Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.72 KB, 142 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
***



NGUYỄN THỊ THANH HẢI




KHẢ NĂNG TIẾP CẬN, SỬ DỤNG CÁC DỊCH VỤ
TÀI CHÍNH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC
DOANH

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ THÁI HÀ







HÀ NỘI - 2008



1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


DNNQD
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
ĐTMH
Đầu tư mạo hiểm
HTX
Hợp tác xã
IPO
Phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu
NDT
Nhân dân tệ
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTW
Ngân hàng trung ương
TCTD
Tổ chức tín dụng
TTCK
Thị trường chứng khoán
USD

Đô la Mỹ
VND
Việt Nam đồng
WB
Ngân hàng thế giới
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
XHCN
Xã hội chủ nghĩa




2
MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG
1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ VỀ KHẢ NĂNG
TIẾP CẬN, SỬ DỤNG CÁC DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
CỦA CÁC DNNQD
6
1.1
Khái quát về dịch vụ tài chính
6
1.1.1
Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ tài chính

6
1.1.2
Vai trò của các dịch vụ tài chính
12
1.2
Các yếu tố tác động đến khả năng tiếp cận, sử
dụng dịch vụ tài chính của các DNNQD
15
1.2.1
Các yếu tố về phía tổ chức cung cấp dịch vụ
15
1.2.2
Các yếu tố về phía doanh nghiệp sử dụng dịch vụ
19
1.2.3
Các yếu tố về môi trường pháp lý
20
1.3
Kinh nghiệm một số nƣớc trong việc nâng cao
khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính
của các doanh nghiệp và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam
23
1.3.1
Trung Quốc
23
1.3.2
Malaysia
26
1.3.3

Thái Lan
32
1.3.4
Một số bài học kinh nghiệm
33
CHƢƠNG
2:
THỰC TRẠNG TIẾP CẬN, SỬ DỤNG CÁC DỊCH
VỤ
TÀI CHÍNH CỦA CÁC DNNQD Ở VIỆT NAM
38
2.1
Thực trạng các dịch vụ tài chính ở Việt Nam
38
2.1.1
Dịch vụ ngân hàng
38



3
2.1.2
Dịch vụ bảo hiểm
51
2.1.3
Dịch vụ chứng khoán
72
2.1.4
Vài nét về quá trình hội nhập thị trường dịch vụ tài
chính ở Việt Nam

84
2.2
Năng lực của các DNNQD trong việc tiếp cận, sử
dụng các dịch vụ tài chính
90
2.2.1
Sự hiểu biết của DNNQD về các dịch vụ tài chính
90
2.2.2
Tiềm lực tài chính, chất lượng nguồn nhân lực và
công nghệ trong các DNNQD
96
2.2.3
Các rào cản đối với DNNQD trong việc tiếp cận, sử
dụng các dịch vụ tài chính
102
CHƢƠNG
3:

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ
NĂNG
TIẾP CẬN, SỬ DỤNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH CỦA
CÁC DNNQD Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
TỚI
106
3.1
Định hƣớng nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng
dịch vụ tài chính của DNNQD ở Việt Nam trong
thời gian tới
106

3.2
Hệ thống giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận,
sử dụng dịch vụ tài chính của DNNQD ở Việt
Nam trong thời gian tới
107
3.2.1
Nhóm giải pháp chung
107
3.2.2
Nhóm giải pháp riêng về phía doanh nghiệp
127

KẾT LUẬN
131

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHỤ LỤC




4




5
LỜI MỞ ĐẦU


1. SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Kể từ khi Luật doanh nghiệp được ban hành, khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh ở Việt Nam đã có sự phát triển nhanh chóng. Các DNNQD
đóng vai trò ngày càng quan trọng và trở thành động lực quan trọng thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển của các
DNNQD còn gặp không ít khó khăn, trong đó nổi lên vấn đề tiếp cận, sử dụng
dịch vụ tài chính của các DNNQD Việt Nam còn yếu và gặp một số rào cản
so với các DNNN.
Các dịch vụ tài chính có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các
hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung, DNNQD
nói riêng: cung cấp vốn, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính, phân tán và
giảm thiểu rủi ro… Vì vậy, khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính
còn hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của các DNNQD ở
Việt Nam. Điều này không chỉ có nguyên nhân từ phía các tổ chức cung cấp
dịch vụ, mà còn do những yếu kém trong hoạt động của các DNNQD và các
yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh. Do đó, việc nghiên cứu, khảo sát
nhằm đánh giá khả năng, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân, trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ tài
chính của các DNNQD là cần thiết và rất có ý nghĩa thực tiễn.
Việt Nam gia nhập WTO đã đem đến cơ hội hợp tác cho các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có DNNQD. Cơ hội
nhiều nhưng thách thức cũng nhiều, các DNNQD có khả năng vượt qua
những thách thức đó không khi mà các doanh nghiệp này còn gặp rất nhiều
khó khăn, đặc biệt là khó khăn trong việc tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài
chính? Câu hỏi này được tháo gỡ dần trong luận văn thạc sỹ: “Khả năng tiếp



6

cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh”.



7
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Đã có những nghiên cứu về các dịch vụ tài chính, nghiên cứu về hoạt
động của các DNNQD, cụ thể là:
Luận án tiến sỹ khoa học kinh tế của tác giả Nguyễn Xuân Sinh đề cập
đến “Vấn đề tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh”. Luận án
đã phân tích thực trạng khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ ngân hàng đối với
các DNNQD. Từ đó đi đến những giải pháp giúp các DNNQD tiếp cận, sử
dụng dịch vụ ngân hàng đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên hệ thống các giải pháp
mà luận án đưa ra chỉ đứng trên góc độ kinh tế, không mang tính chất kinh tế
chính trị. Ngoài ra sự phát triển của các DNNQD không chỉ phụ thuộc vào
dịch vụ ngân hàng mà còn phụ thuộc các dịch vụ khác như dịch vụ bảo hiểm,
dịch vụ chứng khoán. Do đó, khi nghiên cứu một loại hình dịch vụ ngân hàng,
hiệu quả đưa lại cho các DNNQD là chưa cao.
Khoảng thời gian mà luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Xuân Sinh
nghiên cứu là từ năm 2000 – 2004 nên số liệu đã không còn cập nhật với tình
hình thực tế hiện nay. Đặc biệt, sự kiện Việt Nam chính thức ra nhập WTO đã
đem đến nhiều cơ hội và thách thức cho toàn bộ nền kinh tế nói chung, trong
đó bao gồm cả các DNNQD. Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Xuân Sinh
được nghiên cứu trước thời điểm này nên chưa đề cập đến sự kiện có ý nghĩa
quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong nền kinh tế của Việt Nam.
Nền kinh tế càng phát triển thì những rủi ro tiềm tàng đối với các doanh
nghiệp càng cao, đặc biệt là những DNNQD. Do đó, các doanh nghiệp này
ngày càng quan tâm hơn đến biện pháp phòng tránh rủi ro, một trong những
biện pháp hữu hiệu là mua bảo hiểm.

Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Huyền “Những giải pháp chủ
yếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả dịch vụ bảo hiểm đối với các
DNNQD”nghiên cứu dịch vụ bảo hiểm đứng trên góc độ các công ty bảo



8
hiểm tác động đến các doanh nghiệp chứ không quan tâm đến việc các
DNNQD tiếp cận, sử dụng dịch vụ bảo hiểm như thế nào. Giống như luận án
tiến sỹ trên, luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Huyền cũng chỉ mới đề
cập đến một loại dịch vụ, đó là bảo hiểm, hiệu quả do vậy cũng chưa cao đối
với các DNNQD. Đồng thời, trong số các giải pháp tác giả đưa ra, nhóm giải
pháp mang tính chất kinh tế chính trị cũng chưa được đề cập đến.
Bên cạnh ngân hàng và bảo hiểm, chứng khoán là dịch vụ khá mới mẻ,
được rất nhiều doanh nghiệp quan tâm và DNNQD cũng không phải ngoại lệ.
Vì vậy, bên cạnh việc nghiên cứu dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, luận văn thạc
sỹ của tôi còn đề cập đến dịch vụ chứng khoán. Khi nghiên cứu đồng bộ cả ba
loại hình dịch vụ này chắc chắn hiệu quả đem lại sẽ cao hơn rất nhiều. Một
điểm cần nhấn mạnh trong luận văn thạc sỹ này, là một học viên chuyên
ngành kinh tế chính trị , tôi rất quan tâm đến những vấn đề mang tính chất
kinh tế chính trị: hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách, cơ quan quản lý nhà
nước…

3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
 Mục tiêu nghiên cứu:
Từ những vấn đề lý luận chung về dịch vụ tài chính cho các DNNQD,
luận văn phân tích thực trạng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các
DNNQD ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đưa ra đưa ra quan điểm và giải pháp
giúp các DNNQD tiếp cận, sử dụng dịch vụ tài chính đạt hiệu quả cao.
 Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Làm rõ khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các
DNNQD ở Việt Nam hiện nay.
- Nhận diện các yếu tố hạn chế khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài
chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay.



9
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng các
dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
 Về mặt không gian:
Đối tượng nghiên cứu là khả năng tiếp cận, sử dụng một số dịch vụ tài
chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay. Luận văn tập trung nghiên cứu
các loại hình dịch vụ tài chính sau: Dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm,
dịch vụ chứng khoán
 Về mặt thời gian:
Luận văn nghiên cứu thực trạng năng lực tiếp cận, sử dụng các dịch vụ
ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ chứng khoán của các DNNQD từ năm
2000 đến nay.

5. CÁCH TIẾP CÂN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Cách tiếp cận: so sánh, hệ thống, cấu trúc…
 Phƣơng pháp nghiên cứu:
Ngoài các phương pháp truyền thống, luận văn có sử dụng kết quả của
một số chương trình khảo sát có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ tài chính.

6. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Nêu bật được cơ sở lý luận và thực tế về khả năng tiếp cận, sử dụng các
dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay.

- Phân tích được các yếu tố hạn chế khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch
vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao khả năng tiếp cận,
sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam trong thời gian
tới.



10




11
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài các phần: danh mục các từ viết tắt, mục lục, lời mở đầu, kết luận,
tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tế về khả năng tiếp cận, sử dụng các
dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các
DNNQD ở Việt Nam.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng
dịch vụ tài chính của các DNNQD trong thời gian tới.




12
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ VỀ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN,

SỬ DỤNG CÁC DỊCH VỤ TÀI CHÍNH CỦA CÁC DNNQD

1.1. KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ tài chính
Dịch vụ tài chính là một khái niệm tương đối mới được WTO đưa ra
nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại dịch vụ trên toàn cầu. Là một khái niệm
mới, nhưng khái niệm về dịch vụ tài chính đã được nghiên cứu khá nhiều. Do
tính chất quan trọng của dịch vụ tài chính đối với phát triển kinh tế, nhất là
trong bối cảnh mở cửa và hội nhập hiện nay, cần phải có cách hiểu chung và
thống nhất để thuận tiện cho việc phát triển lĩnh vực này tại mỗi nước và trên
toàn thế giới. Chính vì vậy WTO đã thống nhất đưa ra khái niệm về dịch vụ
tài chính nhằm hình thành các quy tắc ứng xử giữa các nước thành viên WTO
trong hoạt động thương mại dịch vụ như sau:
Một dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được
một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi
dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và
dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm).
Khái niệm trên được WTO đưa ra năm 1995 trong GATS nhằm từng
bước tự do hoá thương mại về dịch vụ. Theo GATS dịch vụ tài chính bao
gồm:
1.Bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ
bảo hiểm khác;



13
2.Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác, kể cả các dịch vụ
liên quan đến chứng khoán, cung cấp thông tin tài chính và quản lý tài sản.
Theo quan niệm trên của WTO, các loại dịch vụ tài chính được chia
thành các loại cơ bản sau:

- Dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác, bao gồm: Dịch vụ tiết
kiệm (tiền gửi tiết kiệm, tài khoản tiết kiệm, tín phiếu, trái phiếu); Cho vay
(tín dụng, thuê mua tài chính, cầm cố thế chấp, cho vay ký quỹ, bảo lãnh
thanh toán, chiết khấu giấy tờ có giá); Thanh toán (thanh toán, chuyển tiền,
thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, séc du lịch và hối phiếu…); Giao dịch (thị trường
tiền tệ, ngoại hối); Môi giới và đầu tư (môi giới đầu tư chứng khoán…); Tư
vấn tài chính.
- Dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm bao gồm:
Các loại hình bảo hiểm (bao gồm cả đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm) về trách
nhiệm dân sự, tài sản, con người…; Sử dụng quỹ bảo hiểm (đầu tư nguồn vốn
bảo hiểm dưới các hình thức khác nhau như đầu tư chứng khoán, góp vốn…)
và các dịch vụ phụ trợ liên quan đến bảo hiểm như dịch vụ tư vấn, dịch vụ
đánh giá xác suất rủi ro, khiếu nại, đại lý bảo hiểm…
Bên cạnh các loại dịch vụ tài chính nêu trên, có một số loại dịch vụ
kinh doanh có liên quan chặt chẽ và mật thiết đến dịch vụ tài chính, đó là dịch
vụ kế toán. Dịch vụ kế toán bao gồm các loại hình dịch vụ cơ bản như tư vấn
thuế, tư vấn kế toán và kiểm toán… Quá trình hoạt dộng của các dịch vụ kế
toán, kiểm toán diễn ra song song và có mối quan hệ chặt chẽ với các dịch vụ
tài chính. Do vậy người ta xếp các loại dịch vụ này vào loại hình dịch vụ tài
chính.



14
Ở Việt Nam hiện nay, các dịch vụ tài chính bao gồm: dịch vụ ngân
hàng, dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ chứng khoán. (Dịch vụ kế toán không đề
cập đến trong luận văn này )
1.1.1.1. Dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng là loại hình dịch vụ tài chính xuất hiện sớm nhất và
đa dạng nhất. Ngân hàng là tổ chức tạo lập và cung ứng một số loại hình dịch

vụ cho các chủ thể trong nền kinh tế. Trong các loại dịch vụ ngân hàng, bên
cạnh một số loại hình dịch vụ truyền thống, gần đây, đã xuất hiện một số loại
hình dịch vụ mới.
Các loại hình dịch vụ ngân hàng bao gồm:
Nhận tiền gửi: Các ngân hàng nhận các khoản tiết kiệm của khách
hàng, dưới dạng quĩ sinh lời được gửi tại ngân hàng với những thời hạn và lãi
suất khác nhau.
Cung cấp các tài khoản giao dịch: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng
dịch vụ mở tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người mở tài khoản viết séc
thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ.
Quản lý tiền mặt: Ngân hàng cung ứng dịch vụ cho các công ty kinh
doanh trong việc quản lý các khoản thu và chi, tiến hành việc đầu tư phần
thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn
đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Trao đổi ngoại tệ (dịch vụ ngoại hối): Đây là loại hình dịch vụ ngân
hàng xuất hiện sớm nhất.
Dịch vụ về tín dụng: Đây là loại hình dịch vụ rất đa dạng, bao gồm các
loại hình cơ bản như chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại, cho vay
tài trợ dự án, cho vay tiêu dùng…



15
Dịch vụ uỷ thác: Các ngân hàng thực hiện việc quản lý tài sản và quản
lý hoạt động tài chính cho các cá nhân và doanh nghiệp.
Cho thuê tài chính: Đây là dịch vụ khá phổ biến, ngân hàng cho khách
hàng là doanh nghiệp lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua
hợp đồng thuê mua, trong đó, ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê.
Khách hàng phải trả tiền thuê thiết bị, chịu chi sửa chữa và thuế.
Tư vấn tài chính: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng dịch vụ tư vấn

về tiết kiệm và đầu tư.
Bán các dịch vụ bảo hiểm: Các ngân hàng thực hiện việc bán bảo hiểm
tín dụng cho khách hàng nhằm đảm bảo việc hoàn trả của khách hàng khi họ
rơi vào tình trạng không thể trả được nợ.
Môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng của
họ cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoản khác mà không
cần phải thông qua các nhà môi giới chứng khoán khác.
Dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp: Hợp đồng trợ cấp là kế hoạch tiết
kiệm dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách
hàng bắt đầu tư một ngày nhất định trong tương lai (ví dụ ngày nghỉ hưu).
Dịch vụ qũy tương hỗ chính là việc cung cấp các chương trình đầu tư một
cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu hay chứng khoán
phù hợp với mục tiêu của quỹ (tối đa hoá thu nhập hoặc tăng giá trị của vốn).
1.1.1.2.Dịch vụ bảo hiểm
Theo các phân ngành về dịch vụ của WTO, dịch vụ bảo hiểm và liên
quan đến bảo hiểm bao gồm:
- Bảo hiểm nhân thọ, tai nạn, và sức khoẻ;
- Bảo hiểm phi nhân thọ;



16
- Tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm;
- Dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (bao gồm các dịchvụ môi giới và đại lý).
Về các loại hình dịch vụ bảo hiểm, có thể phân chia thành bảo hiểm
nhân thọ và phi nhân thọ:
Bảo hiểm nhân thọ: là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người
được bảo hiểm sống hoặc chết, bao gồm các loại hình:
-Bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được
bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm

phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn
sống đến thời hạn thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo
hiểm chết trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ và
bảo hiểm tử kỳ.
- Bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được
bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời của người đó.
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp
người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó doanh
nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo
thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Bảo hiểm phi nhân thọ: là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm
dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ.



17
1.1.1.3.Dịch vụ chứng khoán
Khi nói đến hoạt động của thị trường dịch vụ chứng khoán, người ta đề
cập đến TTCK và nhất là vai trò của các định chế tài chính trung gian tham
gia hoạt động kinh doanh trên TTCK. Các định chế này có thể là các công ty
môi giới và kinh doanh chứng khoán giữ vai trò cầu nối trung gian giữa bên
cầu vốn và bên cho vay vốn, tham gia vào quá trình huy động các nguồn lực
tài chính trên thị trường tài chính để đáp ứng các nhu cầu về tài trợ cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp và các tổ chức Chính phủ.
Dịch vụ trên thị trƣờng sơ cấp
Bảo lãnh phát hành: Bảo lãnh phát hành là hoạt động hỗ trợ cho công
ty phát hành hoặc chủ sở hữu chứng khoán trong việc phân phối chứng khoán

thông qua thoả thuận mua đến bán lại.
Đại lý phân phối chứng khoán cho các tổ chức phát hành: Khi các định
chế tài chính nhận làm đại lý phát hành cổ phiếu cho doanh nghiệp, họ sẽ bán
cổ phiếu phát hành theo giá định sẵn và hưởng hoa hồng phát hành theo
doanh số bán.
Dịch vụ trên thị trƣờng thứ cấp
Môi giới chứng khoán: Môi giới chứng khoán ở đây được hiểu theo
nghĩa rộng là hoạt động thực hiện các trung gian hoặc đại diện mua hoặc bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
Tư vấn đầu tư chứng khoán: Dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán là hoạt
động tư vấn liên quan đến lĩnh vực đầu tư chứng khoán; hoặc công bố và phát
hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán.
Dịch vụ ngân quỹ: Ngân hàng hay công ty tài chính sẽ mở cho công ty
tài khoản để theo dõi việc bán cổ phần cho công chúng. Với nghiệp vụ chuyên



18
môn của mình, các ngân hàng, công ty tài chính sẽ làm cho việc bù trừ và
thanh toán cổ phiếu được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả hơn.
Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán: Dịch vụ quản lý danh mục đầu
tư chứng khoán là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua,
bán và giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng theo hợp đồng bằng
văn bản với khách hàng. Công ty phải nghiêm ngặt tách rời hoạt động này với
hoạt động tự doanh và hoạt động môi giới để bảo đảm tránh mâu thuẫn về lợi
ích.
Lưu ký và đăng ký chứng khoán: Dịch vụ lưu ký chứng khoán là việc
lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện
các quyền của mình đối với chứng khoán, nhằm tránh rủi ro, hư hỏng, mất
mát, giả tạo… Dịch vụ dăng ký chứng khoán là việc ghi nhận quyền sở hữu,

các quyền và nghĩa vụ liên quan của người nắm giữ chứng khoán bằng một hệ
thống thông tin lưu giữ trong các tài khoản lưu ký chứng khoán.
1.1.2.Vai trò của các dịch vụ tài chính
1.1.2.1.Thúc đẩy nâng cao tiết kiệm, tập trung và đầu tư vốn
Đây là vai trò cơ bản, quan trọng nhất của thị trường dịch vụ tài chính
quốc gia. Với sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính, thông qua hàng
loạt các dịch vụ tài chính đa dạng với rất nhiều các sản phẩm dịch vụ tài
chính, mọi nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi đều được đưa vào tiết kiệm dưới
các hình thức khác nhau như đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, gửi tiết kiệm… Nói
cách khác, thị trường dịch vụ tài chính đã góp phần thúc đẩy hoạt động tiết
kiệm dưới mọi hình thức của các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội;
đồng thời các nguồn vốn nhỏ lẻ trong nền kinh tế được tích tụ, tập trung thành
những quỹ tài chính lớn phục vụ nhu cầu đầu tư lớn, dài hạn trong nền kinh
tế.



19
Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính còn tạo điều
kiện thuận lợi cho các chủ doanh nghiệp, doanh nhân… dễ dàng và nhanh
chóng tìm được nguồn tài chính với chi phí và chất lượng phù hợp nhu cầu
đầu tư sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài nguồn vốn của chủ sở hữu, vay
ngân hàng truyền thống, còn có thể huy đông vốn qua thị trường chứng
khoán, huy động từ các tổ chức bảo hiểm… Chính vì vậy hoạt động đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế được đẩy mạnh nhờ yếu tố về
vốn thuận lợi hơn. Việc mọi nguồn lực tài chính luôn được vận động thông
qua các dịch vụ tài chính khác nhau làm cho vòng quay của vốn được tăng
lên, nói cách khác là khả năng cung ứng về vốn cho đầu tư trong nền kinh tế
tăng lên.
1.1.2.2. Phân tán và giảm thiểu rủi ro

Với sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính, hàng loạt các loại
dịch vụ tài chính khác nhau đã và đang hình thành, phát triển. Dịch vụ tài
chính phong phú cho phép đa dạng hoá các kênh dẫn nguồn tiết kiệm đến đầu
tư, giúp giảm thiểu rủi ro. Ví dụ, đối với các cá nhân có tiền vốn tạm thời
nhàn rỗi, thay vì chỉ có thể gửi tiết kiệm ngân hàng, nhờ sự phát triển của thị
trường chứng khoán, họ có thể tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán
dưới nhiều hình thức như đầu tư trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh
nghiệp, cổ phiếu, tham gia đầu tư vào hệ thống các quỹ đầu tư…
Như vậy khi có một số rủi ro xảy ra đối với một số loại dịch vụ tài
chính nhất định (như một ngân hàng bị phá sản), các cá nhân này không bao
giờ bị mất vốn hoàn toàn mà chỉ bị thiệt hại một phần.
Dịch vụ bảo hiểm ra đời và tồn tại có thể nói rằng là để đáp ứng những
hậu quả tài chính của một số rủi ro nhất định, đem lại cảm giác yên tâm cho
những cá nhân hay tổ chức sử dụng dịch vụ bảo hiểm. Điều này không những



20
quan trọng đối với những cá nhân khi họ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm xe cộ,
nhà cửa và tài sản của mình, mà còn có tầm quan trọng trong hoạt động của
các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại.
Mua bảo hiểm cho phép chủ doanh nghiệp ít nhất cũng là chuyển giao
một số rủi ro trong kinh doanh sang công ty bảo hiểm. Bảo hiểm cũng có vai
trò giống như một động lực thúc đẩy hoạt động của các ngành kinh doanh
đang tồn tại. Điều này được thực hiện thông qua việc cung cấp vốn đầu tư cho
sản xuất, kinh doanh từ các quỹ mà đáng ra phải được giữ lại làm dự phòng
cho những tổn thất trong tương lai. Bảo hiểm không chỉ quan tâm đến việc
giảm bớt tần số mức độ nghiêm trọng của tổn thất của doanh nghiệp, tránh
cho doanh nghiệp không bị rơi vào phá sản mà còn góp phần làm giảm bớt
lãng phí kinh tế sau mỗi một tổn thất.




21
1.1.2.3.Nâng cao hiệu quả công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế của
Nhà nước
Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, vấn đề thiết lập
môi trường và các công cụ cần thiết để Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền
kinh tế, đảm bảo điều kiện để thực hiện chủ trương “Phát triển nền kinh tế
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng
XHCN” là rất quan trọng. Đây là một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo
cho Nhà nước có thể thực hiện tốt vai trò và chức năng quản lý, điều tiết và
định hướng đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Thông qua môi
trường là thị trường dịch vụ tài chính mà trên đó cung cấp các dịch vụ tài
chính… Nhà nước thực hiện chức năng quản lý và định hướng sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế - xã hội một cách gián tiếp trên tầm vĩ mô.

1.2.CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN, SỬ
DỤNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH CỦA CÁC DNNQD
1.2.1.Các yếu tố về phía tổ chức cung cấp dịch vụ
Các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính là một phần tất yếu của thị
trường dịch vụ tài chính – bên cung hàng hoá dịch vụ. Cũng giống như trên
thị trường hàng hoá thông thường, trên thị trường dịch vụ tài chính có rất
nhiều nhà cung cấp cho dịch vụ bao gồm các ngân hàng thương mại, công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty chứng khoán, công ty đầu tư,
công ty tư vấn, công ty bảo hiểm, công ty môi giới bảo hiểm…
Đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính, các yếu tố chính tác
động đến khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính của các doanh
nghiệp nói chung, doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm số lượng nhà




22
cung cấp dịch vụ, sự đa dạng và chất lượng dịch vụ, phương thức cung cấp
dịch vụ…
Thứ nhất, số lượng tổ chức cung cấp dịch vụ
Số lượng tổ chức cung cấp nhiều hay ít cho biết một phần về khả năng
cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Số lượng các nhà cung cấp tăng lên đồng
nghĩa với việc tăng cạnh tranh, nhờ đó tăng chất lượng phục vụ và hiệu quả
hoạt động.
Đặc biệt, với sự xuất hiện của các tổ chức cung cấp dịch vụ có tiềm lực
tài chính, công nghệ… mạnh; có hệ thống mạng lưới chi nhánh, đại diện rộng
khắp thì khả năng cung ứng sản phẩm dịch vụ cũng lớn hơn rất nhiều. Nhờ
vậy, khách hàng có thể dễ dàng hơn khi tiếp cận với dịch vụ, đồng thời việc
sử dụng dịch vụ cũng sẽ hiệu quả hơn do chi phí sử dụng dịch vụ có điều kiện
giảm xuống.
Bên cạnh đó, khi số lượng tổ chức cung cấp dịch vụ tăng lên cũng có
nghĩa là cạnh tranh giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ tăng lên, kết quả là các
điều kiện về tiếp cận và sử dụng dịch vụ của khách hàng sẽ trở nên dễ dàng
hơn và hiệu quả hơn. Bời vì, để chiến thắng trong cạnh tranh, các tổ chức
cung cấp dịch vụ phải tăng cường tiếp cận và thu hút khách hàng như tiếp thụ,
giới thiệu sản phẩm trực tiếp đến khách hàng…; nâng cao chất lượng và giảm
chi phí sử dụng dịch vụ cho khách hàng ở mức có thể chấp nhận được… Ví
dụ, đối với dịch vụ bảo hiểm, khi các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo
hiểm nước ngoài được phép thành lập ở Việt Nam, bên cạnh các chương trình
quảng cáo, tiếp thị về sản phẩm bảo hiểm, hạ phí bảo hiểm được xem là một
“vũ khí” cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Khác với các loại hình dịch vụ khác, trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
tài chính, số lượng các nhà cung cấp ảnh hưởng tới chất lượng phục vụ và tiếp




23
đến là sự an toàn của chính các doanh nghiệp, cao hơn nữa nó có thể ảnh
hưởng tới toàn bộ hệ thống. Do đó, khi có sự đánh đổi giữa hiệu quả và an
toàn thì việc cân nhắc số lượng các tổ chức cung cấp dịch vụ là vấn đề rất
quan trọng. Trong lĩnh vực ngân hàng, khi xuất hiện nhiều các NHTM và
TCTD thì người được hưởng lợi là các khách hàng, vì lúc này các NHTM và
TCTD phải cạnh tranh với nhau gay gắt hơn. Kết quả của quá trình cạnh tranh
giành giật khách hàng là lãi suất huy động vốn tăng, lãi suất cho vay giảm, có
thể hiểu sâu hơn là lợi nhuận của các NHTM và TCTD giảm xuống trong khi
chi phí trang trải các khoản tiền lương nhân viên, tiề thuê mặt bằngkinh
doanh, tiền điện, nước, điện thoại… vẫn không hề thay đổi, thậm chí còn tăng
lên. Khi lợi nhuận thu được ít, thị trường ổn định thì không có gì cần bàn đến,
nhưng trong nền kinh tế thị trường sôi động mọi thứ đều thay đổi không
ngừng, và chỉ cần một biến động tiêu cực dù rất nhỏ cũng sẽ khiến các NHTM
và TCTD không thể chống đỡ, hậu quả là họ có thể bị phá sản. Sự phá sản của
một NHTM hoặc một TCTD không chỉ ảnh hưởng tới các khách hàng có
quan hệ với họ mà còn ảnh hưởng tới rất nhiều các NHTM và TCTD khác,
tức là sự tác động này mang tính hệ thống. Điều này lý giải vì sao Chính phủ
không cho phép các NHTM và các TCTD được thành lập ồ ạt.
Nói tóm lại, khi số lượng tổ chức cung cấp dịch vụ tăng lên, để tiếp tục
phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng tăng, các tổ chức cung cấp
dịch vụ một mặt chủ động tiếp cận khách hàng, mặt khác tạo mọi điều kiện
cho khách hàng sử dụng dịch vụ một cách hiệu quả hơn.
Thứ hai, chất lượng và sự đa dạng của dịch vụ
Giống như hàng hoá thông thường khác, chất lượng dịch vụ tài chính
có tác động lớn đến hiệu quả sử dụng dịch vụ tài chính. Chẳng hạn đối với
dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, chất lượng dịch vụ sẽ góp phần




24
giảm chi phí huy động vốn cho doanh nghiệp, phát hành thành công và do vậy
đảm bảo kế hoạch sử dụng vốn đầu tư sau này của doanh nghiệp.
Chất lượng dịch vụ được đảm bảo sẽ góp phần kích thích khách hàng
tiếp cận và sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, không giống như hàng hoá thông
thường, rất khó đánh giá chất lượng của dịch vụ là tốt hay chưa tốt. Đánh giá
chất lượng dịch vụ tài chính chủ yếu được thực hiện thông qua đánh giá mức
độ thoả mãn của khách hàng và hiệu quả sử dụng dịch vụ của khách hàng.
Cũng với yếu tố chất lượng dịch vụ, sự đa dạng của các loại dịch vụ
cũng là một yếu tố góp phần nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ
tài chính của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phát triển ở nhiều mức độ
khác nhau, kinh doanh trong nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau nên nhu
cầu/yêu cầu về sản phẩm dịch vụ cũng có sự khác nhau. Sự đa dạng không chỉ
được thể hiện trong cùng một loại hình dịch vụ, như trong dịch vụ bảo hiểm
bao gồm rất nhiều nghiệp vụ bảo hiểm: bảo hiểm hàng không, bảo hiểm xe cơ
giới, bảo hiểm cháy nổ và rủi ro mọi tài sản, bảo hiểm nông nghiệp… Sự đa
dạng còn thể hiện trong các loại dịch vụ thay thế nhau: TTCK là nơi huy động
vốn dài hạn còn NHTM thường cung cấp nguồn vốn ngắn hạn. Do đó, khi các
doanh nghiệp thiếu vốn ngắn hạn sẽ tìm đến NHTM, còn khi cần vốn dài hạn
họ sẽ tìm đến TTCK. Hai loại dịch vụ này bổ sung cho nhau góp phần nâng
cao khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ tài chính cho các doanh nghiệp.
Thứ ba, phương thức tiếp thị và cung cấp loại dịch vụ
Cuối cùng, có nhiều con đường để tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài
chính. Đứng về phía tổ chức cung cấp dịch có thể bao gồm: các chương trình
quảng cáo tiếp thị trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí,
truyền hình, thông qua tờ rơi, trực tiếp tiếp xúc với khách hàng ; cung cấp

×