Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Kinh tế tri thức và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 119 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ



Phùng Bình Lâm


KINH TẾ TRI THỨC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa
Mã số : 5.02.01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHÍ MẠNH HỒNG







Hà Nội, 2002

2


MỤC LỤC
Trang

Mở đầu
Chương 1: Khái luận về kinh tế tri thức
1.1 Khái niệm kinh tế tri thức
1.2 Một số đặc điểm của kinh tế tri thức
1.3 Đo lường trình độ phát triển kinh tế tri thức của một quốc gia

Chương 2: Chiến lược hướng tới kinh tế tri thức của một số quốc
gia
2.1. Tình hình phát triển kinh tế tri thức trên thế giới
2.2. Thích ứng với xu hướng kinh tế tri thức qua chiến lược phát
triển ở một số quốc gia
2.3. Nhận xét chung về các chiến lược

Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nhằm tiếp cận
kinh tế tri thức ở Việt Nam
3.1. Tổng quan kinh tế Việt Nam hiện nay
3.2. Đánh giá nền móng kinh tế tri thức ở Việt Nam
3.3. Một số giải pháp định hướng

Kết luận

Phụ lục
Phụ lục 1. Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức của APEC
Phụ lục 2. Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức KAM của
Ngân hàng thế giới

Tài liệu tham khảo




4
4
20
28

32
32

36
57


61
61
67
85

98


99

103

107








3
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Kinh tế tri thức là một xu hướng toàn cầu đang diễn ra rất mạnh, lan tỏa
nhanh, tác động không nhỏ đến kinh tế thế giới, đặt ra cho các nước đang phát
triển nhiều cơ hội và thách thức. Tuy thực tế chưa chín muồi nhưng quá trình
phát triển của nó đang tuân theo một logic thống nhất mặc cho sự tồn tại của
nhiều quan điểm, thậm chí trái ngược nhau về định nghĩa, đặc điểm, bản chất,
xu hướng phát triển và tác động đến các mặt kinh tế- xã hội Do đó việc tìm
hiểu khái niệm, nhận diện kinh tế tri thức với ý nghĩa chính xác hóa, chỉ ra xu
thế phát triển trở thành vấn đề hết sức quan trọng.
Để hiểu rõ vấn đề trên thì bên cạnh nghiên cứu lý luận, việc xem xét
chiến lược hướng tới kinh tế tri thức của một số quốc gia tiêu biểu sẽ giúp
chúng ta nhận thức đầy đủ hơn cũng như sẽ gợi ra những nội dung quan trọng
cho việc xây dựng chính sách phát triển kinh tế đúng, hiệu quả ở VN.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ những năm 90 thế giới đã rất quan tâm nghiên cứu kinh tế tri thức,
không chỉ ở mức quốc gia riêng lẻ mà còn có các tổ chức quốc tế và khu vực
như OECD, WB, UNDP, APEC. Nhiều tài liệu đã được xuất bản, công bố
rộng rãi trên các phương tiện truyền thông và một số trong chúng đã được
biên tập, dịch ra tiếng Việt như: “Nền kinh tế tri thức” của Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế T.W; “ Kinh tế tri thức – Xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI”
của tác giả Ngô Quý Tùng; “ Thời đại kinh tế tri thức” của Tần Ngôn Trước;
“Nền kinh tế mới” do Diễn đàn Kinh tế – Tài chính Việt Pháp xuất bản

Trong nước cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo như “ Kinh tế tri thức
và những vấn đề đặt ra đối với VN” do Ban Khoa giáo TƯ, Bộ KH, CN &
MT, Bộ Ngoại giao đồng chủ trì vào tháng 6/2000; “ Sử dụng tri thức phục vụ

4
phát triển đối với VN” do Bộ KH, CN & MT, Ngân hàng thế giới tổ chức vào
ngày 1-2/11/2000; “Kinh tế tri thức và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam”
do Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông và Văn phòng khu vực ASEAN
Hanns Seidel Foundation (Đức) tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh vào tháng 6 năm
2002 với sự tham gia của rất nhiều quan chức và các nhà khoa học đầu ngành.
Ngoài những bài nghiên cứu trên báo và tạp chí, các tác giả Việt Nam đã xuất
bản nhiều sách viết về khía cạnh khác nhau của vấn đề này như: “ Kinh tế tri
thức: Những khái niệm và vấn đề cơ bản” của Đặng Mộng Lân;“ Nền kinh tế
tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục ở Việt Nam” của Trần Văn Tùng Tuy
nhiên, do cách hiểu khác nhau nên trong các nội dung có sự không thống nhất
thậm chí mâu thuẫn.
3. Mục đích nghiên cứu
Kinh tế tri thức là một hiện tượng đang tiến triển ở giai đoạn đầu nên
nền móng thực tiễn của khái niệm này còn rất mỏng manh. Nhiều vấn đề quan
trọng như bản chất của nền kinh tế tri thức là gì? Tác động của nền kinh tế tri
thức và ý nghĩa của nó đối với quá trình phát triển? vẫn đang được các nhà
kinh tế học hàng đầu nghiên cứu, tranh luận. Luận văn không có tham vọng
giải quyết các vấn đề trên mà chỉ nhằm mục đích nhận diện nền kinh tế này
thông qua việc:
- Làm rõ khái niệm kinh tế tri thức và một số đặc điểm nổi bật của nó;
- Giới thiệu các chỉ số đo lường kinh tế tri thức phổ biến hiện nay;
- Xem xét chiến lược hướng tới kinh tế tri thức của một số quốc gia như
là những quan niệm thực tế từ đó đi đến những giải pháp mang tính định
hướng để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


5
Nghiên cứu nền kinh tế tri thức trên phương diện lý luận và những vấn
đề trong thực tiễn qua đó làm rõ một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam. Để
đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu ở trên, đề tài tự giới hạn ở chỗ:
- Phân biệt các quan niệm phổ biến hiện nay, từ đó đưa đến cách hiểu
chung về kinh tế tri thức.
- Phân tích và so sánh chiến lược hướng tới kinh tế tri thức của một số
quốc gia.
- Xem xét thực trạng Việt Nam hiện nay từ góc độ kinh tế tri thức và
làm rõ các giải pháp định hướng phát triển kinh tế tri thức.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh,
logic và lịch sử với tinh thần lý luận kết hợp với thực tiễn, trên cơ sở phương
pháp luận biện chứng duy vật. Luận văn sử dụng số liệu của Tổng cục Thống
kê, các công trình, dự án, bài viết trên các sách báo, tạp chí và từ mạng
Internet.
6. Những đóng góp mới của luận văn
-
Góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận khái niệm kinh tế tri
thức;
- Giới thiệu một cách hệ thống các chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức phổ
biến trên thế giới hiện nay;
- Trên cơ sở xem xét thực trạng kinh tế Việt Nam trong góc độ phát
triển kinh tế tri thức, luận giải một số giải pháp định hướng nhằm tiếp cận
kinh tế tri thức ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Chương 1: Khái luận về kinh tế tri thức.

6

Chương 2: Chiến lược hướng tới kinh tế tri thức của một số quốc gia.
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nhằm tiếp cận kinh tế tri
thức ở Việt Nam.

7
Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ KINH TẾ TRI THỨC

1.1. KHÁI NIỆM KINH TẾ TRI THỨC
1.1.1. Khái niệm tri thức
1.1.1.1. Định nghĩa, phân loại
Tri thức có thể được định nghĩa trong sự phân biệt với thông tin và dữ
liệu:
- Dữ liệu là các sự kiện không cấu trúc hóa, không mang theo ý
nghĩa, ngoài ngữ cảnh hay một tập hợp các hình thức cụ thể như con số, chữ,
tiếng động, hình ảnh cho phép có thể rút ra thông tin.
- Thông tin là các dữ liệu đã được tổ chức, xử lý, có mục đích
nhưng chưa được đồng hóa.
- Tri thức là một khối lượng thông tin đã được xử lý, đồng hóa,
đưa vào sự nhận thức của cá nhân.









Nói một cách ngắn gọn thì thông tin ( theo nghĩa hẹp ) là dữ liệu đã
được xử lý đến mức độ nào đó. Tri thức là thông tin được chế biến ở mức độ

cao hơn. Ví dụ như: quan sát các hiện tượng thời tiết ( dữ liệu ) người ta biết
Mức độ tinh vi
của xử lý thông
tin (nghĩa rộng)

Dữ liệu

Thông tin
( nghĩa hẹp )

Tri
thức


8
được có mưa ( thông tin ) và mưa có ảnh hưởng đến sinh trưởng của thực vật
( tri thức ). Tuy nhiên, sự phân biệt chỉ mang tính chất tương đối. Nó có thể
thay đổi theo thời gian hoặc khi áp dụng vào những đối tượng cụ thể tùy theo
sự hiểu biết của mỗi người: thông tin đối với người này chỉ có thể là dữ liệu
đối với người khác, và lại có thể là tri thức đối với người khác nữa.
Sự phân biệt thông tin và tri thức còn được xem xét trên cơ sở khả năng
chuyển giao. Thông tin được được xem là cái sẵn sàng để chuyển giao, còn tri
thức bao gồm nhiều loại. Một số có thể điển chế hóa và do đó có thể biến đổi
thành thông tin để chuyển giao. Một số tri thức khác không điển chế hóa được
chỉ có thể thu nhận được nhờ quá trình học hỏi. Hai loại tri thức theo sự phân
biệt như vậy được gọi là tri thức hiện ( explicit knowledge ) và tri thức ngầm
( tatic knowledge ). Tri thức ngầm không thể điển chế hóa được hoàn toàn nên
khó có thể chuyển giao không phải do có tính chất trực giác mà vì trong quá
trình hoạt động những yếu tố của tri thức ngầm mới lại liên tục xuất hiện. Tuy
vậy nó lại có một vai trò quan trọng và là công cụ để lựa chọn và khai thác tri

thức điển chế hóa mà ngày nay tương đối dễ có và rẻ hơn rất nhiều.
Điển chế hóa là biến đổi một loại tri thức ngầm cụ thể thành một loại dễ
hiểu hơn song vẫn còn ngầm ở một mức độ nào đó. Trong một số tài liệu,
điển chế hóa tri thức được mô tả như một qui trình lấy thông tin từ các tác
nhân con người, cố gắng phát biểu nó một cách rõ ràng, sau đó cấu trúc lại để
làm giảm sự phức tạp sao cho có thể đưa vào vật thể vật chất hay mô tả trên
giấy. Nói cách khác, điển chế hóa là chuyển tri thức thành mã để nó trở nên
có dạng hiện, có thể tiếp cận và dễ dàng hiểu được ở mức độ cao nhất. Nhờ
vậy tri thức điển chế hóa có thể được chuyển giao vượt qua không gian và
thời gian. Ở khía cạnh kinh tế, điển chế hóa có ý nghĩa rất to lớn khi nó cho
phép giảm bớt tình trạng phân tán của tri thức, cũng như các khoản chi phí để
tự tìm ra nó. Cuộc cách mạng kỹ thuật số và những thành tựu vượt bậc của

9
công nghệ thông tin đã thúc đẩy nhanh quá trình điển chế hóa tri thức. Các
mạng lưới điện tử ngày nay đã nối liền một tập hợp lớn các nguồn thông tin
công cộng và tư nhân tạo nên những yếu tố rất đa dạng của một thư viện số
mà mọi người có thể truy nhập. Tri thức ngày càng gần như một hàng hóa,
các cuộc giao dịch trên thị trường đã trở nên dễ dàng, việc truyền tri thức tăng
nhanh.
Tuy nhiên trong thực tế tri thức luôn tồn tại là một tổ hợp của hai dạng
ngầm và hiện. Chúng có thể biến đổi liên tục từ dạng này sang dạng kia thông
qua quá trình học hỏi – học bằng làm, học bằng sử dụng, học để học. Do đó
nhiều học giả cho rằng nền kinh tế và xã hội trong tương lai là “nền kinh tế
học hỏi” và “ xã hội học tập” bởi vì tri thức ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt.
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự tiến bộ và phát triển của xã hội loài
người là do kết quả hội tụ của nhiều quá trình tiến triển riêng rẽ và độc lập
trong đó có sự thay đổi căn bản về ý nghĩa của tri thức. Tri thức theo cách
hiểu của thời kỳ cổ đại là một thứ chung chung, chỉ phục vụ cho chính nó.
Mục đích là làm cho con người có tri thức có thể hiểu được cái gì cần phải nói

và làm thế nào để nói chúng. Khi đó tri thức có nghĩa là logic, ngữ pháp và
hùng biện và hoàn toàn tách rời kỹ thuật. Bởi vì theo quan niệm thời đó, kỹ
thuật gắn liền với ứng dụng đặc biệt và không có những nguyên tắc áp dụng
chung, chỉ có thể thu nhận qua kinh nghiệm, không thể dạy và học được. Tiếp
theo đó đã có sự chuyển hóa căn bản về mặt ý nghĩa của tri thức. Trong giai
đoạn đầu, tri thức được áp dụng cho các công cụ sản xuất, phương pháp sản
xuất và sản phẩm tạo ra cuộc cách mạng công nghiệp. Trong giai đoạn thứ
hai, tri thức được áp dụng cho tổ chức lao động dẫn tới cuộc cách mạng năng
suất gắn liền với tên tuổi của F.Taylor ( 1856-1915). Giai đoạn cuối cùng tri
thức được áp dụng cho chính bản thân nó, đó chính là dùng tri thức để tạo ra
tri thức làm nên cuộc cách mạng quản lý, bước chuyển biến tới nền kinh tế tri

10
thức. Ngày nay quan niệm tri thức là những hệ thống kiến thức chuyên sâu,
thể hiện được trong hành động và trở thành các bộ môn chuyên ngành. Mỗi
một bộ môn chuyên ngành sẽ chuyển từng bí quyết thành phương pháp luận.
Mỗi phương pháp luận đó chuyển đổi những vấn đề riêng lẻ, kinh nghiệm
thành hệ thống do đó có thể dạy và học được. Bước chuyển từ đơn lên đa tri
thức đã làm cho nó trở
nên có sức mạnh sáng tạo nên một xã hội mới, làm cho
cuộc sống con người tốt đẹp hơn. Đây chính là sự thay đổi rất cơ bản về nhận thức
của tri thức [28, 160-208].
Định nghĩa tri thức đang được sử dụng phổ biến hiện nay, đặc biệt là
trong các tài liệu của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD ) là “ Mọi
hiểu biết của con người đối với bản thân và thế giới”. Nó bao gồm biết cái
gì? ( know what ), biết vì sao? ( know why ), biết làm thế nào? ( know how ),
biết ai? ( know who ). Biết cái gì? còn bao gồm cả tri thức về thời gian và địa
điểm ( know where và know when ). Trong nền kinh tế linh hoạt và năng
động, tri thức về thời gian, địa điểm đang ngày càng quan trọng đảm bảo cho
quá trình nhận thức, hành động được chính xác.

Trong các loại tri thức trên thì tri thức về sự vật, sự kiện ( know what )
và nguyên nhân, giải thích ( know why ) thuộc nhóm hiện, có thể được thu
nhận thông qua đọc tài liệu, truy nhập cơ sở dữ liệu Tri thức về cách làm
( know how ), về người biết ( know who ) thuộc nhóm ngầm và chỉ có được
qua hoạt động, kinh nghiệm thực tế. Tri thức về cách làm, về người biết
thường được phát triển, duy trì trong mỗi cá nhân, tổ chức riêng lẻ, không thể
dễ dàng chuyển giao và có vai trò ngày càng lớn, nhất là trong những nền
kinh tế mà các kỹ năng bị phân tán do sự phân công lao động. Đây chính là
một lý do quan trọng để hình thành các mạng lưới doanh nghiệp và tổ chức
nhằm kết hợp và chia sẻ những tri thức này.

11
1.1.1.2. Đặc điểm của tri thức
Với quan niệm mới về ý nghĩa, tri thức đã trở thành một nhân tố sản
xuất mà tầm quan trọng ngày càng tăng của nó làm giảm vai trò của vốn và
lao động. Nó có thể được sinh ra, trao đổi và sử dụng trong các phương thức
sản xuất để tạo ra các loại sản phẩm. Tuy nhiên nó có một số đặc điểm riêng
khác với các tư liệu sản xuất khác.
Thứ nhất, tri thức nói chung và khoa học, kỹ thuật, công nghệ nói riêng
có một đặc điểm nổi bật là khi đã được phát hiện, phát minh, sáng chế ra nó
có thể trở thành nền tảng cho các kỹ thuật, công nghệ khác ra đời, phát triển.
Ngày nay sự gia tăng và đổi mới, thay thế giữa những thế hệ tri thức diễn ra
thường xuyên, nhanh chóng. Những tri thức mới thường là sự liên kết, tích
hợp giữa các dòng tri thức khác nhau. Ví dụ như khoa học công nghệ viễn
thông ngày nay là sự hội tụ các lĩnh lực trước đây tồn tại độc lập như truyền
dẫn vô tuyến tín hiệu thoại, truyền dẫn hữu tuyến tín hiệu truyền hình, truyền
hình cáp, truyền số liệu, Internet, vệ tinh và vô tuyến nhiều kênh
Thứ hai, mức độ lan truyền về không gian và thời gian của tri thức
được mở rộng và đẩy mạnh nhờ khả năng hệ thống hóa của chúng. Ngày càng
nhiều khối lượng tri thức có thể giản đơn hóa, đồng nhất hóa, tiêu chuẩn hóa

thành
những thông tin rõ ràng, ngắn gọn, dễ dàng cho việc truyền tải, lưu trữ và
tái tạo.
Thứ ba, tri thức có nhiều đặc tính cơ bản của một hàng hóa công cộng,
thực chất là một hàng hóa công cộng toàn cầu:
- Không có tính cạnh tranh. Một người sử dụng một khối lượng tri
thức nhất định không ảnh hưởng đến việc những người khác cũng sử dụng
những khối lượng tri thức đó. Thomas Jefferson đã mô tả tính chất không có
cạnh tranh của tri thức và thông tin theo cách dưới đây: “ Ông ta là người

12
nhận được ý tưởng ở tôi, tự mình đã nhận được kiến thức mà không làm giảm
kiến thức của tôi; vì ông là người châm dây thắp nến ở chỗ của tôi, đã nhận
được ánh sáng mà không làm cho tôi bị tối đi” [17, 32].
- Không có tính loại trừ. Khi tri thức đã ở trong lĩnh vực công
cộng thì người tạo ra tri thức đó rất khó ngăn không cho người khác dùng.
Hai tính chất này của tri thức làm giảm lợi ích của những người tạo ra
nó nên sẽ không khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và triển khai. Do vậy
các chính phủ, tổ chức phải có thiết chế để phục hồi những khuyến khích tạo
ra tri thức dưới hình thức bằng sáng chế, bản quyền. Tuy nhiên những nỗ lực
nhằm khuyến khích tạo ra phải được cân bằng với nhu cầu phổ biến tri thức
để nâng cao hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, tri thức khi được chuyển giao cho nhiều người thì khả năng sử
dụng nó để tạo ra của cải và lợi ích sẽ lớn hơn. Mặt khác chi phí cho việc phổ
biến tri thức để làm tăng số người sử dụng là không đáng kể.
Các đặc điểm trên cùng với sự thay đổi trong ý nghĩa tri thức trình bày
ở trên đã lý giải tại sao tri thức trở thành yếu tố mang tính quyết định và
không có gì thay thế nổi đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội của
loài người.
1.1.1.3. Vai trò của tri thức trong phát triển

Tri thức có vai trò rất quan trọng đối với phát triển bởi vì muốn cho
cuộc sống tốt hơn, sức khỏe được cải thiện, tiện nghi sinh hoạt thuận tiện
phải vận dụng nó để biến đổi có hiệu quả các nguồn lực vật chất ngày càng
khan hiếm. Đối với các nước công nghiệp phát triển hiện nay cán cân kinh tế
đã nghiêng hẳn về tri thức với những biểu hiện như tỷ trọng các ngành dựa
trên tri thức chiếm trên 50% GDP, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển tăng
mạnh, lao động có trình độ và kỹ năng cao

13
Tri thức đối với tăng trưởng kinh tế.
Những công trình nghiên cứu về sự tăng trưởng thần kỳ của một số
nước Đông Á cho thấy vai trò của tri thức. Khởi đầu là những nền kinh tế có
thu nhập thấp trong những năm 60, các nền kinh tế này đã bắt kịp các nước có
thu nhập cao thuộc OECD không chỉ do khai thác tài nguyên thiên nhiên hay
tăng tích lũy vốn vật chất ở mức cao thể hiện qua việc tập trung đầu tư cơ sở
hạ tầng. Nguyên nhân quan trọng là các nước này đã có một chiến lược san
lấp khoảng cách về tri thức bằng cách đầu tư vào tri thức được chứa trong
nguồn vốn vật chất, vào con người và thiết chế để thúc đẩy tạo điều kiện
thuận lợi cho việc sản sinh, hấp thụ và phổ biến, sử dụng tri thức có hiệu quả.
Điều này không chỉ xảy ra với trường hợp của Đông Á mà còn đúng
với nhiều quốc gia khác [17, 34-40]. Để lý giải, các nhà kinh tế học hiện đại
đã phát triển rất nhiều lý thuyết tăng trưởng. Khởi đầu là lý thuyết của R.
Solow đã gán thành phần tăng trưởng, ngoài phạm vi tích lũy vốn vật chất và
lao động, cho sự thay đổi công nghệ. Thành phần này được gọi là năng suất
nhân tố tổng hợp ( Total Factor Productivity – TFP ). Trong lý thuyết này
công nghệ hay tri thức được xem xét như những yếu tố bên ngoài ( ngoại sinh
), không phải là một bộ phận liên kết của hàm sản xuất. Những năm gần đây,
với nhận thức ngày càng tăng về tầm quan trọng của tích lũy tri thức, đã xuất
hiện nhiều lý thuyết tăng trưởng mới xem nó như nguồn bên trong ( nội sinh )
của tăng trưởng bền vững. Đó là lý thuyết của P.M.Romer ( 1986, 1990 ),

G.M. Grossman và E.Helpman ( 1991 ) và R.E.Lucas ( 1988 ). Các công trình
này bắt nguồn từ ý tưởng của K.Arrow đưa ra năm 1962, theo đó tăng trưởng
không thể giải thích chỉ bằng sự tích lũy vốn vật chất và việc sử dụng vốn
không chỉ dẫn đến hiệu ứng qui mô mà còn làm tăng tri thức được sử dụng
trong sản xuất do kinh nghiệm thu được trong sử dụng vốn. Đó chính là quá

14
trình học hỏi của tổ chức – học bằng làm và điều đó giải thích vì sao học hỏi
có vai trò quan trọng đặc biệt trong lý thuyết tăng trưởng nội sinh.
Ngoài ra còn có một số yếu tố không liên quan trực tiếp đến tri thức
nhưng có mối tương quan lớn với tỷ lệ tăng trưởng, đó là chất lượng của thể
chế và chính sách kinh tế, giáo dục, mở cửa mậu dịch và sự phát triển của hạ
tầng thông tin. Tác động của chúng lên tăng trưởng có thể đến 4% [17, 41]
đối với những nước chuyển từ mức thấp tới trên trung bình là do:
- Sự mở cửa mậu dịch có quan hệ đến khai thác tri thức nước
ngoài đựoc bao hàm trong những hàng hóa và dịch vụ. Mậu dịch cũng cho
phép dân chúng học tập về những thực tiễn kinh doanh trong những xã hội
khác. Những lợi nhuận mậu dịch có quan hệ đến tri thức cộng thêm vào
những lợi nhuận truyền thống được thiết lập một cách chắc chắn từ mậu dịch
quốc tế.
- Trình độ giáo dục đạt được của dân chúng có quan hệ tới năng
lực sử dụng tri thức của họ.
- Mật độ điện thoại có quan hệ tới khả năng của dân chúng thâm
nhập thông tin có ích khi cần thiết.
Đây là những yếu tố cơ bản làm thu hẹp khoảng cách về công nghệ và
tri thức của Đông Á đối với các nước công nghiệp khác.
Tri thức đối với phúc lợi con người
Trong thời gian gần đây tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã giảm mạnh trên
khắp thế giới. Nguyên nhân không chỉ do thu nhập và mức sống tăng mà còn
do những giá trị cũng như sự ứng dụng tri thức vào việc chăm sóc sức khỏe:

- Việc phát minh ra thuốc kháng sinh và vắc-xin trong những năm
30, với sự tiến bộ không ngừng của hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện nay và

15
tri thức về các dịch bệnh đã chế ngự được sự lây lan của phần lớn các bệnh
truyền nhiễm.
- Giáo dục đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe.
Trình độ học vấn của người dân nói chung và của các em gái, phụ nữ có ý
nghĩa quyết định trong việc nâng cao sức khỏe của người dân cũng như làm
giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Công trình nghiên cứu tại 45 nước đang phát
triển của Ngân hàng thế giới cho thấy tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi giảm
dần từ 144/1000 xuống 106/1000 và 68/1000 tương ứng với học vấn của bà
mẹ tăng từ không có đến bậc trung học [17, 34].
- Các phát hiện, phát minh khoa học, tiến bộ trong công nghệ làm
thay đổi phương pháp điều trị bệnh, phổ biến rộng rãi tri thức y học trong
cộng đồng.
Tri thức đối với bảo vệ môi trường
Trong vấn đề môi trường tri thức được xem xét trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, môi trường bị ô nhiễm, tàn phá do nhiều nguyên nhân trong
đó có sự thiếu tri thức về nó. Môi trường sẽ cải thiện và bảo vệ khi tri thức
đánh giá chất lượng, tác động của nó cũng như các chi phí để giảm nhẹ ô
nhiễm được phổ biến, thực thi một cách rộng rãi, hiệu quả trong khuôn khổ
thể chế, pháp lý chặt chẽ.
Thứ hai, những tri thức mới về khoa học và công nghệ cho phép sử
dụng có hiệu quả hơn tài nguyên không tái sinh như than đá, dầu mỏ cũng
như tìm ra các nguồn năng lượng sạch, phương pháp sản xuất mới ít gây tổn
hại và trong một vài trường hợp còn có lợi cho môi trường.

16
Bảng 1. Cơ cấu các thời kỳ khác nhau của nguồn năng lượng thế giới

Nguồn
năng
lượng
thế giới
Dầu mỏ
Than
Khí tự
nhiên
Điện hạt
nhân
Năng
lượng
mặt trời
Thủy
điện
Những
năng
lượng
khác
1993
40%
27%
23%
7%

2%
1%
2030
(dự
tính)




35%
20%


Nguồn: Ngô Quý Tùng, Kinh tế tri thức: Xu thế mới của thế kỷ 21, Nxb
CTQG, H, 2000.

So với các nước công nghiệp phát triển, khả năng tạo ra tri thức của các
nước đang phát triển rất hạn chế. Nếu tính toán theo chỉ số chi tiêu trên đầu
người cho R&D thì những bất bình đẳng về năng lực tạo ra tri thức còn lớn
hơn cả thu nhập [17]. Khả năng tiếp cận thông tin và tận dụng các công nghệ
thông tin hiện đại, đặc biệt là Internet của các nước đang phát triển cũng kém
hơn so với nước phát triển. Khoảng cách này thường được gọi bằng thuật ngữ
Hố ngăn cách số ( Digital Divide ). Hiện nay hố ngăn cách số có xu hướng
mở rộng bởi tác động của hai vòng xoáy. Vòng xoáy thứ nhất, sự nghèo về
kinh tế dẫn đến lạc hậu về khoa học công nghệ và thông tin khiến cho khoảng
cách về phát triển kinh tế càng sâu sắc hơn. Vòng xoáy thứ hai là sự đi lên của
các nước giàu, dẫn đầu về kinh tế nên cũng dẫn đầu về khoa học công nghệ
do đó kinh tế càng phát triển hơn. Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức,
các nước đang phát triển cũng có những cơ hội mới khắc phục khoảng cách
tụt hậu để vươn lên.
Thứ nhất, bằng nhiều cách thức khác nhau khai thác khối tri thức toàn cầu:

17
- Thông qua mậu dịch quốc tế để thu nhận tri thức hàm chứa trong
hàng hóa và dịch vụ.
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để tiếp thu tri thức công

nghệ, quản lý từ các công ty đa quốc gia.
- Thông qua giấy phép công nghệ, các nước đang phát triển thâm
nhập công nghệ độc quyền mới có hiệu quả hơn về mặt chi phí so với việc tự
phát triển.
- Tận dụng dòng di chuyển và di cư để thu nhận tri thức như đưa
người đi học, tham quan trao đổi
Thứ hai, các nước đang phát triển có thể tận dụng lợi thế “của người đi
sau” đi thẳng vào một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến hiện đại. Ví dụ như xây
dựng cơ sở hạ tầng thông tin, ứng dụng tiến bộ của công nghệ sinh học thay
đổi phương thức sản xuất nông nghiệp
1.1.2. Khái niệm kinh tế tri thức
Sự xuất hiện những mầm mống của nền kinh tế tri thức trong thời gian
gần đây được xem như một cuộc cách mạng sẽ làm thay đổi toàn diện và sâu
sắc khung cảnh kinh tế - xã hội thế giới.
1.1.2.1. Kinh tế tri thức và những thuật ngữ có liên quan
Ở khía cạnh từ vựng, knowledge economy có thể được dịch thành hai
thuật ngữ trong tiếng Việt, đó là “kinh tế tri thức” hoặc “nền kinh tế tri thức”.
( Từ economy trong tiếng Anh vừa có nghĩa là nền kinh tế, vừa có nghĩa là
khu vực hay thành phần kinh tế ví dụ như individual economy – kinh tế cá thể
). Mặc dù chỉ có rất ít khác biệt về hình thức, hai cách dịch này thể hiện hai
quan điểm khác nhau về xu thế phát triển mới của kinh tế thế giới. Tuỳ theo
từng ngữ cảnh riêng, trong luận văn này sử dụng không phân biệt cả hai cách

18
dịch trên, xem “kinh tế tri thức” và “nền kinh tế tri thức” là hoàn toàn tương
đồng cùng đại diện cho thuật ngữ knowledge economy.
Gắn liền với kinh tế tri thức là thuật ngữ “đổi mới”, được dịch từ thuật
ngữ tiếng Anh innovation xuất phát từ khái niệm ban đầu của nhà kinh tế
J.Schumpeter. Theo đó, đổi mới là những quá trình và những hoạt động nhằm
chuyển hoá các tri thức, kiến thức đã được phát minh ra thành một “sức sản

xuất” cụ thể, được chấp nhận trong một hệ thống xã hội (một hãng, một nền
kinh tế v.v). Một đổi mới có thể là một quá trình sản xuất mới, một cách sử
dụng nguyên liệu mới hoặc một hình thức tổ chức mới. Như P. Drucker
(1995) đã nói: “ Đổi mới là nghệ thuật cung cấp cho những nguồn tài nguyên
một năng lực mới để tạo ra của cải”. Nói đơn giản, không chỉ giới hạn trong
công nghệ, đổi mới là quá trình biến tri thức thành sự tăng trưởng kinh tế thực
sự. Theo cách này, mối quan hệ giữa kinh tế tri thức với đổi mới được thể
hiện thông qua đẳng thức: kinh tế tri thức = “tri thức” +“đổi mới”.
Để nói về sự nổi lên của nền kinh tế này còn có một số thuật ngữ khác
như nền kinh tế dựa trên tri thức (knowledge-based economy), nền kinh tế
được dẫn dắt bởi tri thức (knowledge-driven economy), nền kinh tế dựa trên
ý tưởng (idea-based economy), xã hội thông tin (information society), nền
kinh tế công nghệ cao (high-technology economy), nền kinh tế thông tin
(information economy), nền kinh tế mạng (network economy), nền kinh tế số
hoá (digital economy), kinh tế không gian điều khiển học (cyber economy),
nền kinh tế sinh học-số hoá (bio-digital economy), nền kinh tế mới (new
economy) Mỗi thuật ngữ trên thể hiện cách hiểu và góc độ xem xét khác nhau:
Thứ nhất, cách hiểu kinh tế tri thức với quan niệm hẹp về tri thức.
Trong cách hiểu này có hai góc độ tiếp cận phổ biến :

19
- Tri thức đồng nghĩa với khoa học công nghệ: Những người theo
cách tiếp cận này hiểu “tri thức” với nghĩa hẹp, tức là đồng nghĩa với khoa
học và công nghệ hoặc hẹp hơn nữa là đồng nghĩa với cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại, bao gồm bốn công nghệ cột trụ là công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghiệp không gian vũ trụ và công nghệ vật liệu
mới. Cách hiểu này có thể được đại diện bởi thuật ngữ “nền kinh tế công nghệ
cao”. Hoặc hẹp hơn nữa, nhấn mạnh vào vai trò to lớn và độc nhất của công
nghệ thông tin, người ta có thể sử dụng các thuật ngữ “kinh tế thông tin”,
“kinh tế mạng”, “kinh tế số hóa” và “kinh tế không gian điều khiển học”.

- Phân biệt nền kinh tế quốc dân thành hai bộ phận là khu vực
kinh tế tri thức và khu vực kinh tế cũ: Khu vực kinh tế tri thức bao gồm các
được gọi là dựa trên tri thức, phần còn lại là khu vực kinh tế cũ với các ngành
truyền thống. Hai khu vực kinh tế này hoạt động với những cơ chế, quy luật,
và kết quả khác hẳn nhau. Nền kinh tế tri thức phát triển tới trình độ càng cao
nếu các ngành dựa trên tri thức chiếm phần càng lớn trong nền kinh tế. Theo
quan niệm của OECD, có hai cột mốc cho thấy một nền kinh tế quốc gia đã
chuyển sang giai đoạn kinh tế tri thức: (i) Tỷ trọng của khu vực công nghiệp
và nông nghiệp lên tới điểm cực đại và càng ngày càng giảm đi. Điểm mốc
này đã xuất hiện ở các nước tiên tiến nhất từ cách đây khoảng 30 năm; (ii) Tỷ
trọng của các ngành tri thức theo phân loại của OECD chiếm trên 70% GDP
quốc gia.
Thứ hai, cách hiểu kinh tế tri thức với quan niệm về tri thức theo định
nghĩa của OECD như đã trình bày ở trên, tức là mọi hiểu biết của con người
đối với bản thân và thế giới. Cách hiểu này có hai góc độ tiếp cận:
- Từ khía cạnh lực lượng sản xuất: Kinh tế tri thức là trình độ
phát triển cao của lực lượng sản xuất. Trong đó có một số quan điểm nhấn

20
mạnh kinh tế tri thức chỉ là một nấc thang phát triển của lực lượng sản xuất,
tuyệt nhiên không liên quan tới một hình thái kinh tế- xã hội mới. Muốn xem
xét về hình thái kinh tế- xã hội thì còn phải đề cập tới nhiều mặt khác, đặc biệt
là mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và phương cách
giải quyết mâu thuẫn giữa hai mặt đó.
- Từ khía cạnh sự đóng góp của tri thức vào phát triển kinh tế:
Cách quan niệm này diễn giải định nghĩa của OECD đã nêu ở trên theo đúng
nghĩa đen của nó. Tri thức hay cụ thể hơn là những hoạt động sản xuất, truyền
bá và sử dụng tri thức, đã vượt quá vốn và lao động để trở thành nguồn lực
chi phối mọi hoạt động tạo ra của cải trong nền kinh tế. Trong đó, tri thức là
một khái niệm rất rộng, bao trùm mọi hiểu biết của con người.

Thứ ba, cách hiểu kinh tế tri thức là một môi trường hay hình thái kinh
tế- văn hoá- xã hội mới với những đặc tính phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức tất
yếu sẽ trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất đóng góp vào sự phát triển
kinh tế. Do vậy, cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức không phải
đơn thuần là phát triển khoa học công nghệ mà là phát triển một nền văn hoá
đổi mới, sáng tạo để tạo thuận lợi nhất cho việc sản xuất, khai thác và sử dụng
mọi loại tri thức, hiểu biết của nhân loại. Xét theo nghĩa này, kinh tế tri thức
có thể được hiểu như một giai đoạn phát triển mới của toàn bộ nền kinh tế,
hoặc nói rộng hơn điều này sẽ dẫn tới một giai đoạn phát triển mới của xã hội
nói chung. Hiện nay ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu, quốc gia, tổ chức
quan niệm về kinh tế tri thức từ góc độ tiếp cận này.
Trong nhiều tài liệu nghiên cứu, góc độ tiếp cận của các tác giả thường
theo một trong ba cách trên hoặc có sự dao động giữa các cách. Khó có thể
nói cách hiểu nào đúng, cách hiểu nào sai bởi vì chưa có một mốc chuẩn trên

21
thực tế cho khái niệm kinh tế tri thức. Cách hiểu kinh tế tri thức với quan
niệm hẹp về tri thức nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng nền móng của
khoa học công nghệ và “tăng trưởng năng suất” đối với mọi sự tăng trưởng
kinh tế. Nó tách rời tri thức về khoa học công nghệ ra khỏi nguồn tri thức
rộng lớn hơn nhiều của con người cũng như tách rời khoa học công nghệ ra
khỏi môi trường kinh tế-xã hội-văn hoá nói chung. Cách hiểu kinh tế tri thức
với quan niệm về tri thức theo định nghĩa của OECD có hạn chế là không rõ
ràng. Tiếp cận từ góc độ lực lượng sản xuất thì vào bất kỳ giai đoạn lịch sử
nào lực lượng sản xuất cũng ở trình độ phát triển cao so với những giai đoạn
trước đó. Nói rằng hiện nay tri thức là nguồn lực đóng góp nhiều nhất cho
tăng trưởng kinh tế nhưng người ta lại chưa có phương pháp được thừa nhận
chung để đo lường [36, 29-31]. Cách hiểu kinh tế tri thức là một môi trường
kinh tế- văn hoá- xã hội mới với những đặc tính phù hợp và tạo điều kiện

thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo có nhiều khía cạnh bao
gồm cả hai cách quan niệm đầu. Cách hiểu này hữu ích cho phát triển kinh tế
ở các nước đang phát triển nơi mà việc hấp thụ, phổ biến và sử dụng tri thức
có một vai trò đặc biệt quan trọng.
Với mục đích chính là nhận diện “kinh tế tri thức”, đề tài này khởi đầu
bằng việc thừa nhận định nghĩa của OECD: kinh tế tri thức là một nền kinh tế
trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức với cách hiểu
đây là một giai đoạn phát triển mới của toàn bộ lịch sử phát triển kinh tế của
loài người.
1.1.2.2. Sản xuất tri thức
Sản xuất tri thức được hiểu một cách đơn giản là tạo ra hoặc rộng hơn
là để có được tri thức. Đối với mỗi tổ chức kinh tế, quyết định tạo ra hay thu

22
nhận và sử dụng tri thức bên ngoài bị chi phối bởi khả năng tài chính, trình độ
phát triển khoa học – kỹ thuật trong đó có nhân lực.
Tri thức được tạo ra thông qua R&D và trong một chừng mực nào đó
có thể là một sản phẩm phụ của quá trình hoạt động với các mục đích khác
nhau, khi con người rút ra kinh nghiệm từ phương pháp sản xuất hoặc tiêu thụ
hàng hóa, hay khi họ lắng nghe, học hỏi những kinh nghiệm của người khác.
Đối với mỗi quốc gia sản xuất tri thức có vai trò quan trọng bởi vì sẽ không
tận dụng khối tri thức toàn cầu trừ phi xây dựng được năng lực tìm kiếm công
nghệ thích hợp, chọn lựa và hấp thụ, thích nghi những gì đã tìm ra.
Giữa sản xuất tri thức và sản xuất tư liệu sản xuất có nhiều khác biệt:
(i) Sản xuất tri thức có tính không chắc chắn cao và rủi ro rất lớn; (ii) Tri thức
được biểu hiện bởi vốn nhân lực và tổ chức; (iii) Nhiều phương pháp sản xuất
tri thức sử dụng tri thức đã có như là các đầu vào và đây chính là điểm khác
biệt quan trọng nhất.
Hệ quả của những vấn đề trên là các hoạt động tạo ra tri thức rất khó
được đo lường, đánh giá, thể hiện ở bốn khó khăn. Đó là đo lường đầu vào

của tri thức, đầu tư vào tri thức, cải tiến chất lượng và sự lỗi thời. Những khó
khăn trên làm cho kết quả đo lường tăng trưởng GDP và năng suất thường
thấp hơn so với thực tế.
Để kiến lập cơ sở tri thức, thu nhận được lợi thế tốt nhất từ công nghệ
nhập vào, các nước đang phát triển phải khai phá tất cả các phương tiện nhằm
khai thác khối tri thức toàn cầu thông qua những phương thức đã trình bày ở
phần trước cũng như thích nghi nó với điều kiện địa phương. Vai trò của Nhà
nước là tạo lập cơ chế khuyến khích các tổ chức tìm kiếm những kỹ thuật tốt
nhất, đầu tư vào đào tạo và đổi mới. Ngoài ra cũng phải giải quyết hài hòa vấn
đề quyền sở hữu trí tuệ để phổ biến nó với chi phí thấp nhất có thể được. Theo

23
WB 1999 , những vấn đề của Nhà nước là tạo lập một thị trường cạnh tranh,
mở cửa và xóa bỏ mọi trợ cấp; tiến hành nghiên cứu triển khai trước hết trong
nông nghiệp rồi tăng dần trong công nghiệp khi công nghiệp chế tạo phát triển
và sau đó khuyến khích tư nhân thực hiện.
1.1.2.3. Phân phối tri thức
Trong kinh tế tri thức, tài nguyên trí lực mà biểu hiện của nó là vốn
nhân lực và tổ chức trở thành quan trọng nhất, xâm nhập vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Thông qua tri thức việc khai thác, phân phối nguồn tài
nguyên thiên nhiên khan hiếm được thực hiện một cách hữu hiệu, có lợi cho
môi trường. Vì vậy việc chiếm hữu nhân tài, tri thức khoa học và công nghệ
quan trọng hơn nhiều so với chiếm hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác.
Phân phối tri thức có thể diễn ra mạnh mẽ dưới nhiều hình thức như
phổ biến, mua bán, trao đổi thông tin, bản quyền, cấp giấy phép công
nghệ trong môi trường thể chế, pháp lý chặt chẽ. Sự phát triển của công nghệ
thông tin mà đặc biệt là quá trình hội tụ trong công nghiệp vô tuyến viễn
thông tạo điều kiện thuận lợi cho phổ biến, trao đổi tri thức. Tuy nhiên việc áp
dụng công nghệ tiên tiến bị phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như sự khác biệt
về văn hóa – xã hội, thu nhập thấp, nguồn vốn con người không thỏa đáng,

những môi trường cạnh tranh và điều tiết yếu kém làm chậm việc sử dụng
chúng. Mặc dù có một số trở ngại nhưng người ta không thể phủ nhận vai trò
to lớn của cách mạng công nghệ thông tin trong kinh tế tri thức.
1.1.2.4. Sử dụng tri thức
Tri thức có thể được sử dụng như hàng hóa thông thường cho nhiều
mục đích. Con người có thể dùng tri thức như một hàng hóa tiêu dùng hoặc để
tạo ra các hàng hóa khác, các cơ hội thị trường hoặc là tri thức mới. Tuy nhiên
việc sử dụng tri thức như một tư liệu sản xuất có một số đặc điểm khác biệt.

24
Thứ nhất, việc sử dụng tri thức dẫn đến hiệu ứng lợi nhuận tăng dần theo qui
mô. Các tri thức mới được áp dụng trong quá trình sản xuất giúp làm tăng sản
lượng đầu ra trong khi không tăng chi phí đầu vào. Điều này không phù hợp
với khuôn khổ cân bằng tổng quát trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo. Thứ
hai, việc sử dụng tri thức tự động tạo ra sự lỗi thời của các tri thức cũng như
tư liệu sản xuất khác- tạo ra các ngoại ứng. Chẳng hạn tìm ra vật liệu mới
composit có độ bền và nhẹ hơn dần được thay thế thép cũng như thay đổi các
qui trình chế tạo trong công nghiệp sản xuất ô tô. Thứ ba, việc sử dụng tri
thức sẽ không chỉ tạo ra nhiều sản phẩm với phí tổn ít hơn mà còn tạo ra các
sản phẩm chưa từng tồn tại.
Tri thức không phải là thứ cho không, việc sử dụng nó hoàn toàn phải
trả giá. Mọi người đều phải học tập để có tri thức, hấp thụ và chuyển hóa nó
thành kỹ năng để sử dụng. Trong kinh tế tri thức, tri thức hàng hóa ngày càng
tăng nhưng việc sử dụng tài sản tri thức phải được bảo vệ một cách hữu hiệu
bởi quyền sở hữu là một trong những yêu cầu đầu tiên bảo đảm động lực sáng
tạo và bảo vệ khai thác nguồn tài nguyên trí lực.

1.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA KINH TẾ TRI THỨC
Từ nhiều góc độ tiếp cận, các tài liệu phổ biến hiện nay nêu ra các đặc
điểm khác nhau. Trong đó một số đặc điểm được gán cho kinh tế tri thức là

chưa thực sự có sức thuyết phục. Ví dụ như dịch chuyển cơ cấu kinh tế, “mờ
nhạt” chu kỳ kinh tế, cạnh tranh cao độ Tuy nhiên có bốn đặc trưng nổi bật
và khác biệt so với các nền kinh tế trước.
1.2.1. Tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là
lực lượng sản xuất thứ nhất, là lợi thế phát triển quyết định.

25
Khác với nền kinh tế nông nghiệp và kinh tế công nghiệp là những nền
kinh tế chủ yếu dựa vào các nguồn vốn hữu hình, nền kinh tế tri thức chủ yếu
dựa vào tri thức, trong đó thông tin là tài nguyên quan trọng nhất. Vai trò của
tri thức, của thông tin ngày càng to lớn trong việc tạo ra của cải vật chất cũng
như tinh thần và là yếu tố quyết định tạo nên sức cạnh tranh. Theo P.Drucker
(1994): “Các nước đang phát triển không còn có thể mong chờ đặt sự phát
triển của mình dựa trên lợi thế so sánh về lao động - tức lao động công nghiệp
rẻ - được nữa. Lợi thế so sánh có hiệu quả bây giờ phải là ứng dụng tri thức”.
Cũng từ đó cuộc cạnh tranh chủ yếu sẽ hướng vào việc giành ưu thế về tri
thức, thông tin, nắm bắt bí quyết công nghệ cao để tạo ra sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ nhằm thoả mãn tối đa những yêu cầu ngày càng phong phú, đa dạng
của khách hàng. Từ đặc điểm này đặt ra một số vấn đề là:
Thứ nhất, sức mạnh kinh tế của mỗi quốc gia chủ yếu tùy thuộc vào
nguồn vốn tri thức của quốc gia đó, tức là tùy thuộc vào nguồn lao động tri
thức và việc khai thác, sử dụng cũng như phương pháp nhân nguồn tri thức đó
lên nhiều hơn sự phụ thuộc vào đất đai, tài nguyên thiên nhiên.
Thứ hai, trọng tâm của mối quan hệ kinh tế quốc tế sẽ chuyển sang lĩnh
vực quan hệ về khoa học công nghệ và những lĩnh vực liên quan trực tiếp tới
khoa học công nghệ. Do đặc tính của nền kinh tế tri thức là tri thức có vai trò
quyết định, nên các quốc gia một mặt tăng cường đầu tư cho giáo dục, nghiên
cứu và phát triển , mặt khác tìm cách thu hút tri thức bằng nhiều con đường
khác nhau. Ngoài ra, vì tri thức mang một đặc điểm vốn có là tính chất xã hội
hóa cao nên muốn có được tri thức phải phát triển hợp tác rộng lớn trên các

lĩnh vực đào tạo, giáo dục, trao đổi chuyên gia, thông tin.
Thứ ba, trong nền kinh tế tri thức nhân tố thông tin có vai trò quan
trọng và có điều kiện phổ cập, công khai do đó đã tạo cơ sở cho việc thực

×