Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo khoa học: "KINH TẾ TRI THỨC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.71 KB, 5 trang )


KINH TẾ TRI THỨC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM


ThS. NCS. BÙI THỊ VÂN
Bộ môn Kinh tế chính trị
Khoa Lý luận chính trị
Trường Đại học Giao thông Vận tải


Tóm tắt: Bài viết khái quát những nội dung cơ bản về kinh tế tri thức và phân tích một số
vấn đề đặt ra đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong xu thế phát
triển của kinh tế tri thức
Summary: This article has an overview of the intellectual economy and analyses some
problems of Vietnam’s industrylization, modernnization in that economy

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu
đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Đây cũng là
thời kỳ kinh tế thế giới có bước chuyển biến
sâu sắc từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri
thức. Sự hình thành và phát triển kinh tế tri
thức là xu thế không thể đảo ngược, xu hướng
này cuốn theo tất cả các quốc gia mà không
loại trừ các nước nghèo, kém phát triển, nó có
tác động mạnh mẽ đối với các nước đang
trong quá trình công nghiệp hóa như Việt
Nam.


CT 2
II. NỘI DUNG
1.
Khái quát chung về kinh tế tri thức
Những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ
XXI, dưới sự tác động mạnh mẽ của tiến bộ
khoa học công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ
công nghệ thông tin, nền kinh tế thế giới đang
có bước chuyển từ thời đại của kinh tế công
nghiệp sang thời đại của kinh tế tri thức. Khái
niệm kinh tế tri thức được sử dụng phổ biến
hiện nay do Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế (OECD) đưa ra năm 1995: “Kinh tế tri thức
là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập
và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất
với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng
cao chất lượng cuộc sống.” Hiểu theo nghĩa
đơn giản, kinh tế tri thức là nền kinh tế trong
đó khoa học - công nghệ, kỹ thuật trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố quyết
định hàng đầu việc sản xuất ra của cải. Trong
kinh tế tri thức, kỹ thuật cao là nhân tố quyết
định nhất, các ngành kỹ thuật cao trở thành
những ngành mới thúc đẩy đổi mới cơ cấu
kinh tế, tri thức trở thành nhân tố quyết định
nhất của sản xuất, khoa học và công nghệ trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nền kinh tế
tri thức bao gồm chủ yếu các ngành kinh tế tri
thức. Các ngành kinh tế tri thức gồm:
- Các ngành sản xuất và dịch vụ mới dựa

trên công nghệ cao như dịch vụ khoa học công
nghệ, công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, các ngành công nghiệp công nghệ cao.



- Các ngành truyền thống như công
nghiệp, nông nghiệp được cải tạo bằng công
nghệ cao (theo các chuyên gia thì giá trị do tri
thức mới, công nghệ mới đem lại cho những
ngành này chiếm hơn 2/3 tổng giá trị).
Sự phát triển của nền kinh tế tri thức dựa
trên cơ sở nguồn lực dường như vô hạn, đó tài
nguyên tri thức. Điều này khác biệt so với sự
phát triển của nền kinh tế công nghiệp và
nông nghiệp là dựa vào nền tảng tài nguyên
lao động giản đơn và tài nguyên thiên nhiên-
những nguồn lực có hạn. Nguồn vốn cơ bản
của một nền kinh tế tri thức là nguồn vốn con
người, vốn vật chất mà cụ thể là kết cấu hạ
tầng và vốn xã hội. Trong đó, nguồn vốn con
người có giáo dục, có tri thức và năng lực
sáng tạo tri thức giữ vai trò là nguồn gốc và
động lực của sự phát triển kinh tế.
Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội to
lớn đối với quá trình công nghiệp hóa ở nước
ta. Nó mở ra vận hội mới để Việt Nam có thể
“đi tắt, đón đầu” trên con đường phát triển
kinh tế và thu hẹp dần khoảng cách với các
nước đi trước. Đồng thời với những cơ hội,

Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách
thức gay gắt như: khó tham gia một cách hiệu
quả vào quá trình phân công lao động quốc tế
bởi chúng ta chủ yếu là nhận sự di chuyển của
ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường,
tiêu tốn năng lượng hoặc cần nhiều sức lao
động dưới hình thức đầu tư từ các nước phát
triển. Tiếp cận những ngành được coi là bất
lợi thế này từ các nước phát triển, khiến chúng
ta sẽ phải chịu nhiều bất cập và càng trở nên
tụt hậu xa hơn.
CT 2
2. Một số vấn đề đặt ra đối với quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức
- Thứ nhất: Về mô hình công nghiệp hóa
Thực trạng quá trình công nghiệp hóa ở
Việt Nam trong thời gian qua cho thấy vẫn
dựa trên căn bản của mô hình công nghiệp hóa
thay thế nhập khẩu, biểu hiện ở những đặc
điểm như:
+ Thị trường đầu ra của các doanh nghiệp
Việt Nam, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp từ nước ngoài chủ yếu là thị
trường trong nước (mà chưa tập trung thực
hiện được mục tiêu xuất khẩu theo yêu cầu
của một nền kinh tế đang trong quá trình công
nghiệp hóa hướng về xuất khẩu).
+ Trong tổng giá trị xuất khẩu, chủ yếu là
sản phẩm thô, sơ chế (dầu thô, may mặc, hàng

nông lâm, hàng lắp ráp điện tử ). Tỉ trọng
hàng chế tạo, chế biến còn khiêm tốn. Tỉ trọng
ngành dịch vụ thấp, chỉ chiếm 13,4% tổng
kim ngạch xuất khẩu (mức trung bình của thế
giới là 20,0%).
+ Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mà
chủ yếu được đẩy mạnh bởi doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài trong một thể chế bảo hộ thương mại.
Trong lịch sử, mô hình công nghiệp hóa
thay thế nhập khẩu hay còn gọi là mô hình
“hướng nội” đã được các nước thế giới thứ ba
áp dụng từ những năm 1950. Đây là mô hình
công nghiệp hóa nhằm thay thế các mặt hàng
trước đây phải nhập khẩu bằng sản xuất trong
nước. Thực tế cho thấy ít có sự thành công từ
các nước thực hiện mô hình này. Vì vậy Việt
Nam cần nhanh chóng ra khỏi mô hình này.
Trong bối cảnh của toàn cầu hóa diễn ra
mạnh mẽ và xu thế phát triển của kinh tế tri
thức hiện nay đòi hỏi chúng ta cần phải đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước theo hướng hội nhập, từng bước phát
triển kinh tế tri thức. Mô hình công nghiệp



hóa theo hướng hội nhập được hiểu bao gồm:
+ Hướng về xuất khẩu.
+ Đồng thời đẩy mạnh tham gia phân

công lao động quốc tế.
Mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất
khẩu đã tỏ ra ưu việt hơn hẳn các mô hình
công nghiệp hóa trước đó qua sự thành công
của các nền kinh tế công nghiệp mới ở châu Á
(Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông,
). Đây là mô hình công nghiệp hóa “hướng
ngoại”; đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, dịch vụ
dựa trên lợi thế so sánh để xuất khẩu.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay cần phải đẩy mạnh tham
gia phân công lao động quốc tế. Phân công lao
động quốc tế hiện nay không chỉ là việc, mua
bán sản phẩm mà còn là phân công mang tính
trực tiếp ở bất kì khâu nào trong chu trình hoạt
động SXKD, từ ý tưởng, nghiên cứu, sản xuất,
maketing, bán hàng, sau bán hàng là xử lí phế
thải Việt Nam cần nhanh chóng gia nhập
được vào những khâu này mới có thể rút ngắn
được quá trình công nghiệp hóa đất nước.
CT 2
- Thứ hai: về chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế
Để thực hiện mô hình công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu cần xây dựng cơ cấu
ngành kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu
nhằm phát huy lợi thế của đất nước, tham gia
vào phân công lao động trên quy mô toàn thế
giới, tận dụng mọi cơ hội của nền kinh tế tri
thức. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở

nước ta trong thời gian từ đổi mới đến nay về
cơ bản mới chỉ mang ý nghĩa tạo công ăn việc
làm, nâng cao thu nhập mà chưa thực sự
hướng về xuất khẩu. Thực tế nền kinh tế nước
ta vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp với
khoảng 70% số dân sống và làm việc ở khu
vực nông nghiệp, nông thôn. Trong bối cảnh
chung của sự cạnh tranh gay gắt giữa các
nước xuất khẩu, các nước đi sau như Việt
Nam không thể sử dụng nguyên mẫu của các
mô hình có sẵn bởi dưới sự tác động của kinh
tế tri thức, những lợi thế so sánh truyền thống
(lao động rẻ, tài nguyên ) không được đánh
giá cao như trước đây. Sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở nước ta trong giai đoạn tới
cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với phát triển
kinh tế tri thức theo hướng đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nhằm tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao,
gắn với công nghiệp chế biến. Đưa tiến bộ
khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp,
nhất là công nghệ sinh học, thực hiện thủy lợi
hóa, cơ khí hóa, điện khí hóa cho phù hợp với
điều kiện, đặc điểm của từng vùng, từng địa
phương. Phấn đấu giảm tỉ trọng lao động
nông, lâm, ngư nghiệp xuống còn 50% tổng
lao động xã hội và nâng cao tỉ lệ thời gian sử
dụng lao động ở nông thôn lên khoảng 85%

vào năm 2010.
+ Phát triển các ngành công nghiệp và
dịch vụ gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Về nguyên lý, quá trình công nghiệp hóa
bắt đầu từ những ngành tập trung nhiều lao
động, chuyển dần sang các ngành tập trung
nhiều vốn sau chuyển sang những ngành tập
trung nhiều kỹ thuật (tri thức).
Đối với nước ta hiện nay vẫn cần phát
triển ngành sử dụng nhiều lao động. Song phải
xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển
những ngành sử dụng nhiều lao động với
những ngành có hàm lượng khoa học công
nghệ cao.



Quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam
hiện nay về cơ bản vẫn phải tuân theo quy luật
chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
trong thời kì công nghiệp hóa. Đồng thời phải
tích cực tiếp cận những lĩnh vực khoa học,
công nghệ hiện đại một cách có lựa chọn và
phải có sự chuẩn bị tốt các điều kiện về con
người, cơ chế chính sách và cơ sở vật chất.
Nghĩa là trong điều kiện thực tế ở nước ta
hiện nay, chúng ta chưa thể dốc toàn lực chỉ
để tập trung phát triển ngững ngành công
nghệ cao mà vẫn phải chú ý phát triển những
ngành sử dụng nhiều lao động. Song cần nâng

cao mức độ tri thức hóa nền kinh tế quốc dân,
ứng dụng khoa học-công nghệ trong mọi
ngành, nâng cao trình độ của người lao động.
Bước đầu phát triển một số ngành có hàm
lượng khoa học-công nghệ cao một cách chọn
lọc, sau từng bước chuyển sang những ngành,
những lĩnh vực có hàm lượng khoa học- công
nghệ cao hơn trong sự phân công lao động
quốc tế.
CT 2
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp công
nghệ cao, công nghệ chế tạo, công nghiệp
phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế
cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu;
phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu
kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công
nghiệp, khu chế xuất.
Tạo bước phát triển vượt bậc trong lĩnh
vực dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ chất
lượng cao, phát triển mạnh mẽ và nâng cao
chất lượng một số ngành vận tải, thương mại,
du lịch, tài chính, bảo hiểm
- Thứ ba: Phát triển giáo dục-đào tạo
nguồn nhân lực và khoa học-công nghệ đáp
ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Hiện nay các nước trên thế giới chuyển
dịch cơ cấu sản xuất hướng tới những sản
phẩm có hàm lượng tri thức cao, vì thế để quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hướng

tới xuất khẩu ở nước ta đạt hiệu quả, cần đặc
biệt coi trọng việc phát triển và ứng dụng
những thành tựu của khoa học công nghệ vào
sản xuất. Điều này đòi hỏi trong giai đoạn
trước mắt chúng ta phải ưu tiên nhập khẩu
công nghệ tiên tiến, bằng sáng chế phát minh,
xây dựng các trung tâm công nghệ cao. Vì vậy
vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức là nội dung đặc biệt
quan trọng.
Cốt lõi của kinh tế tri thức là tri thức, tri
thức luôn gắn với con người, do con người tạo
ra và tố chất của con người để có được tri thức
bao giờ cũng gắn với sự nghiệp giáo dục, đào
tạo. Để đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế tri
thức thì trước hết phải có một nền giáo dục
tiên tiến và lành mạnh, phát triển một xã hội
học tập. Ngày nay, do tri thức không ngừng
phát triển, nên người lao động phải được trang
bị kiến thức ở mức cao hơn, chuyên sâu hơn,
đặc biệt là những lĩnh vực liên quan đến kỹ
thuật để tăng khả năng phổ cập, giải thích và
áp dụng tri thức mới. Chính sách giáo dục ở
nước ta hiện nay phải nhằm khắc phục tình
trạng ngày càng thiếu hụt lao động có trình độ
cao đặc biệt về công nghệ thông tin và tri thức
trong khi lao động giản đơn, dư thừa quá
nhiều.
Trong giai đoạn trước mắt chúng ta cần

tăng cường đầu tư vào việc phổ cập giáo dục
cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng hướng vào
người nghèo để giải quyết căn bản tình trạng
quá nhiều lao động giản đơn và đáp ứng nhu
cầu phát triển nền kinh tế chú trọng phổ biến
thông tin và tri thức đến các tầng lớp dân



chúng. Đồng thời, cần tăng đầu tư vào giáo
dục đại học và sau đại học, đặc biệt là các lĩnh
vực kỹ thuật để thu nhận được công nghệ
trong một thế giới thường xuyên có sự biến
chuyển tri thức. Khuyến khích liên kết giữa
các trường đại học, viện nghiên cứu trong đào
tạo, nghiên cứu và ứng dụng, triển khai, đổi
mới phương pháp và giáo trình giảng dạy.
III. KẾT LUẬN
Quá trình phát triển kinh tế tri thức cùng
với xu hướng toàn cầu hóa đang tác động to
lớn tới cấu trúc kinh tế, phương thức hoạt
động và tổ chức quản lý về kinh tế, xã hội
trong mỗi quốc gia. Nó mở ra nhiều cơ hội
cho các nước đang phát triển như nước ta có
thể “đi tắt, đón đầu” trên con đường phát triển
kinh tế và thu hẹp khoảng cách tụt hậu. Kinh
tế tri thức đặt ra những vấn đề mới cho quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong giai đoạn tới ở nước ta. Chúng ta cần
phải thực hiện đồng thời cả hai nhiệm vụ công

nghiệp hóa và tri thức hóa để đưa đất nước
phát triển, hội nhập vào kinh tế thế giới. Vì
thế, phải có ý thức và chủ động tiếp cận, sử
dụng mọi mặt tích cực của kinh tế tri thức vào
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta.
CT 2

Tài liệu tham khảo
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X
[2]. Đặng Hữu: “Kinh tế tri thức với chiến lược
phát triển của Việt Nam”, bài viết cho Hội thảo về
kinh tế tri thức tháng 6/2000.
[3]. Nguyễn Xuân Thắng: “Kinh tế tri thức: kinh
nghiệm của một số nước phát triển”, tạp chí những
vấn đề kinh tế thế giới số 5/2000♦


×