Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.28 KB, 135 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
---------------PHẠM THỊ XUÂN

KẾ HOẠCH HĨA KINH TẾ VĨ MƠ TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Chuyên ngành
Mã số

: KTCT
: 5.02.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Thị Hoa Mai

Hà Nội - 2005


MỤC LỤC
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về kế hoạch hóa kinh tế vĩ mơ trong
nền kinh tế thị trường .............................................................................. 4
1.1. Kinh tế thị trường ................................................................................ 4
1.1.1. Đặc tính chung .................................................................................. 4
1.1.2. Tính đặc thù của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam .................... 7
1.2. Kế hoạch hóa kinh tế vĩ mơ ................................................................ 11
1.2.1. Định nghĩa ...................................................................................... 11
1.2.2. Những nội dung cơ bản của kế hoạch hóa kinh tế vĩ mơ ................... 13
1.2.3. Mối quan hệ giữa kế hoạch hố với hoạch định chính sách và chỉ đạo


thực hiện ................................................................................................. 16
1.3. Kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đang phát triển ............. 19
1.3.1. Sự cần thiết của kế hoạch hóa .......................................................... 19
1.3.2. Những yếu tố hạn chế hiệu quả của KHH ......................................... 22
1.4. Kinh nghiệm của một số nước ............................................................ 24
Chương 2: Thực trạng kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô ở Việt Nam ............. 44
2.1. Những thay đổi trong nhận thức về KHHKTVM trong tiến trình chuyển
sang KTTT ở Việt Nam ............................................................................ 44
2.2. Q trình đổi mới cơng tác KHHKTVM ở Việt Nam ........................... 52
2.2.1. Thời kỳ 1979 - 1985 ....................................................................... 53
2.2.2. Giai đoạn 1986 - 1989 .................................................................... 56
2.2.3. Những nỗ lực đổi mới từ 1989 đến nay ............................................ 58
2.3. Đánh giá chung .................................................................................. 77
2.3.1. Những kết quả đạt được ................................................................... 77
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân .................................................................. 82
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện KHHKTVM của
Việt Nam................................................................................................. 86
3.1. Những thuận lợi và khó khăn hiện nay ................................................ 86


3.1.1. Bối cảnh quốc tế.............................................................................. 86
3.1.2. Tình hình trong nước ....................................................................... 88
3.2. Phương hướng đổi mới KHHKTVM .................................................. 90
3.3. Một số giải pháp đổi mới KHHKTVM ................................................ 98
3.3.1. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược KT-XH ................................. 98
3.3.2. Nâng cao chất lượng kế hoạch trung hạn 5 năm ...............................103
3.3.3. Hoàn thiện KHH hàng năm .............................................................108
3.3.4. Đổi mới KHH với hồn thiện chính sách KTVM ............................111
3.3.5. Xây dựng cơ sở và điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng KHH.113
Kết luận .................................................................................................119

Danh mục tài liệu tham khảo .................................................................121


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AFTA

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

CCTT

Cơ chế thị trường

CHLB

Cộng hòa liên bang

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

EU


Liên minh châu Âu

KHHKTVM

Kế hoạch hóa kinh tế vĩ mơ

KT - XH

Kinh tế - xã hội

KTTT

kinh tế thị trường

LLSX

Lưu lượng sản xuất

ODA

Viện trợ phát triển chính thức

QHSX

Quan hệ sản xuất

SLĐ

Sức lao động


TBCN

Tư bản chủ nghĩa

TLSX

Tư liệu sản xuất

TLTD

Tư liệu tiêu dùng

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

XNK

Xuất nhập khẩu


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Kế hoạch hố kinh tế vĩ mơ là cơng cụ để Nhà nước thực hiện chức
năng định hướng nền kinh tế, quy tụ hành động của các doanh nghiệp và
người tiêu dùng cá thể thành"véc tơ” vận động của nền kinh tế đảm bảo sự

phát triển bền vững.
Hiện nay, vấn đề kế hoạch và thị trường là mỗi quan tâm hàng đầu của
nhiều nhà nghiên cứu, không những ở nước ta mà ở hầu hết các nước trên thế
giới vì muốn tìm tịi một mơ hình quản lý kinh tế vĩ mơ thích hợp và có hiệu
quả hơn.
Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp kế hoạch hoá kinh
tế vĩ mô ở nước ta được tiến hành theo nguyên tắc tập trung hoá cao độ từ cấp
Trung ương đến cấp địa phương, cơ sở chủ yếu dựa vào quan hệ cấp phát,
giao nộp sản phẩm theo mệnh lệnh hành chính, các biện pháp khác ít được coi
trọng. Nhà nước can thiệp quá sâu vào các lĩnh vực kinh tế, đóng vai trị
người chỉ huy các hoạt động kinh tế.
Cơng cuộc đổi mới đất nước được khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng
kể từ năm 1986, nước ta đã chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN.Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng có đề
cập:" Nhà nước ta quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với
kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”. Đây
là một vấn đề mới mẻ và cịn có rất nhiều ý kiến khác nhau.
Từ khi chuyển sang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Vai trò của kế hoạch hố kinh tế vĩ mơ đã được đánh giá lại.
Vấn đề của thực tiễn đặt ra là chúng ta phải tiến hành đổi mới kế hoạch hoá
kinh tế vĩ mơ như thế nào để từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị
1


trường định hướng XHCN ở nước ta phát huy mặt tích cực của cơ chế thị
trường và cả sự quản lý của nhà nước. Vì lẽ đó mà tơi chọn đề tài luận văn
là:" Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mơ trong nền kinh tế thị trường Việt Nam”.
2.Tình hình nghiên cứu

Từ khi đổi mới đến nay, những vấn đề liên quan đến cơ chế thị trường
của nền kinh tế được nghiên cứu nhiều hơn những vấn đề liên quan đến cơ
chế kế hoạch. Và càng ít các cơng trình nghiên cứu về kế hoạch hố kinh tế vĩ
mơ trong nền kinh tế thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, cũng đã có các cơng
trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được đăng tải trên một số tạp chí nghiên
cứu chuyên ngành. Sau đây là một số tác phẩm và bài viết chính:
Lê Hồng Tiến: Kế hoạch hố trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí
Cộng sản số 02/97.
Trần Ngọc Trang: Tiếp tục hồn thiện kế hoạch hố trong điều kiện tác
động của cơ chế thị trường, tạp chí Kinh tế và dự báo số 9+10/1995.
Hồng Sơn: Kế hoạch hoá phát huy tác dụng trong nền KTTT như thế
nào?, Thông tin kinh tế – kế hoạch số 3/1992.
Tuy vậy, tất cả mới chỉ là những bài báo nghiên cứu nhỏ lẻ, chưa có
một bài viết nghiên cứu hệ thống, đầy đủ về cơng tác kế hoạch hố kinh tế vĩ
mơ trong nền kinh tế thị trường Việt Nam từ những năm đổi mới đến nay.
3.Mục đích nghiên cứu:
Xuất phát từ sự cần thiết và tình hình nghiên cứu như trên, mục tiêu của
luận văn chú trọng vào những điểm chính sau:
Hệ thống hoá cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế kế hoạch hố kinh
tế vĩ mơ trong nền kinh tế thị trường.
Đánh giá thực trạng kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô của Việt Nam từ khi
tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế đến nay.

2


Nghiên cứu và đề xuất một số quan điểm, phương hướng và giải pháp
tiếp tục hồn thiện cơng tác kế hoạch hố kinh tế vĩ mơ trong thời gian tới ở
nước ta.


3


4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tượng chủ yếu mà luận văn đề cập là công tác kế hoạch hố kinh tế
vĩ mơ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn khơng nghiên cứu tồn bộ vấn đề kế hoạch mà chỉ giới hạn phạm vi
nghiên cứu ở chỗ làm rõ vai trị, vị trí của kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô trong
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Về phạm vi thời gian, luận văn chủ yếu tập trung vào thời kỳ Đổi mới
từ 1986 đến nay. Tuy nhiên, luận văn cũng đề cập đến giai đoạn trước đổi mới
bởi nó là cơ sở để đánh giá đầy đủ hơn công tác kế hoạch hố vĩ mơ ở Việt
Nam.
5.Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, diễn dịch, tổng
hợp, thống kê, so sánh.
6.Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
Hệ thống một số luận thuyết và kinh nghiệm quốc tế về kế hoạch hố
kinh tế vĩ mơ trong nền kinh tế thị trường.
Đưa ra những đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng cơng tác kế
hoạch hố kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Đề xuất một số quan điểm, phương hướng, giải pháp và một số kiến
nghị nhằm tiếp tục hồn thiện cơng tác kế hoạch hố kinh tế vĩ mơ của Việt
Nam trong thời gian tới.
7.Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được sắp xếp thành 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về kế hoạch hố kinh tế vĩ mơ trong nền
kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng kế hoạch hố kinh tế vĩ mơ ở Việt Nam hiện nay

4


Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp hoàn thiện kế hoạch hố kinh
tế vĩ mơ của Việt Nam.
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KẾ HOẠCH HĨA
KINH TẾ VĨ MƠ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
1.1. KINH TẾ THỊ TRƢỜNG .

1.1.1. Đặc tính chung .
Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế tồn tại và phát triển
trong nhiều hình thái kinh tế – xã hội. KTHH là loại hình tiến bộ, là nấc thang
cao hơn kinh tế tự nhiên - tự cấp, tự túc - trong lịch sử phát triển của xã hội
loài người. Kinh tế thị trường ( KTTT ) là trình độ phát triển cao của KTHH,
trong đó tồn bộ các yếu tố "đầu vào” và"đầu ra” của sản xuất đều thơng qua
thị trường.
Trong xã hội, cứ có sản xuất và lưu thơng hàng hóa thì tất yếu có thị
trường. Quy mơ của lưu thơng hàng hóa và sức mua của xã hội quyết định
dung lượng thị trường. Đến lượt mình, sử dụng, mở rộng và lành mạnh hóa
thị trường lại có tác dụng thúc đẩy lưu thơng hàng hóa phát triển nhanh chóng
về số lượng và chất lượng
Thị trường là tập hợp các sự thỏa thuận thông qua đó, người bán và
người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Do vậy, thị
trường gắn với lĩnh vực lưu thơng hàng hóa, thị trường hình thành ở đâu thì ở
đó có cung- cầu hàng hóa, nói đến thị trường là nói đến hàng hóa, giá cả, tiền
tệ, người bán, người mua… Thị trường là tổng hòa những mối quan hệ mua bán trong xã hội, được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử

kinh tế – xã hội nhất định. Cơ sở của thị trường là sự phân công lao động xã
hội và sự độc lập tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất. Trình
độ và quy mơ thị trường gắn liền với trình độ phát triển của phân công lao
động xã hội, sản xuất và sức mua của xã hội.

5


Thị trường có các đặc trưng chủ yếu: Thứ nhất, trên thị trường: giá cả
là phạm trù kinh tế trung tâm, là công cụ quan trọng thông qua cung – cầu để
kích thích và điều tiết hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế tham gia thị
trường. Sự biến động của cung – cầu kéo theo sự biến động của giá cả thị
trường và ngược lại, giá cả thị trường cũng điều tiết cung – cầu.
Thứ hai, có sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế tham gia thị
trường nhằm giành giật những điều kiện sản xuất, kinh doanh thuận lợi.
Trong cuộc cạnh tranh đó có người được và người thua, nên sự phá sản của
một bộ phận Doanh nghiệp là không tránh khỏi. Cần phân biệt cạnh tranh
lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là sự cạnh
tranh được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước và bằng việc áp
dụng những biện pháp kinh tế, kỹ thuật, nhằm nâng cao năng suất lao động,
số lượng – chất lượng, hàng hóa, dịch vụ, bằng việc tiết kiệm chi phí sản xuất,
chi phí lưu thơng để nâng cao mức lãi. Cạnh tranh lành mạnh là động lực của
sự phát triển KTTT. Cạnh tranh không lành mạnh là sự cạnh tranh được tiến
hành bằng những hình thức và thủ đoạn phi kinh tế, lẩn tránh sự kiểm soát của
Nhà nước, kinh doanh phi pháp để có lãi. Sự cạnh tranh này gây thiệt hại cho
người tiêu dùng và những đối tác có liên quan, do vậy, cần được Nhà nước
thơng qua luật pháp để nghiêm trị.
Thứ ba, tính hiệu quả của KTTT địi hỏi phải có một thị trường hồn
chỉnh. Thị trường phát triển hoàn chỉnh là thị trường xã hội thống nhất, không
chia cắt, là một thị trường đồng bộ giữa các loại thị trường ( TLSX, TLTD,

vốn, kỹ thuật, tiền tệ, SLĐ…) và có hệ thống luật pháp thống nhất chi phối.
Thứ tư, có 3 hình thái thị trường:
 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có nhiều người bán,
nhiều người mua, sản phẩm đồng nhất, các yếu tố sản xuất có tính
linh hoạt cao, việc gia nhập hoặc rời bỏ thị trường dễ dàng và Doanh
nghiệp là người chấp nhận giá.

6


 Thị trường độc quyền là thị trường do một người bán hoặc một
người mua, sản phẩm là độc nhất, việc gia nhập, rời bỏ thị trường là
khó khăn, giá cả do tổ chức độc quyền quyết định.
 Thị trường cạnh tranh khơng hồn hảo hay cịn gọi là thị trường vừa
có tính cạnh tranh vừa có tính độc quyền. Đây là thị trường độc
quyền 2 người hay độc quyền nhóm, cạnh tranh có tính độc quyền.
Nền KTTT vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước. Cơ chế thị trường ( CCTT) là cơ chế kinh tế nảy sinh một cách tất yếu
từ sự phát triển của sản xuất và lưu thơng hàng hóa. Cơ chế thị trường là hệ
thống hữu cơ các nhân tố giá cả, cạnh tranh, cung cầu… trong mối quan hệ
tác động qua lại với nhau và phát huy tác dụng điều tiết thị trường. Nó là cơ
chế bên trong của KTTT, có tính tất yếu khách quan trong mối liên hệ giữa
các chủ thể thị trường với các nhân tố thị trường ( giá cả, cạnh tranh, cung –
cầu) và hình thành cơ chế điều tiết thị trường. Do đó, cơ chế thị trường còn
gọi là cơ chế điều tiết thị trường đối với mọi hoạt động kinh tế, là guồng máy
vận hành của nền kinh tế, là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các
nguồn lực ( vốn, tài nguyên, SLĐ, TLSX). Căn cứ vào thị trường các Doanh
nghiệp sẽ quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai,
KTTT đòi hỏi phát triển SXHH, mọi sản phẩm là hàng hóa, mở rộng thị
trường về mọi phương tiện, tự do sản xuất, kinh doanh tự do thương mại, đa

dạng hóa hình thức sở hữu hình thức phân phối. Trong đó nó có các đặc
trưng: đặc trưng cơ bản nhất là cơ chế hình thành giá cả một cách tự do, người
bán và người mua thơng qua đó để xác định giá cả, đặc trưng cơ bản thứ hai là
lựa chọn tối ưu hóa các hoạt động kinh tế để đạt được lợi nhuận tối đa. Sự
quản lý can thiệp vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với yêu cầu của các qui
luật đó. Nhà nước phải sử dụng chủ yếu các công cụ, biện pháp kinh tế, luật
pháp, quy hoạch kế hoạch định hướng, chính sách kinh tế – xã hội và khả
năng, sức mạnh kinh tế của Nhà nước để tác động tới thị trường điều tiết hoạt
động của các Doanh nghiệp cho phù hợp.
7


CCTT có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Về mặt tích cực: nó là cơ chế
tự điều tiết nền kinh tế nên rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển, nó có tác
dụng kích thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kỹ
thuật, công nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng, nó có tác
dụng lớn trong việc bình tuyển các Doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh
doanh giỏi. Trên cơ sở đó, CCTT kích thích sản xuất và lưu thơng hàng hóa
phát triển… Bên cạnh đó nó cũng có mặt tiêu cực: Trên thị trường chứa đựng
tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn mất cân đối. Vì mục tiêu chạy
theo lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu
như: mơi trường bị tàn phá, thất nghiệp, phá sản, cạnh tranh khơng lành mạnh,
phân hóa, phân tầng xã hội cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công
bằng, tệ nạn xã hội gia tăng, xuất hiện nhiều người làm ăn bất hợp pháp… Do
đó, để hạn chế những khuyết tật đó địi hỏi Nhà nước phải quản lý nền KTTT.
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, qui hoạch, kế hoạch định
hướng, bằng các công cụ, chính sách, biện pháp kinh tế… CCTT chịu sự tác
động rất mạnh của các qui luật kinh tế hàng hóa, do đó sự can thiệp vĩ mơ
của Nhà nước phải phù hợp với yêu cầu của các quy luật KTHH.
1.1.2. Tính đặc thù của KTTT định hƣớng XHCN ở Việt Nam.

Phát triển KTTT có vai trị, ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta. Bởi
vì, nước ta muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn
XHCN thì khơng cịn con đường nào khác là phải phát triển KTTT, KTTT
khắc phục được hạn chế của kinh tế tự nhiên – tự cấp, tự túc, đẩy mạnh phân
công lao động xã hội, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động,
khuyến khích ứng dụng công nghệ – kỹ thuật mới nhằm tăng NSLĐ, tăng số
lượng, chủng loại, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ tập trung sản
xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, thúc
đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn
vị kinh tế, đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã
hội hợp lý, tiết kiệm… Vì vậy, phát triển KTTT được coi là chiếc đòn xe để
8


xây dựng CNXH, là phương tiện khách quan để xã hội hóa XHCN nền sản
xuất. Khơng thể có nền KTTT ở nước này lại là bản sao của KTTT ở nước
khác. Trong các tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền KTTT khác,
phải kể đến định hướng chính trị, kinh tế – xã hội chi phối sự vận động phát
triển của nền kinh tế. Ở Việt Nam những định hướng XHCN của nền kinh tế
là:
1. Phát triển nền KTTT với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế,
với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trị chủ đạo.
2. Phát triển nền KTTT vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước định hướng XHCN đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển, tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
3. Xây dựng một nền KTTT hòa nhập vào nền KTTT khu vực và thế
giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kết phong phú, đa phương, đa dạng.
Với định hướng trên, mục tiêu phát triển nền KTTT định hướng XHCN
được xác định là: tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế.

Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các nguồn lực
mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng tích lũy và đầu tư hiện đại hóa,
đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao… để đưa nước ta
thoát khỏi một nước nghèo và kém phát triển.
Theo mục tiêu đó, có thể xác định những đặc trưng bản chất của nền
KTTT định hướng XHCN ở nước ta: Một là, KTTT định hướng XHCN là
một kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá trình đi lên CNXH từ một nước nơng
nghiệp lạc hậu, kinh tế cịn kém phát triển. Kiểu tổ chức nền kinh tế này nhằm
nhanh chóng đưa nước ta đạt đến mục tiêu" dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng và văn minh”. Hai là, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế
gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác phải trở
thành nền tảng và kinh doanh Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các TPKT đều
vận động theo định hướng chung và theo khung khổ pháp luật của Nhà nước
9


XHCN. Ba là, nền KTTT định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền
kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT, vừa dựa trên
những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Bốn là, nền KTTT định hướng
XHCN là mơ hình kinh tế"mở” cả với bên trong và với bên ngồi. Tồn tại
trong nhiều hình thái kinh tế – xã hội, hoạt động của CCTT không chỉ chịu sự
tác động của các qui luật KTHH nói chung, mà cịn chịu sự chi phối của các
qui luật kinh tế đặc thù của các PTSX chủ đạo. Do vậy, mơ hình CCTT có sự
quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế TBCN và trong nền kinh tế định
hướng XHCN có những điểm khác nhau cơ bản:
* Về chế độ sở hữu: CCTT trong nền kinh tế TBCN luôn hoạt động
trên nền tảng của chế độ tư hữu về TLSX, trong đó các cơng ty tư bản độc
quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế thị
trường trong nền KTTT theo định hướng XHCN lại hoạt động trong môi
trường có sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ cơng hữu giữ vai

trị là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của nền kinh tế
Nhà nước. Tính định hướng XHCN địi hỏi trong q trình phát triển KTHH
nhiều thành phần phải củng cố sự phát triển kinh tế Nhà nước và kinh tế tập
thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết, hướng dẫn sự
phát triển của nền KTHH nhỏ và TBCN. Kinh tế Nhà nước phải được củng cố
và phát triển ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết… mà các thành phần kinh
tế khác khơng có điều kiện hoặc khơng muốn đầu tư vì khơng sinh lời hoặc ít
lãi .
* Về tính giai cấp của Nhà nước và mục đích quản lý của Nhà nước
trong cơ chế thị trường TBCN, sự can thiệp của Nhà nước ln mang tính
chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm tạo mơi
trường kinh tế – xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự
bền vững của chế độ bóc lột TBCN. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý,
điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN thì sự can thiệp của Nhà nước
XHCN vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của tồn thể
10


nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh.
* Về cơ chế vận hành: cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN
là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của
ĐCSVN. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều
thành phần hướng tới đích XHCN theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ
mô, thị trường hướng dẫn Doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ
bản: Một là, Nhà nước XHCN là nhân tố đóng vai trị"nhân vật trung gian”
và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, CCTT là nhân tố trung tâm của nền kinh
tế, đóng vai trị"trung gian” giữa Nhà nước và Doanh nghiệp.
* Về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã
hội: Trong sự phát triển KTTT TBCN, vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt

ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt, nảy sinh các vấn đề xã
hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dọa sự tồn tại của CNTB. Song, vấn đề
này không bao giờ và không thể nào giải quyết được triệt để trong chế độ tư
bản. Mục đích giải quyết của các Chính phủ tư sản chỉ giới hạn trong khuôn
khổ TBCN, chỉ là phương tiện dể duy trì chế độ TBCN. Ngược lại, trong nền
KTTT định hướng XHCN, Nhà nước chủ động ngay từ đầu việc giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Vấn đề công bằng
xã hội không chỉ là phương tiện để phát triển KTTT mà còn là mục tiêu của
chế độ xã hội mới. Sự thành công của KTTT theo định hướng XHCN không
chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của
mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng
cách giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc
được giữ vững, môi trường sinh thái được bảo vệ.
* Về phân phối thu nhập, sự thành công của nền KTTT định hướng
XHCN không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà cịn vì mục đích
cuối cùng là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội. Đặc trưng xã hội trong nền KTTT định
11


hướng XHCN thể hiện ở việc xác định các chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được như:
tốc độ tăng GDP/người, các chỉ tiêu phát triển giáo dục, y tế, việc làm, xóa
đói giảm nghèo, về Văn hóa – Xã hội, đảm bảo môi trường sinh thái…Và
nâng cao chức năng xã hội của Nhà nước XHCN trong chế độ bảo hiểm xã
hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng thời có cuộc sống đảm bảo xã
hội đối với những đối tượng đặc biệt ( gia đình có cơng với cách mạng,
thương binh, người tàn tật….).
Để đạt được các yêu cầu đó đặt ra cho KTTT định hướng XHCN phải
kết hợp hài hòa 3 vấn đề: Một là, kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội.
Mục đích của sự kết hợp này là vừa đảm bảo cho các chủ thể của KTTT có

được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho
sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của
CNXH và nguyên tắc của KTTT như: Phân phối theo lao động, theo vốn, tài
năng, quỹ phúc lợi xã hội… Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là
chính. Thứ ba, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt đòi hỏi Nhà nước phải
có chính sách cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa tầng lớp người giàu
và người nghèo. ..
Tuy vậy, nền KTTT ở nước ta hiện nay còn mang nặng những đặc
điểm:
* KTTT trong thời kỳ quá độ là nền KTTT quá độ. Tính quá độ thể
hiện: trong nền kinh tế bao gồm nhiều loại hình sản xuất hàng hóa đan xen
nhau sản xuất hàng hóa XHCN, sản xuất hàng hóa TBCN, sản xuất hàng hóa
nhỏ…. ( Nhiều TPKT với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia sản
xuất hàng hóa ). Trong nền KTTT quá độ, sản xuất hàng hóa XHCN giữa vai
trị chủ đạo, định hướng đối với các kiểu sản xuất hàng hóa khác.
* KTTT cịn ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng mặt hàng
và chủng loại hàng hóa nghèo nàn, khối lượng hàng hóa lưu thơng trên thị
trường và kim ngạch XNK cịn nhỏ, chi phí sản xuất và giá thành hàng hóa
cao, sức cạnh tranh của các Doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng
12


như ngồi nước cịn rất yếu, nhiều loại thị trường cịn sơ khai, hoặc đang
trong q trình hình thành, thu nhập của người lao động còn thấp, sức mua
hạn chế…. Trình độ phát triển thấp của sản xuất hàng hóa bắt nguồn từ trình
độ phát triển thấp của LLSX, từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, trình
độ phân công lao động xã hội kém phát triển, từ sự kém phát triển của kết cấu
hạ tầng, lao động thủ cơng cịn chiếm tỷ trọng lớn sự kìm hãm của nền kinh tế
trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp trong một thời gian quá
dài…

1.2. KẾ HOẠCH HĨA KINH TẾ VĨ MƠ.

1.2.1. Định nghĩa.
Về kế hoạch hóa Kinh tế vĩ mơ hiện có nhiều định nghĩa khác nhau
xuất phát từ những cách tiếp cận không giống nhau.
Theo Michael P. Todaro: "KHH Kinh tế vĩ mô là một loại hình hoạt
động của chính phủ nhằm phối hợp việc ra những quyết định tương đối dài
hạn về kinh tế và nhằm tác động trực tiếp ( thậm chí trong một số trường hợp
cịn kiểm sốt) đối với mức tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng của những biến số
kinh tế chủ yếu ( như thu nhập, tiêu dùng, việc làm, đầu tư, tiết kiệm, xuất
khẩu, nhập khẩu…), để đạt được các mục tiêu phát triển đã xác định. KHH là
cơ chế mà Nhà nước sử dụng để kiểm sốt tồn bộ nền kinh tế”.
- Diana Coneyrs & Peter Hills thì cho rằng:" KHH là quá trình quyết
định, lựa chọn liên tục các phương án khác nhau về sử dụng nguồn lực có hạn
để đạt được các mục tiêu đề ra cho một thời kỳ nhất định trong tương lai”
[29/123].
- Theo Cao Viết Sinh: KHH là sự thiết lập mối quan hệ giữa khả năng
và mục đích nhằm đạt được mục tiêu bằng việc sử dụng có hiệu quả nhất tiềm
năng hiện có. KHH phát triển có đặc thù thể hiện sự cố gắng lựa chọn và sắp
xếp huy động những nguồn khả năng, đưa ra định hướng sử dụng thơng qua
cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước.[ 20/122]
- Du Lô Giang quan niệm: Công cụ quản lý kinh tế, xã hội của Nhà
nước ở tầm vĩ mô được thực hiện bằng 2 đặc trưng cơ bản là định hướng có
13


lượng hóa ở mức độ cho phép và giữ được trạng thái cân đối giữa các bộ phận
cấu thành của nền kinh tế trong từng thời kỳ. [16/122]
Như vậy, nên định nghĩa KHH kinh tế vĩ mô là một loại hình hoạt động
của Chính phủ nhằm lựa chọn phương án sử dụng hợp lý các nguồn lực và

quyết định các giải pháp tác động đến những biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu
theo hướng các mục tiêu đã được xác định.
KHH kinh tế vĩ mô là một thể thống nhất bao gồm nhiều khâu từ việc
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, công tác quy hoạch phát triển,
kế hoạch hóa định hướng 5 năm, KHH hàng năm đến công tác điều hành thực
hiện, theo dõi và điều chỉnh kế hoạch.
- KHH phải xuất phát từ những quan điểm và mục đích chính trị của
Chính phủ, KHH xác định những mục tiêu chính sách liên quan đến sự phát
triển trong tương lai của nền kinh tế.
- KHH phát triển không chỉ bao gồm những mục tiêu mà cịn thể hiện
những mục tiêu đó thành những chỉ tiêu cụ thể.
- KHH là quá trình xây dựng những quy tắc và chính sách nhất quán về
mặt nội dung để thực hiện những mục tiêu đề ra cũng như hướng dẫn việc
thực hiện những chỉ tiêu kế hoạch và những quyết định chính sách thường
nhật.
- KHH là q trình tồn diện tầm kinh tế quốc dân, đồng thời có thể kế
hoạch hóa cho từng lĩnh vực.
- Để đảm bảo tính tối ưu và tính nhất quán KHH kinh tế quốc dân
thường sử dụng một số mơ hình kinh tế lượng ít nhiều đã được cơng nhận
chính thức để dự báo những hướng phát triển của nền kinh tế trong tương lai.
- Kế hoạch phát triển kinh tế thường là kế hoạch trung hạn 5 năm, có
thể kết hợp với một kế hoạch triển vọng dài hạn và được cụ thể hóa bằng
những kế hoạch hàng năm .
1.2.2. Những nội dung cơ bản của kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô.
Nhiều nhà kinh tế đã thống nhất KHH bao hàm 3 nội dung cơ bản sau:

14


1. Vấn đề chọn lựa mục tiêu và phương thức hoạt động.

Kế hoạch hóa là việc ra quyết định về lựa chọn một trong số nhiều
phương thức hành động. Có hai loại lựa chọn chính liên quan đến kế hoạch
hóa. Thứ nhất, là lựa chọn các mục tiêu ưu tiên; bởi vì nguồn lực có hạn nên
khơng thể đáp ứng được cùng một lúc tất cả các nhu cầu phát triển. Thứ hai,
kế hoạch hóa cũng liên quan đến sự lựa chọn trong số các phương thức hành
động khác nhau, giữa các cách thức khác nhau để đạt được cùng một mục
tiêu. Kế hoạch hóa kinh tế cũng giống như kế hoạch hóa cho một cuộc hành
trình. Trong đa số trường hợp, sẽ có nhiều cách khác nhau mà người du hành
có thể chọn để đến đích, và việc lập kế hoạch cho hành trình liên quan đến
việc quyết định lựa chọn một cách thức cụ thể được coi là hợp lý nhất trong
số đó.
Mặc dù hai loại lựa chọn này khác nhau, nhưng chúng đều liên quan
đến quá trình ra quyết định giống nhau. Mối quan hệ giữa kế hoạch hóa và
việc ra quyết định quan trọng đến mức nhiều cơng trình lý thuyết về kế hoạch
hóa quan tâm đến các cách tiếp cận khác nhau đối với việc ra quyết định, cụ
thể là đến các nhân tố được xem xét khi ra quyết định và trình tự quy trình ra
quyết định. Hơn nữa, các nhà kế hoạch đã sử dụng nhiều kỹ thuật hiện đại để
cải thiện cách thức ra quyết định và nâng cao chất lượng của các quyết định.
Sẽ là thiếu sót khi nói rằng kế hoạch hóa chỉ liên quan đến ra quyết
định về sử dụng nguồn lực, bởi lẽ cách sử dụng tốt nhất bất kỳ một tập hợp cụ
thể các nguồn lực nào phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu cần đạt tới. Nói cách
khác, kế hoạch hóa liên quan đến việc ra quyết định về các cách thức khác
nhau để đạt được những mục tiêu cụ thể. Trong ví dụ về lập kế hoạch cho một
hành trình, mục tiêu của việc lập kế hoạch là quan niệm về kế hoạch hóa như
cách để đạt được mục tiêu đặt ra những vấn đề về bản chất của các mục tiêu
và quy trình xây dựng mục tiêu. Một trong những vấn đề mà nhà kế hoạch
thường gặp phải là những mục tiêu của họ không được xác định rõ ràng, mà
thường rất mập mờ. Ví dụ, mục tiêu"tăng sản lượng nơng nghiệp” có thể
15



chẳng đưa ra được định hướng rõ rệt cho các nhà kế hoạch nông nghiệp.
Trong một số trường hợp khác, mục tiêu lại không thực tế trong điều kiện
cung ứng nguồn lực có hạn. Trong nhiều trường hợp, các nhà kế hoạch cũng
gặp phải những vấn đề như phải cố đạt được quá nhiều mục tiêu và đôi khi
các mục tiêu đó lại mâu thuẫn với nhau. Chẳng hạn, sẽ là rất khó cho các nhà
kế hoạch khi phải cùng một lúc thực hiện hai mục tiêu vừa tối đa hóa sản
lượng trên một hecta vừa giảm sự bất bình đẳng giữa các hộ nơng dân, bởi vì
hai mục tiêu này thường mâu thuẫn với nhau. Có trường hợp tuy ít xảy ra
nhưng nếu có thì rất nghiêm trọng, đó là trường hợp những mục tiêu hồn
tồn khơng có ý nghĩa hoặc hồn tồn đi ngược lại với lợi ích của đại bộ phận
dân chúng.
2. Phân bổ nguồn lực.
Một yếu tố quan trọng khác của kế hoạch hóa liên quan đến phân bổ
nguồn lực. Nguồn lực ở đây không chỉ bao gồm các nguồn lực tự nhiên ( đất,
nước, khoáng sản..) mà còn bao gồm cả nhân lực ( Hay nguồn lực con người
nói chung), tài sản ( như đường, nhà và thiết b ị) và tài chính. Việc phân biệt
những gì khơng được coi là nguồn lực tùy thuộc vào mục tiêu cần đạt đến của
người sử dụng cũng như nhận thức về giá trị sử dụng và khả năng sử dụng cụ
thể trong từng trường hợp.
Kế hoạch hóa liên quan đến các quyết định làm thế nào để sử dụng tốt
nhất các nguồn lực hiện có. Vì thế, số lượng và chất lượng của những nguồn
lực này có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình lựa chọn giữa các phương
thức hành động khác nhau. Một mặt, sự giới hạn về số lượng và chất lượng
các nguồn lực là lý do chính giải thích tại sao kế hoạch hóa lại liên quan đến
việc ra quyết định lựa chọn trong số các phương thức hành động khác nhau.
Mặt khác, khi phải lựa chọn giữa các phương thức hành động khác nhau, thì
khả năng cung ứng các nguồn lực đóng vai trò quan trọng trong việc xác định
số lượng phương thức có thể lựa chọn và phương thức nào có khả năng được
chấp nhận hơn cả.

16


Do kế hoạch hóa liên quan đến việc phân bổ các nguồn lực, nên một bộ
phận quan trọng của quá trình lập kế hoạch là thu nhập và phân tích thông tin
về khả năng cung ứng các nguồn lực hiện có. Điều này đặt ra những câu hỏi
cả về khái niệm và về phương pháp liên quan đến hệ thống thông tin kế hoạch
cần được giải đáp.
3. Vấn đề dự báo.
Có một yếu tố quan trọng khác của kế hoạch hóa được thể hiện trong
hầu hết các định nghĩa, đó là yếu tố thời gian. Các mục tiêu mà kế hoạch hóa
muốn đạt tới rõ ràng là ở tương lai, và kế hoạch hóa tất nhiên sẽ gắn với
tương lai. Sự quan tâm đến tương lai tự nó được thể hiện theo hai cách chính.
Các thể hiện thứ nhất là một phần quan trọng của kế hoạch hóa liên quan đến
dự báo, hoặc đưa ra các dự báo về điều gì có thể xảy ra trong tương lai, và cụ
thể hơn là dự báo về kết quả của các phương thức hoạt động khác nhau để xác
định cần lựa chọn phương thức nào. Tất nhiên, khơng thể biết chính xác được
điều gì sẽ xảy ra trong tương lai và vì thế kế hoạch hóa khơng tránh khỏi việc
chấp nhận ở mức độ nhất định sự bất ổn và rủi ro. Tuy nhiên, có nhiều kỹ
thuật khác nhau mà người lập kế hoạch có thể sử dụng để nâng cao tính chính
xác của các dự báo của họ và xử lý những vấn đề về rủi ro và bất ổn. Khoảng
thời gian tương lai của kế hoạch hóa là bao lâu? Điều này hoàn toàn phụ
thuộc vào nội dung cụ thể kế hoạch hóa. ở một thái cực có một số hoạt động
mà các cá nhân và tổ chức có thể phải lập kế hoạch trên cơ sở kế hoạch liên
quan đến việc đưa ra những dự báo về bức tranh thế giới vài thập kỷ sau.
Phân tích mức độ thời gian dài ngắn khác nhau của việc chuẩn bị kế
hoạch có thể gây cảm tưởng rằng kế hoạch hóa là hoạt động định kỳ. Người ta
thường nghĩ rằng kế hoạch được lập cho khoảng thời gian ấn định ( ví dụ cho
5 năm tiếp theo), và khi kế hoạch đã được lập xong thì kế hoạch hóa coi như
kết thúc, cho đến khi kết thúc 5 năm, tức là lúc bắt đầu lập kế hoạch cho thời

kỳ 5 năm tiếp theo. Trong các thập kỷ 50 và 60 nhiều nhà kế hoạch đã có
quan điểm như vậy về kế hoạch hóa, nhưng gần đây người ta đã nhận thức
17


rằng kế hoạch hóa nên được coi là một hoạt động liên tục. Điều này có nghĩa
là mặc dù có thể kế hoạch cần phải được lập cho khoảng thời gian xác định,
nhưng nó nên được liên tục theo dõi và xem xét lại trong giai đoạn đó, và nếu
cần thì có thể được kéo dài sang giai đoạn kế hoạch khác.
Tóm lại, mặc dù kế hoạch nhất định phải liên quan đến tương lai;
nhưng điều đó khơng hạn chế các nhà lập kế hoạch dành nhiều sự chú ý của
họ nghiên cứu tình hình quá khứ và hiện tại. Trong thực tế, các nghiên cứu
hiện tại là rất quan trọng để đưa ra thông tin về nhu cầu và điều kiện hiện tại
cũng như các nguồn lực hiện có cho phát triển, trong khi đó nghiên cứu lịch
sử có thể tạo cơ sở tốt cho dự báo các xu hướng trong tương lai.
1.2.3. Mối quan hệ giữa kế hoạch hóa với hoạch định chính sách và
chỉ đạo thực hiện.
Kế hoạch hóa kinh tế vĩ mơ chỉ là một loại hình hoạt động quản lý của
Nhà nước; gắn với nó cịn có nhiều loại hình hoạt động quản lý khác nữa, đặc
biệt là cơng tác hoạch định chính sách và công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện.
Theo D. Conyers và P. Hills thì nói một cách đơn giản nhất, hoạch định
chính sách liên quan đến việc đưa ra các quyết định về các phương hướng
chung cho sự thay đổi hoặc phát triển; trong khi đó kế hoạch hóa là quá trình
quyết định về phương thức hành động và lựa chọn phương thức hành động
nào là tốt nhất để tạo ra những thay đổi hoặc phát triển đó; đồng thời kế hoạch
hóa cịn xác định xem nên tổ chức thực hiện ra sao, và triển khai việc thực thi
trên thực tế những phương thức hoạt động này.
Để thấy rõ sự khác nhau này, có thể xem xét quy trình kế hoạch hóa
trong ví dụ của lĩnh vực xây dựng nhà ở của một quốc gia. Trong trường hợp
này, việc hoạch định chính sách có thể đưa ra quyết định (trong số nhiều

quyết định khác) đáp ứng nhu cầu nhà ở chủ yếu bằng các chương trình cung
cấp địa điểm và dịch vụ; tức là chính phủ cung cấp địa điểm đã có các dịch vụ
cơ bản để người dân tự xây dựng nhà ở cho mình. Sau đó kế hoạch hóa có thể
bao hàm nội dung ra quyết định xem có bao nhiêu chương trình như vậy cần
18


được xây dựng, địa điểm ở đâu, những loại hình dịch vụ nào sẽ được cung
ứng, các vị trí sẽ được phân cho từng cá nhân như thế nào, và những điều kiện
nào (nếu có) sẽ được ra ra đối với những người xây dựng về cách thức sử
dụng địa điểm được phân. Kế hoạch hóa cũng bao gồm các quyết định về chi
phí của các chương trình, số tiền nhận được, và ai có trách nhiệm tổ chức thực
hiện. Cuối cùng, giai đoạn thực hiện có thể bao gồm việc xây dựng trên thực
tế các chương trình, kể cả chuẩn bị địa điểm, cung ứng dịch vụ và lựa chọn
những người được nhận địa điểm.
Ví dụ này chỉ rõ hai khía cạnh của mối quan hệ giữa hoạch định chính
sách, kế hoạch hóa tổ chức thực hiện. Thứ nhất, nó cho thấy ba hoạt động này
tiếp nối nhau, bắt đầu từ hoạch định chính sách, tiếp theo là kế hoạch hóa, và
sau đó là tổ chức thực hiện. Đồng thời, điều này chỉ rõ vai trò của kế hoạch
như là bước trung gian giữa hoạch định chính sách tổ chức thực hiện, là
phương cách chuyển các chính sách chung thành các chương trình hành động
tạo ra các kết quả cụ thể. Thứ hai, nó chỉ ra sự phân cơng trách nhiệm giữa
các cá nhân hoặc tổ chức có liên quan, trong đó việc hoạch định chính sách
chủ yếu là trách nhiệm của các nhà chính trị hoặc những người ở vị trí ra các
quyết định chính trị; trong khi kế hoạch hóa chủ yếu là trách nhiệm của nhà
kế hoạch, và việc thực hiện chủ yếu do các nhà quản lý đảm nhiệm.
Tuy nhiên, người ta cũng thấy rõ là khó có thể đưa ra ranh giới rõ ràng
giữa hoạch định chính sách, kế hoạch hóa và tổ chức thực hiện hoặc giữa vai
trị của nhà chính trị, nhà kế hoạch và nhà quản lý. Trước hết, hoạch định
chính sách và kế hoạch hóa khơng phải ln ln là những hoạt động tách

biệt rõ ràng, tiếp nối nhau. Trở lại ví dụ về chương trình địa điểm và dịch vụ
nhà ở, mặc dù quyết định chính sách cơ bản là quyết định đáp ứng nhu cầu
nhà ở bằng cách đưa ra các chương trình địa điểm và dịch vụ, nhưng nhiều
quyết định chính sách tiếp theo vẫn được đưa ra trong giai đoạn được gọi là
kế hoạch hóa. Có thể khơng xây dựng được các chương trình trong tất cả các
khu vực cùng một lúc, nên phải xác định thứ tự ưu tiên và đây là vấn đề khá
19


nhạy cảm do nó ảnh hưởng đến việc phân bổ dịch vụ giữa các vùng địa lý
khác nhau và chịu ảnh hưởng bởi sức ép từ các nhà chính trị hoặc các nhóm
chính trị nhất định. Kết quả là vấn đề này được coi là vấn đề hoạch định chính
sách và các nhà kế hoạch có thể cần phải dành cho các nhà chính trị hoặc
những người khác có thẩm quyền ra các quyết định đó.
Một vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa hoạch định chính sách và
kế hoạch hóa là vai trị của hoạch định chính sách trong việc xây dựng các
mục tiêu kế hoạch. Xây dựng các mục tiêu nói chung liên quan nhiều đến các
quyết định hoạch định chính sách, mặc dù đơi khi các mục tiêu đó chẳng hề
có tầm quan trọng về mặt chính trị. Điều đó một lần nữa cho thấy rằng mặc dù
kế hoạch hóa và hoạch định chính sách khơng thể tách rời một cách rõ ràng;
nhưng các quyết định chính sách có xu hướng đi trước các quyết định kế
hoạch hóa; tương tự như vậy các mục tiêu cần được xác định trước khi lập kế
hoạch thực hiện chúng.
Mối quan hệ giữa kế hoạch hóa và hoạch định chính sách cũng còn
được thể hiện ở chỗ các bản kế hoạch thường bao gồm tổng hợp các chính
sách và các kế hoạch cụ thể, và hai nội dung này không dễ tách bạch với
nhau. Hơn nữa, hầu hết các bản kế hoạch cũng như các tài liệu kế hoạch phải
được các tổ chức chính trị thơng qua và chấp thuận, và vì thế cũng đồng thời
là tài liệu chính sách.
Tương tự, sự phân biệt giữa kế hoạch hóa và tổ chức thực hiện cũng

không thật rõ ràng. Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới nguy cơ các
bản kế hoạch không thực hiện được là khoảng cách quá xa giữa kế hoạch hóa
và tổ chức thực hiện. Để khắc phục tình trạng này, người ta thường phải tiến
hành các biện pháp để làm cho kế hoạch có tính khả thi. Mặt khác, các nhà kế
hoạch cũng có vai trị quan trọng trong và sau giai đoạn tổ chức thực hiện,
như theo dõi tiến độ thực hiện và đưa ra những điều chỉnh kế hoạch, và thậm
chí cả đối với các chính sách, nếu xét thấy cần thiết.

20


Như vậy, sự phân công trách nhiệm giữa các nhà chính trị, nhà kế
hoạch và nhà quản lý là sự đơn giản hóa thực tế. Các nhà kế hoạch đóng vai
trị quan trọng trong việc hoạch định chính sách qua việc cung cấp nhiều
thông tin được sử dụng để ra các quyết định chính sách và đưa ra những
khuyến nghị dựa trên đánh giá của chính họ về tình hình. Tương tự, cả các
nhà chính trị ( hoặc các nhà hoạch định chính sách khác) và các nhà quản lý
cũng có thể liên quan đến kế hoạch hóa. Các nhà chính trị thường cung cấp
thơng tin, hướng dẫn, chỉ thị cụ thể về các phương thức hành động thay thế
dựa trên quan điểm của những người đại diện hoặc theo thiên hướng của cá
nhân họ; trong khi đó các nhà quản lý cung cấp kiến nghị cụ thể về khả năng
thực hiện các đề nghị khác nhau. Sự tham gia của các nhà quản lý là rất quan
trọng, vì họ là những người sẽ phải thực hiện kế hoạch, và họ có thể khơng
nhiệt tình với việc thực hiện, nếu họ nghĩ rằng các kế hoạch là không khả thi
hoặc khơng khả dụng.
1.3. KẾ HOẠCH HĨA KINH TẾ VĨ MƠ TRONG NỀN KINH TẾ ĐANG
PHÁT TRIỂN.

1.3.1. Sự cần thiết của kế hoạch hóa
Vì sao kế hoạch hóa được chấp nhận và áp dụng tương đối rộng rãi

không chỉ ở các nước theo mơ hình quản lý tập trung mà cả ở những nước
kinh tế thị trường phát triển và đặc biệt là ở các nước đang phát triển thuộc
thế giới thứ ba? Người ta thường đưa ra 4 lý do sau đây để lý giải cho sự cần
thiết của kế hoạch hóa trong quản lý kinh tế vĩ mơ ở các nước.
* Những thất bại của thị trường.
Thị trường ở các nước đang phát triển thường là thị trường chưa phát
triển một cách đầy đủ những thành tố chủ yếu của nó; giá cả trên những thị
trường như vậy thường bị xuyên tạc vì người sản xuất và người tiêu dùng
thiếu những thông tin cần thiết; sự điều tiết của thị trường trong điều kiện như
vậy có nhiều khả năng dẫn đến những quyết định sản xuất và lưu thông sai
lầm, khơng có hiệu quả. Đặc biệt là thị trường vốn hoặc là còn thiếu hoặc là

21


×