Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.79 MB, 144 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
***

HOÀNG THANH TÙNG


KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Chuyên ngành:
Mã số:




Hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Trí Long










hµ néi - 2007
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 3
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 3
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
6. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN 4
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN 4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM
PHÁT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 5
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT 5
1.1.1. LẠM PHÁT, PHƯƠNG PHÁP TÍNH LẠM PHÁT VÀ PHÂN LOẠI LẠM
PHÁT 5
1.1.1.1. GIÁ CẢ VÀ LẠM PHÁT 5
1.1.1.2. PHƯƠNG PHÁP TÍNH LẠM PHÁT 6
1.1.1.3. PHÂN LOẠI LẠM PHÁT 8
1.1.2. QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TRƯỜNG PHÁI VỀ LẠM PHÁT 9
1.1.2.1. QUAN ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI LẠM PHÁT CẦU KÉO VÀ CHI PHÍ
ĐẨY 9
1.1.2.2. QUAN ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI CƠ CẤU 11

1.1.2.3. QUAN ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI TIỀN TỆ 12
1.2. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG 15
1.2.1. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐỐI VỚI KINH TẾ, XÃ HỘI 15
1.2.2. TÁC ĐỘNG CỦA GIẢM PHÁT ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ, XÃ
HỘI 17
1.2.3. MỤC TIÊU CỦA KIỂM SOÁT LẠM PHÁT 19
1.3. NHỮNG GIẢI PHÁP PHỔ BIẾN NHẰM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT THƯỜNG ĐƯỢC ÁP
DỤNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 20
1.3.1. ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 21
1.3.2. CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH 28
1.3.3. ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH VỀ SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI 30
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

1.3.4. CẢI TỔ DOANH NGHIỆP 32
1.3.5. ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THU NHẬP 33
CHƯƠNG 2
DIỄN BIẾN VỀ LẠM PHÁT, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP
ĐÃ ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1998 ĐẾN NAY 35
2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM 35
2.1.1. GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1990 35
2.1.2. GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1995 35
2.1.3. GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000 36
2.1.4. GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY 37
2.2. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1998 ĐẾN NAY 38
2.2.1. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG NĂM 1998 39

2.2.1.1. DIỄN BIẾN CỦA LẠM PHÁT TRONG NĂM 1998 39
2.2.1.2. NGUYÊN NHÂN 41
2.2.2. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1999- 2003 41
2.2.2.1. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1999-2003 42
2.2.2.2. NGUYÊN NHÂN 47
2.2.3. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004 ĐẾN NAY 49
2.2.3.1. DIỄN BIẾN VÀ NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT NĂM 2004 49
2.2.3.2. DIỄN BIẾN VÀ NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT NĂM 2005 53
2.2.3.3. DIỄN BIẾN VÀ NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT NĂM 2006 58
2.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐÃ ÁP DỤNG NHẰM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT
NAM TỪ NĂM 1998 ĐẾN NAY 67
2.3.1. KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TRONG NĂM 1998 67
2.3.2. KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TRONG GIAI ĐOẠN 1999-2003 71
2.3.2.1. THỰC HIỆN TRONG GIAI ĐOẠN 1999-2003 71
2.3.2.2. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG GIAI ĐOẠN 1999 - 2003 73
2.3.2.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ. 74
2.3.3. KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TỪ NĂM 2004 ĐẾN NAY 78
2.3.3.1. KIỂM SOÁT LẠM PHÁT NĂM 2004 78
2.3.3.2. KIỂM SOÁT LẠM PHÁT NĂM 2005 81
2.3.3.3. KIỂM SOÁT LẠM PHÁT NĂM 2006 86
2.3.3.4. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT ĐẦU NĂM 2007 92
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN TỚI 96
3.1. MỘT SỐ KINH NGHIỆM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TRÊN THẾ GIỚI 96

3.1.1. KINH NGHIỆM TỪ TRUNG QUỐC 96
3.1.2. KINH NGHIỆM TỪ NGA 100
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NGẮN HẠN NHẰM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA 102
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở
NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI 104
3.3.1. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP Và CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ 104
3.3.1.1. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 105
3.3.1.2. ĐỔI MỚI CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 106
3.3.2. ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 109
3.3.3. ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI 110
3.3.4. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
TÀI KHÓA 112
3.3.4.1. VỀ CHI TIÊU NGÂN SÁCH 112
3.3.4.2. VỀ THU NGÂN SÁCH 113
3.3.4.3. CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH 115
3.3.5. ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 115
3.3.5.1. CÁC CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN 116
3.3.5.2. CÁC CHÍNH SÁCH PHI THUẾ QUAN 117
3.3.6. CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG 118
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 121



Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AFTA Asian Fre Trade Area, Khu vực tự do thường mại ASEAN
CPI Consumer Price Index, chỉ số giá tiêu dùng
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
EUR Đồng tiền chung khối liên minh châu âu
FDI Fund Direct Investment. Vốn đầu tư trực tiếp
GDP Gross domestic Product, Tổng sảng phẩm quốc nội
NDT Đồng tiền Nhân dân tệ Trung quốc
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NSNN Ngân sách nhà nước
ODA Official Development Assistance, Viện trợ phát triển chính thức
RUP Đồng tiền Nga
SXKD Sản xuất kinh doanh
TCTD Tổ chức tín dụng
USD United State Dollar
WTO World Trade Organisation, Tổ chức thương mại thế giới
VND Đồng Việt Nam
XDCB Xây dựng cơ bản

Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

DANH SÁCH BẢNG


BẢNG 2.1. TỐC ĐỘ TĂNG CHỈ SỐ GIÁ MỘT SỐ MẶT HÀNG NĂM 1998 39

BẢNG 2.2. TỐC ĐỘ TĂNG CHỈ SỐ GIÁ MỘT SỐ MẶT HÀNG NĂM 1999 43
BẢNG 2.3. TỶ LỆ LẠM PHÁT CÁC THÁNG TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1999-2003 47
BẢNG 2.4. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG, CHỈ SỐ GIÁ VÀNG VÀ ĐÔ LA MỸ NĂM 2004 49
BẢNG 2.5. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG THÁNG 12 NĂM 2005 55
BẢNG 2.6. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG, CHỈ SỐ GIÁ VÀNG VÀ ĐÔ LA MỸ NĂM 2006 59
BẢNG 2.7. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 2004-2006 64
BẢNG 2.8. MỘT SỐ CHỈ TIÊU VĨ MÔ TRONG NĂM 1997 VÀ 1998 70
BẢNG 2.9. TỐC ĐỘ TĂNG TỔNG PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN – TỐC ĐỘ TĂNG GDP VÀ
TỶ LỆ LẠM PHÁT 72
BẢNG 2.10. LÃI SUẤT TIỀN GỬI VND VÀ LẠM PHÁT 1999- 2003 72
BẢNG 2.11. HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH CÚA CHÍNH PHỦ VÀ LẠM PHÁT 1999-2003 78
BẢNG 2.12. ĐIỀU CHỈNH THUẾ MỘT SỐ MẶT HÀNG, 2005-2006 88
BẢNG 2.13. ĐIỀU HÀNH CSTT CỦA NHNN 2005-2006 90
BẢNG 2.14. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG, GIÁ VÀNG VÀ ĐÔ LA MỸ THÁNG 3 NĂM 2007 94

Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT


DANH SÁCH BIỂU ĐỒ

BIỂU ĐỒ 2.1: TỶ LỆ LẠM PHÁT CÁC THÁNG NĂM 1998 40
BIỂU ĐỒ 2.2: TỐC ĐỘ TĂNG (GIẢM) LẠM PHÁT CÁC THÁNG NĂM 1999 44
BIỂU ĐỒ 2.3: GIÁ DẦU THÔ TRÊN SÀN GIAO DỊCH NĂNG LƯỢNG NYMEX NEW YORK 58
BIỂU ĐỒ 2.4: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VND/USD VÀ LẠM PHÁT TRONG NĂM 1998 68
BIỂU ĐỒ 2.5: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ LẠM PHÁT 1999-2003 74
BIỂU ĐỒ 2.6: TỐC ĐỘ TĂNG(%) CỦA XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU VÀ LẠM PHÁT 2004-2006 89


Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

MỞ ĐẦU

1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Lạm phát là một phạm trù kinh tế vĩ mô chứa đựng nội hàm phức tạp, là một
chỉ tiêu kinh tế cơ bản mà mọi quốc gia phải quan tâm trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội. Nói đến lạm phát, người ta thường liên tưởng ngay đến sự tăng giá đồng
loạt của hàng hoá đi kèm với sự mất giá của tiền tệ mà hậu quả của nó thường làm
rối loạn nền kinh tế, làm phức tạp xã hội và đôi khi còn ảnh hưởng sâu sắc đến tình
hình chính trị của một quốc gia. Trong nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường,
tình trạng mất cân đối giữa cung - cầu hàng hóa và cung - cầu tiền tệ sẽ là nguyên
nhân trực tiếp gây nên lạm phát, do vậy lạm phát luôn là mối đe doạ tiềm ẩn đối với
nền kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Khi nền kinh tế của một nước rơi vào tình trạng lạm phát tăng cao, quốc gia
này thường phải thực hiện một loạt chương trình ổn định kinh tế bằng việc cắt giảm
tiền lương, cố định tỷ giá hối đoái và thực hiện các chính sách như: tiền tệ chặt, tài
khoá chặt, phân phối thu nhập và cải tổ doanh nghiệp nhà nước Kết quả mà họ đạt
được là lạm phát giảm, nhưng song hành với nó là sự suy giảm của tổng cầu dẫn đến
suy giảm nền sản xuất trong nước. Mức đầu tư giảm đi kèm chính sách lãi suất cao
để gọi vốn đầu tư của các ngân hàng đã khuyến khích nợ đọng giữa các thành phần
kinh tế, chính điều này đã tạo áp lực ngược lại buộc hệ thống ngân hàng phải tái tài
trợ cho các khoản nợ này và một chu trình lạm phát mới lại bắt đầu. Từ đó ta hiểu
rằng nếu một quốc gia có được những giải pháp đồng bộ, linh hoạt sẽ cùng lúc kiểm
soát được lạm phát mà vẫn thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngược lại, nếu áp dụng
chính sách bất hợp lý thì có thể sẽ đẩy nền kinh tế chìm đắm trong khủng hoảng lạm
phát triền miên.

Trong khi lạm phát tăng cao ở một số quốc gia chịu ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính như khủng hoảng tài chính ở Châu Á (1997), Nga (1998),
Brazil (1999) và sự rối loạn về tài chính ở Mexico(1999), thì kinh tế Việt Nam lại rơi
vào tình trạng suy thoái và xảy ra hiện tượng giảm phát. Trước bối cảnh đó, chính
phủ Việt Nam đã áp dụng các biện pháp kích cầu bằng việc nới lỏng chính sách tiền
tệ và chính sách tài khoá. Điều tất yếu đã xẩy ra mang tính chu kỳ đó là lạm phát đã
quay trở lại Việt Nam vào năm 2004 và gây rất nhiều tranh cãi giữa các trường phái:
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

- Một số ý kiến cho rằng, lạm phát ở Việt Nam không do yếu tố tiền tệ mà là lạm
phát chi phí đẩy phát sinh từ sự tăng giá quốc tế, trường phái này ủng hộ quan
điểm tăng tiền vào lưu thông để giải quyết các vấn đề ách tắc của nền kinh tế.
- Một số ý kiến khác lại cho rằng lạm phát ở Việt Nam có nguyên nhân tiền tệ và
họ khuyến nghị nên áp dụng ngay các giải pháp thắt chặt tiền tệ, thắt chặt tài khoá
trước khi lạm phát không thể kiểm soát được.
- Bên cạnh đó, một số nhà kinh tế lại đưa ra khái niệm lạm phát cơ bản, họ cho
rằng khi loại bỏ các mặt hàng có tính nhạy cảm cao về giá như xăng dầu, lương
thực ra khỏi rổ hàng hoá thì lạm phát cơ bản ở Việt Nam chưa cao và chưa cần áp
dụng các biện pháp mạnh để kiềm chế lạm phát.
Từ các quan điểm trái ngược nhau đã dẫn đến những giải pháp rất khác nhau
trong việc kiểm soát lạm phát, điều đó cho thấy sự phức tạp và tính chất nghiêm
trọng của lạm phát,việc lựa chọn phương thuốc phù hợp nhất nào để chữa trị cho căn
bệnh lạm phát là hết sức cần thiết.
Ngoài ra, trong một vài năm gần đây, thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã
bắt đầu phát triển, nguồn vốn đầu tư mà nền kinh tế thu hút được qua kênh này ngày
càng gia tăng. Kinh nghiệm ở những nước phát triển cho thấy, thị trường chứng
khoán gắn liền và là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển

của nền kinh tế. Mọi biến cố xảy ra với thị trường chứng khoán thường tạo nên
những cơn sốc đối với các nhà đầu tư, và ngay lập tức kéo theo nó là hàng loạt những
phản ứng dây chuyền về quyết định đầu tư vốn cho nèn kinh tế. Nói cách khác, khi
thị trường chứng khoán biến động, nguồn vốn đầu tư thay đổi sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến nền kinh tế từ đó rất dễ gây lạm phát.
Bên cạnh đó, vấn đề có thể xem là quan trọng hàng đầu hiện nay là việc Việt
Nam gia nhập WTO, tham gia quá trình hội nhập quốc tế sẽ là một bước ngoặt lớn
giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Khi đã hội nhập với nền kinh tế thế
giới chúng ta sẽ phải đối mặt với những vấn đề mang tính toàn cầu, phải tự do hoá
theo quy định chung của toàn thế giới, chấp nhận xoá bỏ những bảo hộ trước đây đối
với nền sản xuất trong nước, buộc các thành phần kinh tế còn non yếu của chúng ta
phải bước chân vào cuộc cạnh tranh tự do khốc liệt mà các doanh nghiệp nước ngoài
sẽ tạo ra dưới áp lực nền kinh tế mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nguồn
vốn đầu tư vào Việt Nam sẽ tăng lên, những biến động trên thị trường tài chính sẽ
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

phức tạp hơn, đòi hỏi Chính phủ phải có những đổi mới trong vấn đề quản lý Tóm
lại, khi đã tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta sẽ phải đối mặt với những yếu
tố có thể ảnh hưởng không tốt đến kinh tế-xã hội như: rối loạn nền kinh tế, tỷ lệ thất
nghiệp cao, phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh và
một trong những tiềm ẩn thường trực mà chúng ta cần chú trọng là vấn đề lạm phát.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tôi nghĩ rằng việc nghiên cứu
lạm phát và các biện pháp kiểm soát lạm phát đã áp dụng ở Việt Nam là công việc rất
cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn để trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp kiểm soát
lạm phát phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Do vậy tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài
“Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam” nhằm góp một phần nhỏ bé của mình vào công
cuộc phát triển kinh tế của nước nhà.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trước đây đã có những Đề tài nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực kiểm soát
lạm phát, bởi lạm phát là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá sự phát triển của nền kinh
tế. Một số đề tài như: Bàn về kiềm chế lạm phát và phá giá đồng Việt Nam; Vấn đề
đổi mới chính sách Tài chính - Tiền tệ, kiểm soát lạm phát ở Việt Nam; Kiềm chế
lạm phát, những giải pháp đồng bộ; Những biện pháp xử lý lạm phát nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Tuy nhiên, việc Việt nam chính thức ra nhập WTO, chúng ta lại vừa tổ chức
thành công hội nghị APEC, hay thị trường chứng khoán của chúng ta đang phát triển
nóng vv chính là một số lý do chứng tỏ nền kinh tế đang có những tác nhân mới
ảnh hưởng đến diễn biến lạm phát trong những giai đoạn sắp tới. Do vậy, việc kế
thừa những nghiên cứu trước đây, kết hợp với những nghiên cứu mới về sự phát triển
của lạm phát trong giai đoạn hiện nay để từ đó tìm ra những giải pháp nhằm kiểm
soát lạm phát là một việc làm vô cùng cần thiết.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề ra một số giải pháp nhằm duy trì và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong
gian đoạn giai đoạn tới. Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
 Khái quát hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ giữa lạm phát
và quá trình phát triển của nền kinh tế để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết
cho Việt Nam.
 Tìm ra những căn nguyên cơ bản, phát hiện xu hướng phát triển của lạm phát
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

và sự ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế Việt Nam.
 Đề xuất các giải pháp phù hợp cho việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong
thời kỳ tới .
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Vấn đề lạm phát quan hệ tương tác với sự ổn định kinh tế ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: lạm phát ở Việt Nam, trong đó tập trung vào các giải
pháp kiểm chế lạm phát ở Việt Nam.
Đề tài tập trung phân tích vào chuỗi thời gian từ 1998 đến nay. Nguồn số liệu
được rút ra từ nhiều tài liệu đã xuất bản công khai trên thế giới và trong nước.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dựa trên phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp lô gíc và lịch sử, Phương pháp thống kê và Phương pháp so sánh,
Phương pháp phân tích và tổng hợp để giải quyết vấn đề.
6. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Phân tích nguồn gốc và những nguyên nhân gây ra lạm phát trong quá trình
phát triển kinh tế.
Chỉ rõ mối quan hệ giữa lạm phát với các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, cung
tiền, lãi suất, tỷ giá
Đề xuất một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương:
 Chương 1: Những lý luận cơ bản về lạm phát và kiểm soát lạm phát trong nền
kinh tế thị trường.
 Chương 2: Diễn biến về lạm phát, kiểm soát lạm phát và những biện pháp đã
áp dụng ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay.
 Chương 3: Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong giai
đoạn tới.
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT VÀ KIỂM
SOÁT LẠM PHÁT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT
1.1.1. Lạm phát, phƣơng pháp tính lạm phát và phân loại lạm phát
1.1.1.1. Giá cả và lạm phát
Sự tăng liên tục trong mức giá chung mà nguồn gốc phát sinh là từ các vấn đề
kinh tế kinh niên chẳng hạn như thâm hụt ngân sách nặng nề trong nhiều năm, mất
cân đối nghiêm trọng cơ cấu Việc tăng giá liên tục như vậy được gọi là lạm phát
(Sachs and Larrian, 1993) hay nói cách khác , lạm phát là sự giảm đi liên tục trong
sức mua của đồng tiền. Định nghĩa này mới chỉ nói tới hiện tượng mà không nêu
được nguồn gốc và ảnh hưởng của hiện tượng đó. Đi sâu nghiên cứu các học thuyết
về lạm phát, chúng ta mới thấy tính chất phức tạp của các nguyên nhân gây ra lạm
phát và ảnh hưởng của lạm phát, do vậy, định nghĩa nêu trên chỉ là một điểm khởi
đầu.
Như vậy, do sự giảm giá của đồng tiền có liên quan mật thiết đến lạm phát mà
đồng tiền hay tiền giấy lại là dấu hiệu và đại biểu của tiền vàng nên sự sụt giá tiền
giấy chính là sự giảm hàm lượng vàng trong một đơn vị tiền giấy. Cho dù hiện nay
tiền giấy được phát hành theo nhu cầu chi tiêu của Chính phủ (khác với chế độ bản vị
vàng là phát hành theo lượng vàng tồn tại trên thị trường) nhưng bản chất của tiền
giấy vẫn là dấu hiệu của tiền vàng bởi vì lượng tiền dù có tăng lên đến đâu nhưng nó
vẫn được quy ra tiền vàng theo tỷ lệ thích ứng trên thị trường.
Tuy nhiên, tiền giấy ngày nay có một số tính chất độc lập riêng và phải đảm
bảo đầy đủ chức năng của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đó là nhanh chóng,
thuận tiện. Thêm vào đó, yếu tố quyết định nhất tạo nhu cầu cao hay thấp về tiền
giấy chính là lợi tức của chính tiền giấy.
Hiện nay, việc đồng tiền (tiền giấy) sụt giá không chỉ đơn thuần do số lượng
tiền giấy phát hành vượt quá số lượng vàng cho phép trong lưu thông, mà còn do
nhiều nguyên nhân gián tiếp và trực tiếp khác. Các nguyên nhân gián tiếp có liên

quan đến nó: chính sách tài chính tiền tệ của nhà nước, các chủ thể kinh doanh, các
điều kiện quốc tế, các điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, các điều kiện anh
ninh chính trị, của một quốc gia Những nguyên nhân này đã gián tiếp làm cho đồng
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

tiền mất giá hoặc tăng giá, qua đó gián tiếp làm cho lạm phát tăng hoặc giảm trong
nền kinh tế. Còn nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến sự tăng hoặc giảm giá của
đồng tiền chính là quan hệ cung - cầu của đồng tiền. Thông qua quan hệ cung cầu,
lợi tức đồng tiền đã làm cho đồng tiền sụt giá (lạm phát tăng) hoặc tăng giá (lạm phát
giảm).
Trên thực tế, khi các tác nhân gián tiếp đã diễn ra nhưng tác nhân trực tiếp
chưa có thay đổi thì lạm phát vẫn chưa thể xảy ra, hay nói cách khác cho dù nhà
nước tác động rất mạnh đến những nguyên nhân gián tiếp nhưng quan hệ cung cầu
tiền tệ chưa bị tác động thì lạm phát vẫn chưa thể thay đổi được.
Như vậy bản chất của lạm phát chính là vấn đề tiền tệ mà nguyên nhân trực
tiếp ảnh hưởng lạm phát chính là quan hệ cung - cầu tiền tệ.
1.1.1.2. Phương pháp tính lạm phát
Chúng ta đã nêu khái niệm cơ bản về lạm phát. Trong nền kinh tế, có rất nhiều
loại giá cả, có loại giá tăng lên, có loại giá giảm đi và số còn lại không thay đổi. Với
một khối lượng các loại giá cả lớn và khác nhau như vậy, chúng ta cần có một cách
tính để thể hiện được tất cả các loại giá cả. Hầu hết các nhà kinh tế đều nhất trí sử
dụng tổng mức giá bình quân để phản ảnh xu hướng của các lại giá khác nhau.
Tuy nhiên, người ta còn có một số phương pháp tính tổng mức giá như chỉ số
giảm lạm phát GDP, chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI), chỉ số bán lẻ (RPI), chỉ số giá
của người sản xuất (PPI) và chỉ số giá hàng bán buôn (WPI).
- Chỉ số giảm lạm phát GDP là chỉ số giá phản ánh bình quân giá của tất cả các
hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nước. Chỉ số này được tính bằng tỷ lệ

giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế.
- Chỉ số hàng tiêu dùng (CPI) thường được xem như là phương pháp đo lường chi
phí của cuộc sống liên quan tới rổ hàng hoá và dịch vụ cụ thể được mua bởi
người tiêu dùng.
- Khác với chỉ số CPI, chỉ số giá người sản xuất (PPI) được tính toán dựa trên giá
một rổ hàng hoá đặc trưng được mua bởi các công ty.
- Bên cạnh các giá trị bình quân, các khía cạnh khác của lạm phát cũng cần được
nghiên cứu một cách thích đáng, đó là biên độ của lạm phát. Biên độ của lạm phát
là khoảng cách mà trong đó lạm phát dao động.
Ở Việt Nam, bắt đầu từ tháng 1 năm 1998, Tổng cục Thống kê chính thức
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

công bố chỉ số giá tiêu dùng CPI của toàn quốc tính theo phương pháp cải tiến:
- Chỉ số giá tiêu dùng chung của toàn quốc được tính trên cơ sở chỉ số giá tiêu
dùng của các tỉnh, thành phố trong cả nước.
- Chỉ số giá tiêu dùng của các tỉnh, thành phố được tính theo công thức
LASPARYE với quyền số cố định là cơ cấu chi tiêu hộ gia đình đa mục tiêu do
Tổng cục Thống kê tiến hành năm 1995. Danh mục mặt hàng đại diện thu thập
giá gồm 296 mặt hàng, được phân chia theo 10 nhóm tiêu dùng cấp I, 34 nhóm
cấp II và 86 nhóm cấp III, trong mỗi nhóm đều bao gồm cả hàng hoá và dịch vụ.
Giá tiêu dùng bình quân năm 1995 được dùng làm giá kỳ gốc cố định.
- Hàng tháng chỉ số giá tiêu dùng được công bố với 4 gốc so sánh:
 Kỳ gốc ( so với giá tiêu dùng bình quân năm 1995)
 Tháng trước (hàng tháng)
 Cùng tháng năm trước (sau 12 tháng)
 Tháng 12 năm trước (sau 1,2 , 11 tháng )
- Chỉ số giá tiêu dùng được tính theo công thức sau:






N
ti
ioio
N
ti
ioit
QP
QP
CPI

 Trong đó: P
it
- là giá hàng hoá sản phẩm i trong giai đoạn t
P
io
– là giá hàng hoá sản phẩm i trong giai đoạn cơ sở
Q
io
– là tổng lượng hàng hoá sản phẩm i (i=1 đến n)
 Trong giai đoạn cơ sở (rổ hàng hoá được ấn định đối với một năm cơ sở và Q
là trọng số, n là tổng sản phẩm).
 Cách tính chỉ số CPI không phải cộng các giá cả lại và chia cho tổng khối
lượng hàng hoá mà là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng của nó
trong nền kinh tế.
Trên thực tế, việc dùng chỉ số giá để đo lường lạm phát thường không được

chính xác, với nó luôn có khuynh hướng phóng đại lạm phát thực. Thứ nhất nó
không phản ánh đầy đủ sự cải thiện chất lượng sản phẩm. Thứ hai nó không phản
ánh sự cải tiến kỹ thuật sản xuất. Tác động của hai yếu tố trên được tính thêm vào giá
thành và thế là giá thành này được ghi vào chỉ số giá. Sự lệch lạc giữa lạm phát và
(1.1)
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

chỉ số giá này không phải không có tác hại. Bởi lẽ, khi công bố chỉ số giá cao (dự
kiến) sẽ khuyến khích dân chúng mua sắm ngay lúc công bố chỉ số giá chứ không
đợi khi giá lên mới mua. Khi giá cả hạ thì người tiên dùng sẽ ít tiêu xài hơn bởi lợi
tức cổ phần sẽ trội hơn lợi tức hàng hoá mang lại Do đó, Chính phủ cần phải nghiên
cứu và xác định chỉ số giá chuẩn xác với tình hình thực tiễn của nền kinh tế.
Mặc dù tính tỷ lệ lạm phát còn có vấn đề phải bàn nhưng hiện nay chúng ta
vẫn đang duy trì việc tính tỷ lệ lạm phát theo công thức sau:
1
1




t
tt
t
P
PP
L


Trong đó : L
t
: tỷ lệ lạm phát giai đoạn t
t: là giai đoạn tính lạm phát
P
t
: Tổng giá cả giai đoạn t
P
t-1
: Tổng giá cả giai đoạn t – 1
(t-1 và t là hai giai đoạn kế tiếp nhau)
Công thức trên có thể chuyển đổi thành
1
lnln


ttt
PPL

1.1.1.3. Phân loại lạm phát
Thông thường người ta căn cứ vào tốc độ lạm phát để chia ra làm 3 loại chính:
- Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát xảy ra với tốc độ gia tăng giá cả chậm, chỉ ở
mức một con số hay dưới 10%/năm. Đây là loại lạm phát phổ biến và tồn tại gần
như thường xuyên, một căn bệnh kinh niên cố hữu và đặc trưng ở hầu hết các nền
kinh tế thị trường trên thế giới. Trong điều kiện lạm phát vừa phải, giá cả tăng
chậm thường xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương, hoặc cao hơn một chút, do vậy
đồng tiền bị mất giá không lớn, điều kiện kinh doanh tương đối ổn định. Tác hại
của lạm phát ở đây là không đáng kể.
- Lạm phát phi mã : được nhận dạng khi mức tăng giá cả đạt tới “ngưỡng“ thường
là từ 2 đến 3 con số (20%, 100%, 200%, ) một năm. Lạm phát như vậy gây ảnh

hưởng đến tầng lớp dân cư nghèo và trung lưu. Việc kiểm soát lạm phát đòi hỏi
các biện pháp tài chính và tiền tệ mạnh, nếu không sẽ dẫn đến siêu lạm phát. Khi
lạm phát phi mã đã hình thành vững chắc, thì các hợp đồng kinh tế được ký kết
theo các chỉ số giá, hoặc theo một đồng ngoại tệ mạnh nào đó và do vậy đã gây
phức tạp cho việc tính toán hiệu quả của các nhà kinh doanh, lãi suất thực tế giảm
(1.2)
(1.3)
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

tới mức âm, thị trường tài chính tàn lụi, dân chúng đua nhau tích trữ hàng hoá,
vàng bạc và bất động sản vv
- Siêu lạm phát: Hiện tượng cực hiếm, chỉ xảy ra vào thời kỳ chiến tranh hay
chuyển đổi cơ chế kinh tế, khi đó tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã và
vô cùng không ổn định. Siêu lạm phát được xác định khi tỷ lệ lạm phát hàng
tháng vượt quá 50%. Đặc trưng đầu tiên của siêu lạm phát là sự phá vỡ hoàn toàn
hệ thống tài chính và tiền tệ. Với tỷ lệ lạm phát hàng tháng lên tới 3, 4 và 5 con
số. Trong thực tế, siêu lạm phát xảy ra thường gây ra một số hậu quả chung như
sau: thứ nhất, tốc độ lưu thông của tiền tệ tăng lên ghê gớm; thứ hai, giá cả tăng
nhanh và vô cùng không ổn định; thứ ba, tiền lương thực tế biến động rất lớn,
thường bị giảm mạnh; thứ tư, cùng với sự mất giá của tiền tệ, mọi người có tiền
đều bị tước đoạt, ai có tiền càng nhiều thị bị tước đoạt càng lớn; thứ năm, hầu hết
các yếu tố của thị trường đều bị biến dạng, bóp méo, hoặc bị thổi phồng, do vậy
các hoạt động kinh doanh rơi vào tình trạng rối loạn. Siêu lạm phát thật sự là một
tai hoạ. Các cuộc siêu lạm phát nổ ra điển hình ở Đức năm 1920-1923, hoặc sau
chiến tranh thế giới thứ hai ở Trung Quốc và Hunggary là một minh chứng cho
điều này.
1.1.2. Quan điểm của một số trƣờng phái về lạm phát

Lý thuyết lạm phát hiện đại hiện nay đang tồn tại cuộc tranh cãi về nguyên
nhân gây lạm phát. Một số nhà kinh tế thuộc trường phái Keynes, hay trường phái cơ
cấu hoặc trường phái tiền tệ đều đưa ra lý thuyết của riêng mình về nguyên nhân gây
ra lạm phát cụ thể:
1.1.2.1. Quan điểm của trường phái lạm phát cầu kéo và chi phí đẩy
Lạm phát cầu kéo: là do tổng cầu của xã hội tăng vượt quá năng lực cung cấp
của nền kinh tế dẫn đến giá cả nói chung tăng lên và phát sinh lạm phát.
Khi tổng cầu hàng hoá và dịch vụ có khả năng thanh toán lớn hơn tổng cung
hàng hoá và dịch vụ đã đẩy giá tăng lên để thiết lập một sự cân bằng mới trên thị
trường, trong đó tổng cung bằng tổng cầu. Lạm phát phụ thuộc vào độ co giãn của
giá cung hàng hoá và dịch vụ. Cung hàng hoá và dịch vụ có thể tăng nhanh do tăng
giá một chút nếu độ co giãn của giá là lớn. Một mặt, nếu các cơ sở sản xuất đang
hoạt động thấp hơn công suất hiện có và còn nhiều công suất sản xuất chưa được sử
dụng thì cung hàng hoá sẽ tăng nhờ tác động tăng cầu hàng hoá và có thể không gây
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

ra lạm phát. Mặt khác, nếu có sẵn ngoại tệ thì nhập khẩu sẽ tăng lên khi tổng cầu
hàng hoá tăng, do vậy cũng có thể không tạo ra tăng giá và cũng sẽ không gây ra lạm
phát. Như phân tích trên thì lạm phát do tổng cầu tăng lên chỉ trong trường hợp
nguồn ngoại tệ để nhập khẩu bị hạn chế, các năng lực sản xuất đã huy động hết làm
cho tổng cung không thể nào tăng lên để cân bằng được với tổng cầu ở mức giá cố
định, buộc giá cả phải tăng lên để tạo cân bằng mới cao hơn, tức là lạm phát đã xuất
hiện.
Lạm phát cầu kéo có thể được viết dưới phương trình sau:







GDP
P
PP
l
t
tt
t
*
)(
1
1

Trong đó ; l
t
: tỷ lệ lạm phát năm t
P : mặt bằng giá chung
t : năm tính lạm phát.
t-1 : năm tiếp sau năm tính lạm phát
ΔGDP: chênh lệch giữa GDP thực với giá trị xu thế của nó
Lạm phát chi phí đẩy: là do chi phí sản xuất tăng nhanh hơn năng xuất lao
động (tăng chi phí ở đây chủ yếu là tăng lương và giá các yếu tố đầu vào không phải
là sức lao động như dầu lửa, nguyên nhiên vật liệu , công nghệ cũ và cơ chế quản lý
lạc hậu) khi đó các doanh nghiệp sẽ đối phó lại bằng cách tăng giá sản phẩm hàng
hoá và lạm phát xuất hiện mặc dù tổng cầu về sản phẩm của họ không tăng.
Lạm phát chi phí đẩy là lạm phát xuất hiện từ các nhân tố ngoại sinh liên hệ
nhiều đến vấn đề tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Có thể giá của mỗi hàng hoá
đơn lẻ bao gồm các chi phí sản xuất và phi sản xuất tương ứng là các chi phí tiêu hao

nguyên liệu, chi phí lao động, lợi nhuận và các loại thuế gián tiệp và trợ cập trong
một số trường hợp nào đó.
Lạm phát chi phí đẩy có thể được thể hiện dưới phương trình sau:




n
n
P
P
gml **

Trong đó : m - tốc độ tăng trưởng tiền tệ
g - tốc độ tăng trưởng GDP thực
P
n
- giá nhập khẩu.
Lạm phát chi phí đẩy còn bao gồm cả lạm phát do tiền lương tăng lên (lạm
(1.4)
(1.5)
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

phát tiền lương đẩy) và một số nhà kinh tế học cho rằng thuyết lạm phát tiền lương
đẩy không phổ biến ở các nước đang phát triển. Người ta lý giải rằng thị trường lao
động ở các nước đang phát triển đặc trưng bởi sự phân đoạn thị trường. Tuy nhiên,
khi việc làm tăng lên tương ứng với tổng thu nhập và nếu các tổ chức công đoàn

vững mạnh, lý thuyết lạm phát tiền lương đẩy sẽ ngày càng trở nên xác đáng.
Lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy có quan hệ tuyến tính, tăng giá do
cầu kéo dẫn đến tăng giá do chi phí đẩy.
1.1.2.2. Quan điểm của trường phái cơ cấu
Các nhà nghiên cứu thuộc trường phái này cho rằng nguyên nhân gây lạm
phát là sự không co giãn của cung và sự cứng nhắc của cơ cấu giữa các khu vực của
nền kinh tế (Torado, 1989). Đồng thời lạm phát là không thể tránh được trong một
nền kinh tế đang cố gắng tăng trưởng cao nhưng lại tồn tại nhiều khiếm khuyết, hạn
chế và yếu kém. Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có quan hệ
không bình thường trong các cân đối lớn của nền kinh tế như công nghiệp - nông
nghiệp, công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, sản xuất - dịch vụ, xuất khẩu - nhập
khẩu, tích luỹ - tiêu dùng. Những thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế - xã hội do
tăng trưởng kinh tế thường dẫn đến giá tăng lên khi cơ cấu thị trường chưa được
hoàn chỉnh, các nguồn vật lực có giới hạn, các quan hệ không được đặt trong một sự
cân đối hợp lý, năng lực sản xuất không được khai thác hết, trạng thái vừa thiếu vừa
thừa xuất hiện. Cụ thể, tình trạng mất cân đối thường xuất hiện là:
- Mất cân đối giữa cung và cầu lương thực, thực phẩm (cung nhỏ hơn cầu)
- Ngoại tệ có hạn do nhập nhiều hơn xuất.
- Ngân sách thâm hụt và bị hạn chế do thu được ít nhưng nhu cầu chi tiêu cao.
Lạm phát cơ cấu có thể viết dưới phương trình sau:

 )log(*)log(*/* eGDPGDPdl


Trong đó : d – mức thâm hụt NSNN
e – tỷ giá hối đoái
l – tỷ lệ lạm phát
Để lý giải cho hiện tượng trên đó là, mất cân đối giữa cung và cầu lương thực,
thực phẩm là do quá trình đô thị hoá, những người sống ở đô thị có nguồn thu nhập
cao lên, làm cho nhu cầu tiêu dùng lương thực thực phẩm tăng lên sản xuất nông

(1.6)
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

nghiệp lại chưa được quan tâm phát triển đúng mức đã làm lượng cung lương thực,
thực phẩm bị hạn chế, và kết quả làm cho cầu nhiều hơn cung quá mức đã đẩy giá
lương thực thực phẩm lên cao.
Mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ xảy ra đối với những nước nhập khẩu
nhiều hơn xuất khẩu và không có luồng ngoại tệ nào khác ngoài xuất khẩu để có
ngoại tệ nhập khẩu đã dẫn đến cán cân thanh toán quốc tế của những nước này lâm
vào tình trạng khó khăn và buộc họ phải phá giá đồng tiền làm cho lạm phát tăng lên.
1.1.2.3. Quan điểm của trường phái tiền tệ
Những nhà kinh tế thuộc trường phái này lại cho rằng lạm phát là vấn đề
thuần tuý về tiền tệ, bắt nguồn và được duy trì bởi các chính sách tiền tệ và tài khoá
mở rộng (chi tiêu thâm hụt ngân sách của chính phủ, các chính sách mở rộng tín
dụng và mở rộng hoạt động ngoại hối của ngân hàng trung ương). Với quan điểm
này thì lạm phát xuất hiện khi có một khối lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn
khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường. Điều này được biểu hiện ở
chỗ đồng tiền nội địa mất giá. Người dân không muốn gửi tiền vào hệ thống ngân
hàng vì nguyên tắc lãi suất dương thường bị vi phạm không bảo đảm được giá trị
đồng tiền, đồng thời người dân cũng không muỗn giữ tiền vì như vậy đồng tiền sẽ
mất giá trị càng nhanh, họ chỉ còn cách là mua hàng hoá tích trữ hoặc mua ngoại tệ
mạnh. Kết quả là hệ thống ngân hàng đã thiếu tiền càng thiếu hơn nên phải phát hành
thêm tiền để chi tiêu hoặc đưa vàng cất giữ ra thị trường mong bảo tồn giá trị đồng
tiền họ có. Bên cạnh đó, một số quốc gia bơm tiền ra để đáp ứng nhu cầu tăng chi
tiêu dùng của Chính phủ và xã hội. Do đó, ngoài thị trường thì cung tiền vượt quá
mức cầu tiền tệ, và khan hiếm hàng hoá tăng lên kết quả lạm phát ngày một tăng cao.
Hình thức hoá thông thường nhất của lý thuyết đó là công thức IRVING

FISHER
M * V = P * T

Trong đó : M là khối lượng tiền tệ lưu thông.
V là tốc độ lưu thông của tiền tệ.
P là mặt bằng chung của giá cả.
T là khối lượng giao dịch phải đảm bảo.
Ý nghĩa đơn giản nhất là mọi sự tăng tiền tệ cao hơn tăng sản xuất thực tế đều
(1.7)
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

được thể hiện ra (đối với một tốc độ lưu thông không đổi của tiền tệ) bằng sự hiệu
chỉnh giá cả chung sao cho giá trị tổng thể của trao đổi bằng giá trị của khối lượng
tiền tệ mới đang lưu thông. Trong thời hạn ngắn hoặc trong trường hợp bộ máy sản
xuất không đáp ứng được nhu cầu tăng lên, biến động của giá cả sẽ tỷ lệ thuận với
biến động của khối lượng tiền tệ.
Cách tiếp cận này dựa trên hai định đề liên hệ chặt chẽ với nhau. Định đề thứ
nhất là nền kinh tế có thể giả định chia lạm hai khu vực: một mặt, khu vực trong đó
thực hiện sự sản xuất và xác định giá cả tương đối của hàng hoá và thu nhập của các
loại tác nhân (nền kinh tế “thật”); còn mặt kia, khu vực của các hiện tượng tiền tệ.
Theo sự phân tích phân đôi này thì tiền tệ chỉ là một tấm “voan” phủ lên khu vực
kinh tế thật, hoạt động như là tiền tệ không tồn tại, đó là khái niệm về “sự trung lập”
của tiền tệ. Định đề thứ hai là cung và cầu của tiền tệ phụ thuộc vào những yếu tố
riêng biệt, thậm chí bản thân nhu cầu tiền tệ thực sự không tồn tại, vì nó chỉ có để
biến đổi ngay thành nhu cầu của cải hoặc dịch vụ “thật“. Thật vậy nếu khác đi, sự tạo
lập ra tiền tệ chỉ có thể là kết quả của nhu cầu về phương tiện chi trả của cộng đồng,
và các yếu tố tiền tệ sẽ mất khả năng giải thích sự biến động của giá cả mà lại trở

thành hệ quả của những biến động này.
Để cho tiền tệ một vai trò thích hợp và xác định trong sự hình thành giá danh
nghĩa, nhất thiết phải cho rằng có một sự cung cấp tiền tệ biến thiên theo các sự kiện
bấp bênh (lượng kim loại sản xuất trên thế giới) hoặc theo chính sách tuỳ tiện của các
quan chức kiểm soát hệ thông ngân hàng.
Theo quan điểm nhấn mạnh ảnh hưởng của lượng tiền trong lưu thông đến
lạm phát thì lạm phát tiền tệ được viết dưới phương trình sau:
gml 

Trong đó : m - tốc độ tăng trưởng tiền tệ
g - tốc độ tăng trưởng GDP thực
Tuy nhiên, cân bằng dài hạn ở phương trình trên khó đạt được nên trong thực
tế, người ta dùng phương pháp xấp xỉ , tức là có thể viết theo phương trình sau:

 gml **
với
0


Các nhà tiền tệ cũng không phản đối những mất cân đối của nền kinh tế làm
tác động gây cho giá tăng, nhưng họ lý giải rằng chung quy vẫn là do lượng cung
(1.8)

(1.9)
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

tiền tệ vượt quá cầu vì cho rằng nếu không có cung tiền tệ tăng lên thì cầu hàng hoá

sẽ bị khống chế lại và giá cũng không thể tăng lên do đã tạo ra được một sự cân bằng
thị trường mới ở mức cung cầu tiền tệ và hàng hoá giới hạn. Chẳng hạn như trong
những năm 1970 khi giá thị trường quốc tế tăng lên cao do cơn sốt dầu lửa thì một số
nước vẫn không bơm tiền ra thị trường theo tín hiệu tăng giá dầu trên thị trường quốc
tế mà khống chế lượng tiền không đổi làm cho cầu tiền tệ vượt quá cung tiền tệ đã
tác động làm cho dân chúng, Chính phủ và các tổ chức phải tiêu dùng ít xăng dầu
hơn. Kết quả là giá cả trên thị trường ở một số nước đó không tăng, nền kinh tế ổn
định không bị tác động mạnh của cơn sốc dầu lửa trên thị trường thế giới.
Kết luận của những nhà tiền tệ theo trường phái này cho rằng lạm phát là kết
quả của việc mở rộng cung tiền nhanh hơn cầu tiền.
Nói chung, hầu hết các nhà kinh tế đều thừa nhận lạm phát xảy ra khi tổng cầu
vượt quá tổng cung hàng hoá và dịch vụ, do vậy, những nguyên nhân dẫn đến tăng
tổng cẩu và giảm tổng cung cũng đều được xác định là những yếu tố gây ra lạm phát.
- Ảnh hưởng đến tổng cầu: gồm các nhân tố như tăng cung tiền, tăng thu nhập
khả dụng, tăng chi tiêu công cộng, tăng tiêu dùng, mở rộng tín dụng, tài chính
thâm hụt, mở rộng khu vực kinh tế tư nhân, tiền bất hợp pháp, trả các khoản nợ
công chúng, tăng hàng xuất khẩu.
- Ảnh hưởng đến tổng cung: thiếu các nhân tố sản xuất, sự bất ổn trong công
nghiệp, tai hoạ thiên nhiên, dịch bệnh trong nông nghiệp, sự khan hiếm giả tạo,
tăng hàng xuất khẩu, mặt trái của sản xuất, quy luật thu nhập giảm dần, sự độc
quyền, các nhân tố quốc tế.
Nhìn chung lạm phát là kết quả của tổng hoà nhiều nguyên nhân kinh tế xã
hội: mỗi loại lạm phát bắt nguồn từ các nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên có thể
chia thành các nhóm sau:
- Nhóm những nguyên nhân liên quan đến sự bất cập và kém hiệu quả của các
chính sách điều tiết vĩ mô, như phát hành tiền quá mức nhằm đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của chính phủ làm tăng mức dư cầu tổng quát; định mức lãi suất tiết kiệm và
cho vay thấp hơn mức lạm phát; chính sách thuế không bảo đảm nguồn thu còn
chính sách đầu tư sai lệch khiến cơ cấu kinh té không hợp lý và kém hiệu quả,
kém sức cạnh tranh

- Nhóm nguyên nhân liên quan đến chi phí sản xuất trong nước gia tăng: chi phí
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

quản lý, tiền lương lao động, nguyên liệu, vật tư
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến các điều kiện quốc tế làm xuất hiện tình trạng
lạm phát nhập khẩu; chiến tranh, khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới, giá cả
thế giới tăng
- Nhóm nguyên nhân bất khả kháng liên quan đến thiên tai, lũ lụt, hạn hán, động
đất, khiến cung sụt giảm đột ngột so với cầu
Ngoài ra, còn có thể có những nguyên nhân khác như nội chiến, đấu tranh
chính trị và cái gọi là kỳ vọng về lạm phát, tức là việc người dân lao động và doanh
nghiệp đều dự kiến sẽ có lạm phát trong tương lai, nên đưa ra những yêu cầu, đối
sách thích ứng “sớm” do đó làm kéo dài, thậm chí tăng xung lực lạm phát tương lai.
1.2. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
1.2.1. Những ảnh hƣởng của lạm phát đối với kinh tế, xã hội
Lạm phát mỗi lần xuất hiện đều mang theo một sức mạnh tàn phá tiềm ẩn, làm
rối loạn nền kinh tế, làm phức tạp xã hội, làm giảm sút mức sống của người dân và
có thể nếu ở một mức nào đó thì lạm phát gây ra rối ren chính trị -xã hội. Lạm phát là
một căn bệnh tiềm ẩn đối với các nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, nó
xuất hiện khi nền kinh tế chứa đựng các dấu hiện mất cân đối, mất cân đối giữa cung
- cầu hàng hoá, mất cân đối giữa cung - cầu tiền tệ Trường hợp lạm phát không thể
tiên đoán được thì hậu quả sẽ là ghê gớm và khó có thể lường trước được, điều này
thể hiện ở chỗ:
- Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế: khi lạm phát xảy ra nó sẽ làm
lệch lạc cơ cấu giá cả, kéo theo là nguồn tài nguyên, vốn và nguồn nhân lực
không được phân bổ một cách hiệu quả, kết cục là làm cho tăng trưởng chậm lại.

- Tính không chắc chắn của lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư dài hạn:
Nếu các nhà đầu tư không biết chắc chắn hoặc không thể dự đoán được mức giá
cả trong tương lai, kéo theo là không thể biết được lãi suất thực thì không ai trong
số họ dám liều lĩnh đầu tư , nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn, mặc dù, có thể
các điều kiện đầu tư khác là khá ưu đãi và hấp dẫn. Tính không chắc chắn của
mức độ lạm phát sẽ đẩy lãi suất thực lên cao bởi chủ nợ muốn có sự bảo đảm cho
mức rủi ro lớn. Mức lãi suất thực cao này sẽ kìm hãm đầu tư và làm chậm tốc độ
tăng trưởng.
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

- Lạm phát cao khuyến khích người dân quan tâm đến lợi ích trước mắt. Khi có
lạm phát cao xảy ra ở một số nước, thay cho việc ký thác tiền trong ngân hàng để
hưởng lãi suất hay đầu tư vào khu vực sản xuất kinh doanh hòng tìm kiếm lợi
nhuận, dân chúng có thể sẽ đổ xô mua hàng để dự trữ vì kỳ vọng hàng hoá còn
tăng nữa. Điều này vô hình dung làm tăng cầu hàng hoá một cách giả tạo và do
vậy càng lạm cho lạm phát có nguy cơ bùng nổ đến mức độ cao hơn.
- Lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của quốc
gia. Chính phủ các nước đã từng trải qua lạm phát cao (Indonesia năm 1967, Anh
năm 1979 ) đều cho rằng không kiểm soát được lạm phát là điều đáng sợ nhất.
Toàn bộ hoạt động kinh tế bị bóp méo, biến dạng nghiêm trọng, gây tâm lý xã hội
phức tạp và làm lãng phí ghê gớm trong sản xuất. Đặc biệt, khi lạm phát cao xảy
ra, sức mua đối nội của đồng tiền giảm sút, lòng tin của dân chúng cũng như các
nhà đầu tư vào sự ổn định giá trị đồng tiền, vào hệ thống Ngân hàng và cao hơn
nữa là vào Chính phủ sẽ bị xói mòn . Điều này gây tác hại vô cùng lớn lao đến
toàn bộ hoạt động của nền kinh tế đất nước. Vả lại, từ khi rơi vào tình trạng lạm
phát cao đến khi ra khỏi tình trạng đó nhìn chung đều cần một thời gian dài với
sự hao tổn lớn cả về mặt vật chất và uy tín.

- Lạm phát cao làm giảm các nguồn thu từ thuế cho Ngân sách nhà nước do khi
giảm tốc độ tăng chi NSNN thì tỷ lệ lạm phát giảm thì tốc độ tăng chi NSNN
giảm. Những tác động làm giảm này xét trên cả hai phương diện trực tiếp và gián
tiếp. Một mặt, lạm phát cao dẫn đến sản xuất bị đình đốn làm cho nguồn thu thuế
bị giảm sút cả về mặt quy mô và chất lượng. Mặt khác, lạm phát cao đồng nghĩa
với sự mất giá của đồng tiền, do vậy với cùng một lượng tiền thu từ thuế thì giá
trị nguồn thu thực tế của nó giảm xuống khi có lạm phát cao. Ví dụ; ở Mexico,
lạm phát làm giảm nguồn thu thực tế năm 1981 là 2,6% GDP và giai đoạn 1983-
1987 là 1,6% GDP.
Với mục tiêu phát triển bền vững cho một nền kinh tế thì chính phủ phải có
những nhìn nhận hết sức đúng đắn trong vấn đề lạm phát. Khi xảy ra lạm phát, tác
hại của nó đến nền kinh tế là không thể lường trước được. Với vai trò là một chủ thể
điều chỉnh các nhân tố ảnh hưởng đến nền kinh tế, chính phủ của một quốc gia phải
có những hành động cụ thể để phát huy những nhân tố tác động đến lạm phát nhằm
mục đích kiềm chế sự gia tăng của nó hoặc kích thích sự gia tăng của lạm phát (trong
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

trường hợp giảm phát) để làm sao cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển một cách
bền vững nhất, đồng thời giảm được những ảnh hưởng xấu tới xã hội.
Ta cũng biết được rằng, các nhân tố trong một nền kinh tế có mối liên hệ ảnh
hưởng lẫn nhau: khi đầu tư giảm chắc chắn nhiều yếu tố khác cũng sẽ giảm từ đó ảnh
hưởng không nhỏ đến nền sản xuất hàng hoá dịch vụ trong nước dẫn tới giảm cung,
và cũng kéo theo đó là giá cả chung tăng, chỉ số giá tiều dùng cũng sẽ tăng và do đó
lạm phát tăng. Tiếp theo sự gia tăng lạm phát sẽ là một loạt những hậu quả của nó
đến nền kinh tế xã hội. Đó chính là phản ứng dây chuyền khi một yếu tố nào đó trong
nền kinh tế có sự thay đổi. Vậy, để có thể giảm thiểu những tác động tiêu cực có thể
xảy ra khi có sự biến động về lạm phát, chúng ta cần tích cực tìm ra được nguyên

nhân dẫn đến sự thay đổi của lạm phát, rồi từ đó tìm ra những biện pháp khắc phục
để đưa lạm phát trở về trạng thái ổn định và cân bằng tương đối.
1.2.2. Tác động của giảm phát đến sự phát triển của kinh tế, xã hội
Trên thực tế, giảm phát được hiểu là việc giảm liên tục mức giá chung của
hàng hoá và dịch vụ. Việc giảm giá tư liệu tiêu dùng sẽ không trở thành giảm phát
nếu giá cả dịch vụ lại tăng bù vào.
Cũng giống như lạm phát, bản thân giảm phát có cả tác động tích cực lẫn tiêu
cực đền nền kinh tế xã hội gắn liền với những nguyên nhân gây ra chúng.
Nếu giảm phát hình thành như là kết quả tự nhiên của những nỗ lực chống
lạm phát cao trước đó, thì đương nhiên lợi ích của giảm phát lúc này chính là các lợi
ích của việc kiềm chế thành công lạm phát cao đem lại. Hoặc nếu giảm phát gia tăng
do giảm chi phí sản xuất nhờ thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, hoặc tự
do hoá mậu dịch, thì sẽ rất có lợi, bởi khi đó giá hạ sẽ làm tăng thu nhập thực tế, làm
tăng sức mua, thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, cuộc cách mạng về máy vi tính
và viễn thông làm giảm chi phí chung cả trong sản xuất lẫn dịch vụ xã hội. Bằng
cách giảm bớt rào cản truy cập và phổ biến thông tin. mạng internet cũng góp phần
hạ giá một loạt mặt hàng
Giảm phát sẽ có nguy hiểm nếu nó phản ánh mức cầu giảm đột ngột, dư thừa
năng lực sản xuất ở mức cao và phổ biến, cũng như thu hẹp mức cung tiền như đã
từng xảy ra vào những năm đầu thập kỷ 30 (trong 4 năm kể từ 1929-1933, giá hàng
tiêu dùng ở Mỹ giảm 25% và GDP thực tế giảm 30%). Ngược lại với lạm phát, giảm
phát làm tăng tâm lý thích giữ tiền, hạn chế hoặc trì hoãn tiêu dùng với hy vọng “giá
Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam


Hoàng Thanh Tùng K12-KTCT

hàng ngày mai sẽ thấp hơn giá hàng hôm nay”. Điều đó làm giảm cầu, giảm sức tiêu
dùng thị trường, buộc các công ty phải tiếp tục giảm giá hàng, giảm sản lượng sản
xuất, giảm tiền lương và giảm khả năng bố trí công ăn việc làm dẫn đến thất nghiệp.

Giảm phát còn làm tăng gánh nặng nợ nần, do lãi suất danh nghĩa không thể âm. nên
lãi suất thực tế có thể lên rất cao. Nguy cơ suy thoái hay thu hẹp nền kinh tế, phá sản
và khủng hoảng ngân hàng do vậy cũng gia tăng. Xét toàn cảnh nền kinh tế giảm
phát tạo ra một vòng xoáy luẩn quẩn: Hạ giá > tăng dịch vụ nợ > giảm tiêu dùng
và tăng dư thừa công suất > tăng thất nghiệp và giảm thu nhập > giảm tiêu dùng -
-> giảm cầu và tiếp tục hạ giá
Các nhà kinh tế học đã đưa ra khái niệm “Khoảng cách sản lượng” để đo
lường tác hại của giảm phát; khoảng cách sản lượng là mức chênh lệch giữa sản
lượng thực tế và sản lượng tiềm năng của một nước. Chẳng hạn, áp dụng khái niệm
này vào thực tiễn Nhật Bản, người ta dự báo chênh lệch sản lượng của Nhật Bản sẽ
chiếm tới 7% GDP, tức là Nhật Bản đang ở trong vòng xoáy giảm phát luẩn quẩn .
Khi nói đến giảm phát, chúng ta cũng cần phân biệt rõ ràng giảm phát với
thiểu phát. Có thể nói hai quan niệm trên khá điển hình cho sự ngộ nhận và đánh
đồng giữa hai thuyết “lạm phát lưu thông tiền tệ” và “lạm phát giá cả”
Thuyết lạm phát lưu thông tiền tệ cho rằng việc đưa tiền vào lưu thông ít hơn
mức cần thiết, khiến sản xuất, lưu thông hàng hoá trong xã hội bị “nghẹt” vì thiếu
tiền là hiện tượng thiểu phát hay còn gọi là lạm phát âm và như vậy giảm phát chính
là quá trình kéo lạm phát xuống mức thấp với ngưỡng là “lạm phát zêrô” - tức là thời
điểm tại đó xác lập sự cân đối cung cầu tiền tệ. Lượng tiền phát hành ra phù hợp mức
yêu cầu cần thiết của nhu cầu lưu thông hàng hoá - dịch vụ xã hội. Nếu vượt quá
ngưỡng này, giảm phát và lạm phát sẽ biến mất để chuyển hoá thành thiểu phát.
Trên thực tế thời kỳ giảm phát ở Việt Nam diễn ra từ năm 1999-2003 đã là
một minh chứng cho vấn đề giảm phát của nền kinh tế. Tác động của nó đã khiến cho
nền kinh tế suy yếu đi rất nhiều, đời sống của người dân bị kéo xuống, cho dù giá cả
hàng hoá trên thị trường thấp nhưng vấn đề thiếu hụt hàng hoá lại xảy ra triền miên.
Nhà nước phải thực hiện những chính sách kích cầu, gia tăng đầu tư, giảm thời gian
lao động để thay thế bằng những hoạt động tiêu dùng nhằm đẩy mạnh nhu cầu
cũng như phát triển sản xuất để tăng cung, chặn đứng khả năng suy thoái của nền
kinh tế.

×