phiếu chính phủ trung hạn, là trái phiếu có tỷ lệ phát hành khá cao
trong các loại trái phiếu. Thời hạn của nó từ 1 năm đến 5 năm. phƣơng thức
trả lãi thƣờng là 6 tháng hoặc 1 năm một lần bằng cuống lãi đính kèm trái
phiếu.
Trái phiếu chính phủ dài hạn, là loại trái phiếu để giải quyết vốn đầu tƣ
dài hạn của Nhà nƣớc. Trên nguyên tắc trái phiếu dài hạn có thể phát hành với
thời hạn bao lâu cũng đƣợc thông thƣờng từ 10 năm đến 30 năm. Loại chứng
khoán này đƣợc phát hành rộng rãi và khối lƣợng lớn ở những nƣớc có thị
trƣờng chứng khoán phát triển (thị trƣờng chứng khoán tạo tính thanh khoản
cho loại chứng khoán này).
Trong trái phiếu trung và dài hạn có trái phiếu công trình (trái phiếu có
mục đích). Đây là loại trái phiếu huy động vốn cho đầu tƣ phát triển cơ sở hạ
tầng rất hiệu quả. Các công trình có thể xác định nguồn thu hàng năm khi đƣa
vào sử dụng đều có thể phát hành trái phiếu công trình, kể cả các công trình


19
lớn với thời gian thi công kéo dài. Mỗi công trình là một loại trái phiếu quản
lý và hạch toán riêng biệt.
Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán an toàn nhất, nếu có rủi ro thì
chỉ từ lạm phát. Vì vậy lãi suất của trái phiếu chính phủ thƣờng thấp hơn các
loại khác cùng kỳ hạn. Thông thƣờng trái phiếu chính phủ đƣợc phát hành qua
hình thức đấu giá cạnh tranh.
+ Trái phiếu doanh nghiệp: gồm rất nhiều loại: trái phiếu tín chấp,
trái phiếu thế chấp, trái phiếu thu nhập
Trái phiếu tín chấp, còn gọi là trái phiếu không có đảm bảo, là loại trái
phiếu chỉ dựa vào uy tín của công ty để phát hành, loại trái phiếu này thƣờng
chỉ đƣợc phát hành ở những công ty lớn, có uy tín và chỗ đứng vững chắc
trong nền kinh tế.

Trái phiếu thế chấp, là loại trái phiếu khi phát hành phải dựa trên một
lƣợng tài sản tƣơng ứng ký thác tại cơ quan uỷ thác, để đảm bảo chắc chắn
cho khả năng hoàn trả. Tài sản thế chấp thƣờng là các giấy tờ có giá dài hạn
hoặc tài sản hiện hữu của doanh nghiệp.
Trái phiếu chuyển đổi, là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ
phiếu thƣờng. Điều kiện và cách thức chuyển đổi cũng tƣơng tự nhƣ cổ phiếu
ƣu đãi có quyền chuyển đổi. Chỉ số chuyển đổi và thời hạn chuyển đổi đƣợc
xác định ngay khi phát hành. Đây là loại rất hấp dẫn các nhà đầu tƣ, các công
ty cổ phần thƣờng phát hành.
Trái phiếu chiết khấu, là loại trái phiếu trả lãi ngay khi phát hành bằng
cách khấu trừ vào mệnh giá.
Trái phiếu lãi suất thả nổi, là loại trái phiếu không xác định mức lãi
suất cụ thể, lãi suất đƣợc điều chỉnh hàng năm theo các yếu tố thị trƣờng,
thƣờng bằng lãi suất cơ bản cộng với chỉ số lạm phát. Đây là loại trái phiếu
đƣợc “bảo hiểm” chống lại sự mất giá của vốn đầu tƣ do lạm phát.
1.2.2.3. Các chứng khoán phái sinh
Trên thị trƣờng chứng khoán bên cạnh việc mua bán chứng khoán vốn,
chứng khoán nợ còn có sự mua bán các chứng từ tài chính khác nhƣ: chứng
quyền, chứng khế, quyền lựa chọn Các chứng từ tài chính này đƣợc ra đời
từ các giao dịch chứng khoán và đƣợc chuyển đổi sang chứng khoán qua mua
bán. Do đó, ngƣời ta gọi đó là các chứng từ có nguồn gốc tài chính hoặc các
chứng khoán phái sinh. Chứng khoán phái sinh không có vai trò tạo vốn cho
nền kinh tế nhƣng nó làm cho giao dịch của thị trƣờng chứng khoán trở nên


20
phong phú, đa dạng và sôi động hơn, làn tăng thêm tính hấp dẫn cho các loại
chứng khoán phát sinh ra nó.
Các chứng khoán phái sinh ngày càng đa dạng, dƣới đây là một số loại
chủ yếu:

- Chứng chỉ quỹ đầu tư: đây là loại hàng hóa khá thông dụng (thứ 3 sau
cổ phiếu và trái phiếu) trên thị trƣờng chứng khoán. Đây là một loại chứng
khoán do Quỹ đầu tư thành lập theo mô hình công ty phát hành để huy động
vốn. Chứng chỉ quỹ đầu tƣ có tính chất tƣơng tự nhƣ cổ phiếu của công ty cổ
phần, nhƣng khác với cổ phiếu thƣờng, quỹ sẽ mua chứng khoán trở về cho
ngƣời đầu tƣ khi ngƣời đầu tƣ có nhu cầu (đối với quỹ mở).
- Chứng quyền: Chứng quyền còn đƣợc gọi là quyền tiên mãi hoặc
quyền đặt mua. Trong kinh doanh những công ty thành đạt làm ăn có hiệu quả
thƣờng có nhu cầu phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm tăng vốn để mở rộng
kinh doanh. Tuy nhiên khi phát hành cổ phiếu bổ sung dễ dẫn đến tình trạng
thôn tính công ty, cổ đông ban đầu dễ mất quyền kiểm soát bởi các cổ đông
mới có thế lực tài chính mạnh hơn. Để khắc phục nhƣợc điểm này các cổ
đông hiện hữu có thể đƣợc cấp một giấy đảm bảo quyền mua cổ phiếu tƣơng
ứng với số cổ phần mà họ đang nắm giữ (thƣờng đƣợc ƣu tiên cả về giá). Các
cổ đông cũ thực hiện quyền mua cổ phiếu mới của mình theo giấy đảm bảo
quyền mua, thì tỷ lệ cổ phần của họ trong công ty không có gì thay đổi, tức là
quyền kiểm soát công ty cũng không bị thay đổi. Nhƣng nếu họ không thực
hiện quyền mua, họ có quyền đƣa giấy đảm bảo quyền mua này ra bán trên thị
trƣờng chứng khoán. Khi giấy đảm bảo quyền mua đƣợc đƣa ra trao đổi trên
thị trƣờng chứng khoán nó sẽ là một loại chứng khoán phái sinh, loại chứng
khoán đƣợc sinh ra từ cổ phiếu.
- Bảo chứng phiếu (chứng khế): về tính chất cơ bản cũng giống nhƣ
giấy đảm bảo quyền mua, nhƣng có thời hạn lƣu thông dài hơn, có thể là một
số năm. Do thời hạn dài, và có thể là vĩnh viễn, nên một công ty có thể có một
số loại bảo chứng phiếu cùng lƣu hành vào một thời điểm, tuỳ thuộc thị
trƣờng và tuỳ thuộc vào loại cổ phiếu. Công ty phát hành bảo chứng phiếu khi
giấy đảm bảo quyền mua hết giá trị. Chỉ có những loại cổ phiếu sôi động mới
có bảo chứng phiếu, chúng đƣợc phát hành để giảm bớt áp lực mua cổ phiếu
của công ty đó trên thị trƣờng và phải đƣợc cơ quan có thẩm quyền cho phép
phát hành.

Thông thƣờng bảo chứng phiếu đƣợc phát hành cùng với đợt phát hành
trái phiếu hay cổ phiếu ƣu đãi, trong đó cho phép ngƣời sở hữu mua một số


21
lƣợng nhất định chứng khoán (trái phiếu và cổ phiếu thƣờng) với giá nhất
định trong một thời gian nhất định. Mục đích của nó là để làm tăng tính hấp
dẫn cho các loại chứng khoán mới phát hành lần đầu hoặc cũng có thể đƣợc
phát hành để huy động thêm vốn. Đơn vị phát hành bảo chứng phiếu cam kết
sẽ bán cổ phiếu phổ thông cho ngƣời nẵm giữ chúng ở đợt phát hành mới
trong tƣơng lai dài thƣờng từ 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa với giá cao hơn
giá trị hiện tại của cổ phiếu đang đƣợc giao dịch trên thị trƣờng chứng khoán.
Ngƣời mua hy vọng tại thời điểm đƣợc quy định trong tƣơng lai, họ sẽ đƣợc
mua cổ phiếu thƣờng ở mức giá rẻ hơn giá thị trƣờng tại thời điểm đó.
Ví dụ công ty X hiện tại có cổ phiếu thƣờng đang lƣu hành với giá
20USD một cổ phiếu trên thị trƣờng chứng khoán. Bảo chứng phiếu phát
hành cho phép ngƣời sở hữu chúng mua cổ phiếu thƣờng bất cứ lúc nào cho
đến ngày 31/12/2010 với giá 30USD. Ngƣời nắm giữ bảo chứng phiếu sẽ thu
đƣợc lợi khi công ty X làm ăn có hiệu quả và thị giá của nó vào năm 2010 lớn
hơn 30USD.
- Hợp đồng quyền lựa chọn: Trên thị trƣờng chứng khoán có hai loại
quyền lựa chọn là quyền chọn mua và quyền chọn bán chứng khoán. Đây là
một hợp đồng đƣợc ký kết giữa một bên là "ngƣời ký phát" và một bên là
ngƣời mua, trong đó cho phép ngƣời mua hợp đồng đƣợc quyền mua hoặc
bán cho "ngƣời ký phát" một số lƣợng chứng khoán, với một giá cả nhất định
và trong một thời hạn quy định của tƣơng lai.
+ Quyền chọn mua chứng khoán: là quyền mua một số lƣợng chứng
khoán xác định tại một mức giá xác định và vào thời điểm xác định trong
tƣơng lai. Ngƣời mua hy vọng giá chứng khoán này sẽ tăng trong tƣơng lai,
họ đứng trên quan điểm tăng giá. Ngƣời mua hợp đồng phải trả cho ngƣời bán

hợp đồng một khoản tiền gọi là phí quyền chọn mua.
+ Quyền chọn bán chứng khoán: cho phép ngƣời nắm giữ đƣợc bán
một số lƣợng chứng khoán nhất định, với mức giá xác định tại thời hạn quy
định trong tƣơng lai. Ngƣợc lại với quyền chọn mua, ngƣời sở hữu quyền
chọn bán đứng trên quan điểm giá xuống. Ngƣời mua hợp đồng phải trả cho
ngƣời bán chúng một khoản phí gọi là phí quyền chọn bán.
Hợp đồng quyền lựa chọn cung cấp quyền cho ngƣời sở hữu chúng chứ
không phải nghĩa vụ mua hoặc bán. Ngƣời nắm giữ hợp đồng quyền lựa chọn
có thể bán hợp đồng cho ngƣời đầu tƣ khác, nếu không có nhu cầu sử dụng
khi hợp đồng đó còn hiệu lực thi hành. Vì vậy, hợp đồng quyền lựa chọn cũng
đƣợc coi là một loại chứng khoán. Ngƣời nắm giữ một hợp đồng quyền lựa


22
chọn có 3 cách lựa chọn tuỳ nhận định, phân tích của riêng họ: thực hiện
quyền để mua hoặc bán chứng khoán, để quyền hết hiệu lực hoặc bán chúng.
- Hợp đồng tương lai: Là hợp đồng giữa ngƣời bán và ngƣời mua, theo
đó ngƣời bán cam kết giao một số lƣợng nhất định chứng khoán và ngƣời
mua sẽ trả tiền khi nhận chứng khoán đó với một giá nhất định, tại một ngày
nhất định trong tƣơng lai, đƣợc xác định trƣớc tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Thông thƣờng các điều khoản trong hợp đồng đƣợc hai bên thoả thuận từ
trƣớc, để tránh các rủi ro cả hai bên đều đƣợc yêu cầu phải ký quỹ một khoản
tiền đặt cọc nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng tƣơng lai bắt nguồn từ hợp đồng giao hàng nhƣng khác ở chỗ
nó có thể đƣợc chuyển nhƣợng. Chúng đƣợc giao dịch trên một thị trƣờng
riêng biệt là “Sở giao dịch các hợp đồng kỳ hạn”. Ngày nay các hợp đồng có
kỳ hạn (trong đó có hợp đồng tƣơng lai) đã đƣợc tiêu chuẩn hoá và sử dụng
rộng rãi trên nhiều sở giao dịch.
1.2.3. Những điều kiện hình thành và phát triển hàng hoá của thị trƣờng
chứng khoán

Gắn liền với sự tồn tại và phát triển của thị trƣờng chứng khoán, hàng
hoá là yếu tố có tính chất quyết định. Tại các quốc gia có nền kinh tế thị
trƣờng phát triển, khi mà thị trƣờng chứng khoán đã phát triển ở mức độ cao,
hàng hoá dồi dào, đa dạng về chủng loại thì ngƣời ta dễ quên đi vai trò của
công tác phát triển hàng hoá. Nhƣng ở các quốc gia đang phát triển nhƣ Việt
Nam hiện nay, khi thị trƣờng chứng khoán đang trong bƣớc khởi đầu thì công
tác nghiên cứu các điều kiện hình thành và phát triển hàng hoá cho thị trƣờng
chứng khoán đƣợc đặt lên hàng đầu. Khi đã xác định và nghiên cứu đầy đủ
các điều kiện hình thành và phát triển hàng hoá của thị trƣờng chứng khoán,
các cơ quan quản lý thị trƣờng sẽ có các định hƣớng đúng đắn, giúp cho thị
trƣờng phát triển một cách vững chắc trong tƣơng lai.
Lịch sử phát triển ở một số nƣớc cho thấy, thị trƣờng chứng khoán phát
triển theo hai con đƣờng: 1) hình thành một cách tự phát phù hợp với quá
trình phát triển của nền kinh tế thị trƣờng hoặc 2) thị trƣờng chứng khoán
hình thành một cách có ý thức với sự hỗ trợ ngay từ đầu của nhà nƣớc. Con
đƣờng thứ nhất đã diễn ra ở các nƣớc đi đầu về phát triển kinh tế thị trƣờng,
đó là các nƣớc ở châu Âu, Bắc Mỹ. Ngày nay, thị trƣờng chứng khoán ở hầu
hết các nƣớc đang phát triển đều đƣợc hình thành theo con đƣờng thứ hai.
Nhà nƣớc chủ động hỗ trợ thị trƣờng chứng khoán để nó có sự ổn định và
đứng vững trong giai đoạn ban đầu. Hơn nữa, con đƣờng này cho phép tiếp


23
thu, tận dụng các kinh nghiệm, thành quả phát triển thị trƣờng chứng khoán
trên thế giới để bỏ qua một số giai đoạn, phát triển nhanh. Tuy nhiên dù có
hình thành theo cách nào đi nữa thì thị trƣờng chứng khoán cũng có các điều
kiện về kinh tế - xã hội nhất định để hình thành.
Nhìn lại lịch sử ra đời của chủ nghĩa tƣ bản, trải qua hai thời kỳ đại
công nghiệp, đƣa nền công nghiệp thế giới tới những đỉnh cao mới. Lúc đó
tích tụ tƣ bản đơn lẻ không đáp ứng kịp nhu cầu mở rộng quy mô phát triển

sản xuất, dẫn đến cao trào của việc huy động vốn từ bên ngoài qua các hình
thức vay mƣợn, hùn vốn đây là tiền đề cho việc hình thành nên các loại
hàng hoá cho thị trƣờng chứng khoán sau này. Chúng ta có thể khẳng định chỉ
có nền kinh tế thị trƣờng mới xuất hiện và tồn tại thị trƣờng chứng khoán; chỉ
có nền kinh tế thị trƣờng mới có những điều kiện cơ bản cho hàng hoá của thị
trƣờng chứng khoán phát sinh và phát triển.
- Nhu cầu đầu tƣ là điều kiện đầu tiên cho sự ra đời của thị trƣờng
chứng khoán. Trong nền kinh tế thị trƣờng, sản xuất hàng hoá là một hoạt
động quan trọng để đáp ứng nhu cầu rất phong phú và ngày càng tăng của xã
hội, do đó đòi hỏi phải vừa chuyên môn hoá trong sản xuất vừa tăng quy mô
sản xuất, về mặt kinh tế phải không ngừng khả năng tích tụ vốn. Từ mục tiêu
lợi nhuận dần đã xuất hiện các nhu cầu đầu tƣ. Các nhà tƣ bản lớn có thể tự
bỏ vốn đầu tƣ trong phạm vi khả năng của họ, còn những ngƣời khác ít vốn
hơn cũng có thể đầu tƣ dƣới các hình thức khác. Có thể nói mục tiêu lợi
nhuận đã kích thích các nhu cầu đầu tƣ, đây là điều kiện cơ bản đầu tiên giúp
cho việc hình thành các dạng đầu tƣ bằng chứng khoán - giấy tờ có giá.
- Nền kinh tế phải tồn tại các chủ thể sản xuất kinh doanh đa sở hữu.
Các công ty đƣợc thành lập dƣới dạng hùn vốn hoặc vay nợ, trong đó công ty
cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh đa sở hữu hoàn chỉnh nhất. Do nhu
cầu xã hội ngày càng đa dạng và tăng nhanh, khả năng tích tụ tài chính lại đòi
hỏi phải có thời gian dài, do đó xuất hiện các hình thức hùn vốn và vay mƣợn
để mở rộng quy mô sản xuất. Đây là tiền đề cho sự ra đời của hàng hoá cho
thị trƣờng chứng khoán, ban đầu nó tồn tại dƣới hình thức cổ phiếu và giấy nợ
(trái phiếu).
- Nền kinh tế phải xuất hiện nhu cầu mua đi bán lại và đƣợc phép mua
đi bán lại các loại giấy tờ có giá. Sự mua bán ban đầu chỉ diễn ra trong phạm
vi hẹp của những ngƣời hùn vốn với nhau, dần dần hình thức này càng phát
triển, từ những giao dịch trên đƣờng phố, ngƣời ta tổ chức thành những tụ

×