ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
NGUYỄN VĂN TÙNG
LÀNG NGHỀ Ở HẢI PHÒNG TRONG BỐI
CẢNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI – 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
NGUYỄN VĂN TÙNG
LÀNG NGHỀ Ở HẢI PHÒNG TRONG BỐI
CẢNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHAN HUY ĐƢỜNG
HÀ NỘI – 2009
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: LÀNG NGHỀ VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN
LÀNG NGHỀ CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG ĐỐI VỚI HẢI PHÒNG
1.1. Làng nghề và các điều kiện phát triển làng nghề.
1.1.1. Vai trò của làng nghề trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.2. Các điều kiện phát triển làng nghề.
1.2. Kinh nghiệm phát triển làng nghề của một số địa phƣơng
trong nƣớc và bài học cho Hải Phòng.
1.2.1. Phát triển làng nghề ở Hà Nội ( Hà Tây cũ ).
1.2.2. Phát triển nghề ở Bắc Ninh.
1.2.3. Bài học cho phát triển làng nghề ở Hải Phòng.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HẢI PHÒNG
TỪ 2000 ĐẾN NAY
2.1. Các nhân tố ảnh hƣởng đến phát triển sản xuất làng nghề
Hải Phòng .
2.1.1. Các nhân tố tự nhiên, kinh tế – xã hội.
2.1.2. Cơ chế chính sách phát triển làng nghề Hải Phòng.
2.1.3. Cơ sở vật chất, vốn lao động phát triển làng nghề Hải Phòng.
2.2. Đánh giá thực trạng phát triển làng nghề Hải Phòng.
2.2.1. Những kết quả đạt được trong những năm qua.
2.2.2. Tồn tại và nguyên nhân.
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở
HẢI PHÒNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
2
3.1. Định hƣớng phát triển làng nghề Hải Phòng trong bối cảnh mới của đất
nƣớc.
3.1.1. Bối cảnh Quốc tế và trong nước tác động phát triển làng nghề Hải Phòng.
3.1.2. Định hướng phát triển làng nghề Hải Phòng trong bối cảnh mới của đất
nước.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề ở Hải Phòng.
3.2.1. Giải pháp về công tác quy hoạch, kế hoạch.
3.2.2. Giải pháp vốn đầu tư.
3.2.3. Về tài chính, tín dụng.
3.2.4. Giải pháp về thị trường và xúc tiến thương mại.
3.2.5. Giải pháp về khoa học công nghệ.
3.2.6. Phát triển nguồn nhân lực.
3.3. Các giải pháp khác.
3.3.1. Chính sách ưu đãi tôn vinh nghệ nhân.
3.3.2. Giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường.
3.3.3. Xây dựng chiến lược thương hiệu.
3.3.4. Gắn kết phát triển làng nghề với du lịch.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư đến 2020.
Bảng 2.2: Hiện trạng phân bố làng nghề Hải Phòng.
Bảng 2.3: Kết quả sản xuất chế biến kết hợp chăn nuôi lợn năm 2007.
Bảng 2.4: Kết quả hạch toán sản xuất một hộ nông nghiệp kiêm nghề đan thúng
năm 2007.
Bảng 2.6: So sánh giá trị kinh tế của làng nghề trong kinh tế nông thôn Hải
Phòng.
Bảng 2.7: Sản lượng xuất khẩu thảm len Hải Phòng 2000 – 2007.
Bảng 2.8: So sánh lao động trong làng nghề với tổng số lao động vùng nông
thôn.
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ NN &PTNN : Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
BLĐTBXH : Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội
CN : Công nghiệp
CNH : Công nghiệp hoá
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
HĐH : Hiện đại hoá
HTX : Hợp tác xã
NNNT : Nông nghiệp nông thôn
SXKD : Sản xuất kinh doanh
SXVLXD : Sản xuất vật liệu xây dung
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, kinh tế
tăng trưởng với tốc độ cao so với các nước trong khu vực và thế giới, cơ cấu
GDP chuyển dịch tích cực, tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và thương mại
- dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tuy nhiên, đến nay nước ta vẫn là nước
nông nghiệp, trong những năm tới nông nghiệp nông thôn vẫn đóng vai trò quan
trọng đối với đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Khu vực nông thôn hiện nay,
nơi chiếm khoảng 70% dân số và 70% lực lượng lao động cả nước đang có biểu
hiện tụt hậu so với khu vực đô thị, nhất là về mặt thu nhập, điều kiện sống và cơ
hội việc làm. Do vậy, phát triển làng nghề là nội dung lớn của Đảng và Nhà
nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội nông thôn, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hải Phòng nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng và thuộc vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ, với diện tích 1,52 nghìn km2, dân số gần 1,8 triệu người,
mật độ dân số cao so với cả nước. Hải Phòng có nhiều tiềm năng lợi thế phát
triển kinh tế - xã hội, vừa là trung tâm công nghiệp của cả nước, lại là cửa ngõ
quan trọng bằng cảng biển để giao lưu thương mại với thế giới. Nông nghiệp
Hải Phòng không lớn, diện tích đất canh tác trong nông nghiệp thấp. Trong khi
hiện nay còn khoảng 60% dân số, lao động sống và làm việc ở nông thôn cùng
với sự chuyển đổi 100 ha đất nông nghiệp bình quân mỗi năm cho công nghiệp
và mục đích sử dụng khác đang là sức ép lớn về lao động và đời sống dân cư
Hải Phòng. Do vậy, phát triển làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất
khẩu; thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, bố trí lại lao động và sử
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, xây dựng nông thôn, bố trí lại lao động và sử
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện
trong bối cảnh hiện nay là một đòi hỏi cấp thiết đối với Hải Phòng.
6
Vì vậy, tôi chọn đề tài: "Làng nghề ở Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế" làm đề tài nghiên cứu Luận văn Thạc sỹ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Phát triển làng nghề là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Do vậy đã có nhiều nhà nghiên cứu tiêu
biểu như:
- Mai Thế Hởn ( 2000)- " Phát triển làng nghề truyền thống trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng ven đô Hà Nội", Luận án Tiến sỹ
Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Minh Yến (2003) " Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Viện Kinh tế học Hà
Nội.
- Bộ Nông nghiệp và Nông thôn (2005), "Phát triển ngành nghề nông thôn
trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đến năm 2010".
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng (2006), Báo cáo
khoa học: Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp ngành nghề nông
thôn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Hải Phòng đến 2010.
Và một số công trình của GS.TS Nguyễn Đình Phan, PGS.TS. Hoàng
Kim Giao
Tuy vậy, mỗi tác giả có cách tiếp cận khác nhau về vấn đề phát triển làng
nghề và chủ yếu tập trung vào những vấn đề lý luận chung như: vai trò, sự cần
thiết, các yếu tố tác động của phát triển làng nghề trong điều kiện kinh tế quốc
dân. Song cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào đề cập đến vấn đề "Làng
nghề ở Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế" một cách đầy đủ và
hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
7
- Định hướng một số lĩnh vực ưu tiên phát triển làng nghề ở Hải Phòng
trong thời gian tới;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển làng nghề ở Hải
Phòng thời gian tới.
*Nhiệm vụ:
- Làm rõ vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội ở Hải
Phòng;
- Đánh gía thực trạng làng nghề ở Hải Phòng trong thời gian qua (giai
đoạn từ năm 2000 đến nay);
- Phân tích, tổng hợp, đánh giá điểm mạnh, cơ hội và thách đối với làng
nghề ở Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về phát triển làng
nghề;
- Trên cơ sở lý luận chung, luận văn đi nghiên cứu quá trình phát triển
làng nghề ở Hải Phòng (gồm 7 huyện và ở thành phố là: Vĩnh Bảo, Tiện Lãng,
Kiến Thuỵ, An Lão, An Dương, Thuỷ Nguyên, Cát Hải và thị xã Đồ Sơn);
- Sự khảo cứu của Luận văn được giới hạn trong khoảng thời gian từ năm
2000 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiện cứu
- Các phương pháp nghiên cứu cơ bản của môn kinh tế chính trị;
- Đặc biệt, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền
thống: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, logic, xử lý số liệu.
6. Dự kiến đóng góp mới của Luận văn
- Làm rõ những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Hải
Phòng đến quá trình phát triển làng nghề;
- Các nhân tố tác động hoạt động phát triển sản xuất của làng nghề Hải
Phòng;
8
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng phát triển làng nghề
ở Hải Phòng trong thời gian qua và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế;
- Trên cơ sở này, Luận văn đề xuất định hướng và một số giải pháp phát
triển làng nghề ở Hải Phòng.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm: 3
chương, 9 tiết.
9
CHƢƠNG 1
LÀNG NGHỀ VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN LÀNG
NGHỀ CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG ĐỐI VỚI HẢI PHÒNG
1.1.Làng nghề và Các điều kiện phát triển làng nghề
1.1.1.Vai trò của làng nghề trong nền kinh tế quốc dân
1.1.1.1.Khái niệm về làng nghề
Làng là khái niệm đã xuất hiện rất lâu đời và tồn tại cùng lịch sử phát triển
của đất nước. Suốt nhiều thế kỷ qua, làng là đơn vị tụ cư cổ truyền lâu đời ở
nông thôn Việt Nam và là nhân tố cơ sở cho hệ thống nhà nước quân chủ tại
Việt Nam. Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: “ Làng là khối dân
cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt và là đơn
vị hành chính thấp nhất thời phong kiến”. Theo www.vi.wikipedia.org: “ Làng
một tập hợp những người có thể có cùng huyết thống, cùng phương kế sinh nhai
trên một vùng nhất định”. Đặc biệt, làng có tính tự trị, khép kín, độc lập và là
một vương quốc nhỏ trong vương quốc lớn nên mới có câu: “ Phép vua thua lệ
làng” hay “ Hương đảng, tiểu triều đình”. Hiện nay, trong cách nói hàng ngày
chúng ta vẫn gặp nhiều những câu nói có liên quan đến từ làng như luỹ tre làng,
người cùng làng. Ngoài ra, làng còn là phạm trù văn hoá vì văn hoá đặc trưng
của người Việt là văn hoá làng.
Cũng theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: “ Nghề là công việc
chuyên làm theo sự phân công lao động xã hội” như nghề dạy học, nghề nông,
nghề mộc, nghề ngão, tay nghề, nhà nghề, lâu năm trong nghề.
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm
trước đây, nhiều nghề thủ công đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam. Việc
hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được dân cư tranh thủ
làm lúc nông nhàn, những lúc không phải vào vụ chính. Bởi lẽ kinh tế của người
Việt trước đây chủ yếu sống dựa vào việc trồng lúa nước, mà nghề này chỉ bận
rộn vào những ngày đầu vụ và cuối vụ, còn giữa vụ thì khá nhàn rỗi. Từ đó,
10
nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm thêm công việc phụ để làm nhằm mục đích ban
đầu là cải thiện bữa ăn, thoả mãn những nhu cầu thiết yếu hàng ngày và tiến tới
tăng thêm thu nhập cho gia đình
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó,
mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra đồ dùng bằng mây, tre,
lụa…phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ chỗ
chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hoá trao đổi, đã mang lại lợi ích
kinh tế to lớn cho người dân vốn truớc đây chỉ trông chờ vào các vụ lúa. Từ chỗ
một vài nhà trong làng làm, dần dần nhiều gia đình thấy có lợi cũng học làm
theo, nghề từ đó lan rộng ra phát triển trong cả làng hay nhiều làng gần nhau.
Và cũng chính nhờ vào những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem
lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hoá. Nghề nào đem lại lợi ích nhiều thì
phát triển mạnh dần; ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp
với làng thì dần bị mai một. Từ đó, bắt đầu hình thành nên những làng nghề
chuyên sâu vào một nghề nào đó. Nghĩa là mỗi làng có một sản phẩm đặc trưng
riêng và sản phẩm đó thường gắn liền với tên gọi của làng như làng làm gốm
(Gốm Bát Tràng), làng làm nón (nón làng chuông), làng làm lụa (lụa Vạn Phúc),
làng đúc đồng (đồng Ngũ Xã)…
Để hiểu được khái niệm làng nghề chúng ta cần phân tích thế nào là làng và
nghề. Làng là khái niệm xuất hiện và được chấp nhận từ rất lâu đời, tồn tại cùng
lịch sử của đất nước. Khi đó, khái niệm làng khá phổ biến vì đó là đơn vị hành
chính chủ yếu, đặc trưng nhất của nước ta. Chúng ta thường sử dụng các câu nói
có trong dân gian như “ tình làng nghĩa xóm”, “sau luỹ tre làng”. Bên cạnh đó
còn tồn tại khái niệm nghề. Khi làng là đơn vị hành chính chủ yếu, đặc biệt
trong thời kỳ phong kiến thì khái niệm nghề cũng tồn tại song song. Ngành nghề
chủ yếu của nông dân thời kỳ này trồng trọt, chăn nuôi (kinh tế nông nghiệp
nông thôn), bên cạnh đó ở các vùng nông thôn còn có thêm các hoạt động của
một số nghề thủ công với mục đích ban đầu là sản xuất ra một số hàng gia dụng
11
tự cung, tự cấp dựa trên những nguồn nguyên nhiên liệu sẵn có. Tuy nhiên, dựa
trên những cơ sở đó và trải qua một thời gian dài tích luỹ, phát triển, mục đích
của các mặt hàng thủ công này vượt ra khỏi quy mô hộ gia đình, tham gia vào
thị trường và phục vụ cho số đông hơn. Các sản phẩm làm ra đa dạng hơn, có
tính chuyên môn hoá (một làng nổi tiếng về một mặt hàng thủ công). Khi đó, các
mặt hàng được đưa ra giao dịch, trao đổi và tiêu thụ trên thị trường và được dân
làng phát triển đã trở thành một nghề trong xã hội, được xã hội chấp nhận.
Do đó, khái niệm làng nghề dần dần được chấp nhận. Tuy nhiên, làng nghề
được phân biệt với phường hội, vì phường hội tồn tại ở các đô thị. Còn làng
nghề tồn tại ở nông thôn nơi trình độ và công nghệ làng nghề ở khu vực này vẫn
mang nặng hoạt động thủ công và gắn với sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, làng nghề là sự kết hợp giữa khái niệm làng và nghề, trong làng có
nghề và nghề thường gắn với mỗi làng. Chính sự phức tạp này nên hiện nay vẫn
còn nhiều cách hiểu và khái niệm khác nhau về làng nghề. Dưới đây là một số
khái niệm khác nhau về làng nghề được tổng hợp từ các nguồn tài liệu:[3]; [4];
[6]; [7]; [8]; [9]; [10]; và [13]:
Khái niệm thứ nhất: Làng nghề là một thiết chế kinh tế – xã hội ở nông
thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian
địa lý nhất định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ
công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hoá.
Khái niệm thứ hai: Làng nghề được tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch
sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống, là nơi quy tụ
các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ gia đình chuyên làm
nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ nhau trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các thành viên luôn ý thức
tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc.
Khái niệm thứ ba: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều
hoạt động cho nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu. Nhưng với khái niệm
12
này thì làng nghề đó hiện nay không còn nhiều. Ví dụ như nghề gốm chỉ có ở
Phù Lãng (Bắc Ninh), Bát Tràng (Hà Nội).
Đó là những làng thuần nhất không làm ruộng, còn đa số vừa làm nghề, vừa
làm ruộng, ở đây thủ công nghiệp đối với họ chỉ là nghề phụ để tăng thu nhập
mà thôi.
Khái niệm thứ tƣ: Làng nghề là trung tâm Sản xuất thủ công, nơi quy tụ các
nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự
liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống
doanh nghiệp vừa và nhỏ, và có cùng tổ nghề. Song ở đây chưa phản ánh đầy đủ
tính chất của làng nghề; nó là một thực thể sản xuất kinh doanh tồn tại và phát
triển lâu đời trong lịch sử là một đơn vị kinh tế TTCN có tác dụng to lớn đối với
đời sống kinh tế – văn hoá - xã hội một cách tích cực.
Từ cách tiếp cận này ta có thể thấy khái niệm làng nghề liên quan đến các
nghề thủ công cụ thể. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi của các nghề
thủ công như nghề gốm sứ, đúc đồng, khảm trai, kim hoàn, dệt vải, dệt tơ lụa.
Qua một số khái niệm nói trên, ta có khái quát như sau: Làng nghề là một
không gian kinh tế nhất định, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, chủ
yếu liên quan tới các nghề thủ công và một số dịch vụ, trong đó lao động và thu
nhập từ nghề này chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông cũng có Thông tư số 116/2006/TT
BNN ngày 18/12/2006 đưa những tiêu chí cụ thể sau:
- Số hộ làm nghề đó chiếm từ 25%;
- Thu nhập từ nghề đó chiếm trên 50%;
- Gía trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của
làng;
- Thời gian phát triển ổn định từ 2 năm trở lên. [1]
1.1.1.2. Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế quốc dân
13
Trong những năm qua Việt Nam thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn và được cụ thể hoá thêm một bước tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ IX: “ Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên
một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công
nghệ sinh học, tăng giá trị trên đơn vị diện tích, giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ
nông sản hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã
hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành đa dạng, chú trọng
công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một
bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ,
tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống
nông dân và cư dân ở nông thôn.
Đối với ngành nghề nông thôn, nhiệm vụ của nó đã được nhấn mạnh hơn
trong phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2005
-2010 là mở rộng các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiêu thủ công
nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệp sơ chế và chế biến
nông thôn và vùng nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ
thuật, trao đổi nông sản hàng hoá ở nông thôn…tăng nhanh việc làm cho khu
vực phi nông nghiệp.
Đến nay nước ta cơ bản vẫn là nước nông nghiệp, phần lớn người dân sống ở
nông thôn và làm nông nghiệp. Bên cạnh nghề trồng trọt, chăn nuôi là chính thì
trong nông thôn còn hoạt động nhiều ngành nghề mà vẫn thường gọi là nghề
phụ. Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước đến năm
2007 có 2017 làng nghề; 1,4 triệu hộ sản xuất ngành nghề, tăng 5,3 % so với
năm 2005; tạo ra giá trị sản xuất khoảng trên 40.000tỷ đồng/năm; tốc độ tăng
trưởng bình quân khoảng 9 -10%/năm; giá trị xuất khẩu đạt khoản 2,1tỷ USD;
giải quyết việc làm cho hơn 11 triệu lao động. Cơ cấu các nhóm ngành nghề ở
các làng nghề hiện nay là” Chế biến nông lâm thuỷ sản chiếm 17,26%, nhóm
14
tiểu thủ công nghiệp chiếm 32,5%, nhóm dịch vụ chiếm 49,88% và các ngành
nghề khác chiếm 0,36%.
Từ những vấn đề trên, ta hãy tìm hiểu làng nghề đã có vai trò gì đối với sự
phát triển kinh tế, ổn định xã hội trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay.
+ Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
công nghiệp hoá, đó là việc góp phần làm tăng tỉ lệ trọng của công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỉ trọng của nông nghiệp, chuyển lao động
từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có
thu nhập cao hơn. Sự phát triển lan toả của làng nghề đã mở rộng quy mô và địa
bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động.
Xét trên góc độ phân công lao động thì làng nghề truyền thống đã có tác
động tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Nó không chỉ cung cấp tư liệu sản xuất
cho khu vực nông nghiệp mà còn có tác dụng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ
ngành nông nghiệp. Chẳng hạn khi ngành nghề chế biến phát triển, yêu cầu
nguyên liệu từ nông nghiệp phải nhiều hơn, đa dạng hơn và chất lượng cao hơn.
Do vậy, trong nông nghiệp hình thành những khu vực nông nghiệp chuyên môn
hoá, tạo ra năng xuất lao động cao và nhiều sản phẩm hàng hoá. Đồng thời
người nông dân trước yêu cầu tăng lên của sản xuất sẽ tự thấy nên đầu tư vào
lĩnh vực nào là có lợi nhất. Trên một mảnh đất canh tác họ sẽ quyết định chuyển
hoạt động sản xuất của mình từ lĩnh vực hoạt động kém hiệu quả cho thu nhập
thấp (như trồng lúa) sang trồng các loại cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả
cho thu nhập cao, khi điều kiện tự nhiên của vùng đó cho phép. Như vậy quá
trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã được thực hiện dưới tác động
của sản xuất và nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình này là
dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan, khi đó cung vượt quá cầu, sản phẩm không
tiêu thụ được, sản xuất sẽ bị ngừng trệ.
15
Mặt khác, có thể thấy kết quả sản xuất ở các làng nghề cho thu nhập và giá trí
sản lượng cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp. Do từng bước tiếp cận với
nền kinh tế thị trường, năng lực thị trường được nâng lên, người lao động nhanh
chóng chuyển sang đầu tư cho các ngành nghề phi nông nghiệp đặc biệt là
những ngành mà sản phẩm có khả năng tiêu thụ mạnh ở thị trường trong nước
và thế giới. Khi đó khu vực sản xuất nông nghiệp sẽ bị thu hẹp lại khu vực sản
xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được tăng lên. Sự phát triển này đã
khẳng định một hướng đi đúng, nó tạo ra cơ sở kinh tế ngoài nông nghiệp cho
nhiều vùng thuần nông trước đây chỉ chuyên sản xuất lúa, chăn nuôi và một vài
nghề trồng trọt khác.
+Tăng giá trị tổng sản phẩm hàng hoá cho nền kinh tế
Sự phục hồi và phát triển các làng nghề truyền thống có ý nghĩa rất quan
trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội nông thôn. Với quy mô nhỏ bé được
phân bố rộng khắp ở các vùng nông thôn, hàng năm các làng nghề luôn sản xuất
ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá khá lớn, đóng góp đáng kể cho nền kinh
tế quốc dân nói chung và cho Hải Phòng nói riêng. Sản phẩm của các làng nghề
tạo ra hàng hoá xuất khẩu để thu ngoại tệ, vài năm gần đây, tính riêng sản phẩm
của 300 làng nghề truyền thống đã có mặt ở trên 100 nước, giá trị xuất khẩu đạt
trên 2,1tỷ USD/năm, chiếm 2,2% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (năm
2007). Các mặt hàng xuất khẩu rất được ưa chuộng như gốm mỹ nghệ, mây tre
đan, hàng thêu ren, thổ cẩm, gỗ mỹ nghệ, gỗ dân dụng, thảm len. Năng lực sản
xuất, kinh doanh của các làng nghề là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển sản
xuất hàng hoá ở nông thôn. Qua số liệu của một số làng nghề điển hình ở một số
địa phương đã nói lên sự đóng góp quan trọng của các làng nghề trong việc làm
tăng tổng giá trị sản phẩm hàng hoá:
Tỉnh Nam Định có tổng giá trị sản phẩm hàng hoá của các làng nghề đạt 224
tỷ đồng/năm. Chỉ tính riêng ba làng nghề Vân Chàng, Đồng Côi, Thôn Tư của
xã Nam Giang (huyện Nam Trực) đạt giá trị hàng hoá 50tỷ đồng/năm, làng nghề
16
Xuân Tiến đạt 22,2 tỷ đồng/năm, làng nghề Yên Xá đạt 16 tỷ đồng/năm. Năm
2000, doanh thu từ ngành nghề phi nông nghiệp (trừ dịch vụ, thương mại) là
92,8tỷ đồng;
Tỉnh Bắc Ninh, năm 2006 giá trị sản phẩm hàng hoá của các làng nghề đạt
560 tỷ đồng. Năm 2007 là 620 tỷ đồng, tăng 10%, chiếm tổng giá trị sản xuất
công nghiệp ngoài quốc doanh. Riêng làng nghề Đông Kỵ đạt trên 150 tỷ
đồng/năm, chỉ tính riêng năm 2007, làng nghề ở Bắc Ninh đã nộp cho ngân
sách nhà nước là 66,500 tỷ đồng, trong khi các xí nghiệp quốc doanh chỉ thu
được 3,4 tỷ đồng;
Tỉnh Hải Dương giá trị công nghiệp của ngành nghề nông thôn đạt 1100 tỷ
đồng năm 2007, đạt gần gấp đôi so với năm 2000 là 637 tỷ đồng. Một số làng
nghề truyền thống tiêu biểu như làng nghề vàng bạc Châu Khê, sản phẩm sản
xuất được trong năm 2007 là 1400 kg, doanh thu đạt 14 tỷ đồng, trong đó 90%
sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu;
Thành phố Hải Phòng, năm 2007 giá trị sản phẩm hàng hoá của các làng
nghề đạt 205 tỷ đồng, riêng làng nghề rèn đúc truyền thống Mỹ Đồng đạt 4,8 tỷ
đồng/năm, làng sản xuất vật liệu xây dựng đạt 23 tỷ đồng/ năm, làng hoa Đằng
Hải đạt 25 tỷ đồng/năm.
Chẳng hạn nghề trồng và chế biến cau khô ở Cao nhân có từ lâu đời, nhưng
trồng và chế biến cau phát triển mạnh từ năm 1994 trở lại đây, Cao nhân có tổng
diện tích trồng cau khoảng trên 300ha, chiếm 14% đất nông nghiệp của xã. Cau
không chỉ tiêu thụ nội địa mà còn xuất khẩu đi Đài Loan, Trung Quốc, Hồng
Kông, mỗi năm từ đây xuất khẩu qua con đường tiểu ngạch khoảng 2000 tấn cau
khô, đạt doanh thu 40 tỷ đến 45 tỷ đồng;
Làng nghề Phục Lễ ở Hải Phòng: Hiện có 160 cơ sở sản xuất mộc, trong đó
có 30 xưởng lớn chủ yếu là buôn bán gỗ, xẻ gỗ đóng đồ, phục vụ xây dựng nhà
cửa, đóng tàu thuyền. Nghề này cho doanh thu 1năm khoảng 6 tỷ đồng;
17
Những sản phẩm của làng nghề tạo ra những mặt hàng tham gia vào thị
trường xuất khẩu hàng năm như chế biến và đông lạnh, rau quả, thảm len, hàng
thủ công mỹ nghệ khác, hằng năm đem lại kim ngạch xuất khẩu hàng trăm triệu
USD.
Qua các dẫn chứng trên, có thể thấy giá trị sản phẩm hàng hoá trong các làng
nghề đạt được là rất đáng kể và tốc độ của nó tăng đều qua các năm. Tỷ trọng
hàng hoá ở các làng nghề truyền thống cao hơn nhiều so với các làng thuần
nông. Như vậy, rõ ràng là ở nơi nào có nhiều làng nghề thì kinh tế hàng hoá ở đó
phát triển hơn.
+Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời lao động nông
thôn
Phát triển toàn diện kinh tế – xã hội nông thôn, tạo việc làm, nâng cao đời
sống cho dân cư nông thôn là vấn đề quan trọng ở nước ta hiện nay. Với 80%
dân số và 73% lao động cả nước, đất đai canh tác lại bị hạn chế bởi giới hạn của
tự nhiên - đây là một thách đố lớn đối với sự phát triển nông nghiệp và kinh tế
nông thôn. Vấn đề đặt ra là phải làm sao giải quyết được công ăn việc làm cho
lực lượng lao động này, đồng thời tăng thu nhập cho các hộ gia đình trong nông
thôn còn khoảng 1/3 chưa sử dụng. Nghĩa là có khoảng trên 10 triệu lao động dư
thừa. Do vậy vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho lao động nông thôn trở nên
hết sức khó khắn, đòi hỏi sự hỗ trợ về nhiều mặt và đồng bộ của các ngành nghề
và các lĩnh vực.
Những năm gần đây hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp, trong đó bao
gồm các nghề truyền thống đã thu hút hơn 11 triệu lao động, chiếm 30,5% lực
lượng lao động nông thôn. Tỷ lệ này chưa phải là cao song cũng góp phần tạo
thêm việc làm cho người lao động. Hiện nay, trong các làng nghề truyền thống,
bình quân mỗi cơ sở chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định cho 27 lao động
thường xuyên và 8-10 lao động thời vụ, mỗi hộ chuyên nghề tạo việc làm cho 4-
6 lao động thường xuyên và 2-5 lao động thời vụ. Đặc biệt ở nghề dệt, thêu ren,
18
mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút 200 – 250 lao động. Nhiều làng nghề thu
hút trên 60% lao động tham gia vào các hoạt động ngành nghề tăng thu nhập cho
người lao động, thu nhập từ ngành nghề ở các làng nghề có khi gấp từ 3-5 lần so
với lao động thuần nông và trở thành nguồn thu nhập chính.
Làng nghề mộc Đồng Kỵ Bắc Ninh: Nơi đây nhiều công đoạn của nghề đã sử
dụng được bằng máy móc do vậy đã giảm được chi phí giá thành, nhiều mẫu mã
được khai thác và kết hợp với phong cách hiện đại do vậy đáp ứng được nhu cầu
của thị trường trong nước và xuất khẩu. Thu nhập lao động bình quân làng nghề
này từ 1,2 – 1,7 triệu đồng/tháng, những người thợ có tay nghề đòi hỏi kỹ thuật
tinh xảo có thu nhập cao hơn;
Nghề dệt cói có từ thế kỷ thứ 10, hiện nay theo số liệu điều tra của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn cả nước có 281 làng nghề dệt cói và phát triển
mạnh nhất ở các tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá. Nghề dệt cói thu hút gần 250
nghìn lao đông, chủ yếu là lao động nữ, thu nhập trung bình thường thấp khoảng
350.000 đồng/ tháng. Sản phẩm sản xuất ra không chỉ tiêu thụ trong nước, còn
xuất khẩu ra nước ngoài;
Nghề mây tre đan là một trong những nghề tiêu biểu của Việt Nam. Theo kết
quả điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hiện nay toàn quốc có
713 làng nghề mây tre đan, chiếm 35,3% tổng số làng nghề ở Việt Nam, số
lượng lao động tham gia sản xuất gần 350 nghìn người, nghề này phát triển rộng
khắp cả nước những làng nghề chính tập trung ở Hà Tây, Thái Bình, Thanh Hoá,
Sơn La;
Nghề thêu ren có lịch sử phát triển lâu đời, hiện nay trên toàn quốc có 341
làng nghề, chủ yếu tập trung ở vùng Đồng bằng Sông Hồng chiếm 70%. Sản
phẩm thêu ren chủ yếu là thêu quần áo, khăn trải bàn, tranh ảnh và các đồ sinh
hoạt hàng ngày. Phần lớn lao động nghề này là phụ nữ chiếm tới 90%, nghề
thêu là nghề thuần tuý thủ công lên thu hút lao động làm kiêm hoặc tranh thủ lúc
thời gian nhàn rỗi trong nông nghiệp.
19
Ở Hải Phòng hiện có 31 làng nghề thu hút được 24.200.000 lao động, trong
đó 56% lao động chuyên, 44% lao động kiêm, giá trị sản xuất năm 2004 đạt
240.690 triệu đồng, trung bình 7.521,6 triệu đồng / làng nghề.
Chẳng hạn như một số làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm với các sản
phẩm truyền thống như bánh đa, bún, đậu phụ, làm cốm…Nơi có làng nghề chế
biến lương thực phát triển là xã Tân Tiến có 44 hộ giá trị sản xuất đạt 3,5 tỷ
đồng, thu nhập người lao động từ nghề đối với lao động chuyên bình quân
550.000 đồng – 650.000đồng/tháng, đối với lao động kiêm thu nhập từ 350
nghìn đến 400 nghìn đồng/tháng;
Nghề mây tre đan: là nghề truyền thống của xã Hồng Thái, Đặng Cương sản
phẩm chủ yếu là đăng, đó phục vụ sản xuất, nuôi trồng thuỷ sản. Nghề đã thu
hút 120 hộ tham gia với 200 lao động, giá trị sản xuất đạt 1,5 tỷ đồng, Thu nhập
bình quân lao động từ nghề này đối với lao động chuyên 1.000.000đồng/tháng,
lao động kiêm 500.000 đồng/tháng;
Làng nghề nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản Lập Lễ: nuôi trồng, đánh bắt và
chế biến thuỷ sản tập trung chủ yếu ở xã Lập Lễ, với 840 tàu cá thu hút 4000 lao
động, thu nhập bình quân từ 1,2 triệu – 1,5 triệu đồng;
Xã Mỹ Đồng có hai thôn (Đồng Lý và Phương Mỹ), nghề đúc chỉ tập trung ở
làng Phương Mỹ. Gía trị sản xuất năm 2006 là 148, 29 tỷ đồng, từ nông nghiệp
có 11,417 tỷ đồng (bằng 8,97%), thu nhập bình quân chung đạt 7,06 triệu
đồng/người/năm, những lĩnh vực nông nghiệp chỉ đạt 1,5 triệu đồng/người/năm.
Như vậy, có thể nói vai trò của làng nghề truyền thống rất quan trọng, nó là
một bộ phận hợp thành của công nghiệp nông thôn, được coi là động lực trực
tiếp giải quyết việc làm cho người lao động, đồng thời góp phần làm tăng thu
nhập cho người lao động nông thôn. Thực tế cho thấy nơi nào có ngành nghề
phát triển thì nơi đó có thu nhập cao và mức sống cao hơn so với các vùng thuần
nông. Nếu so sánh với mức thu nhập của lao động nông nghiệp thì lao động ở
các ngành nghề cao hơn từ 3 đến 5 lần, đặc biệt là so với chi phí về lao động và
20
diện tích sử dụng đất thấp hơn nhiều so với sản xuất nông thôn nghiệp. Bình
quân thu nhập của một lao động trong hộ chuyên ngành nghề phi nông nghiệp là
850.000 đồng đến 1.500.000 đồng/tháng, hộ kiêm nghề từ 500.000 đồng đến
750.000 đồng/tháng.
Từ những dẫn chứng trên chứng tỏ làng nghề vẫn đóng một vai trò quan
trọng trong giải quyết việc làm và tạo thêm thu nhập cho lao động ở vùng nông
thôn cả nước nói chung và Hải Phòng nói riêng.
+Thu hút vốn nhàn rỗi, tận dụng thời gian và lực lƣợng lao động, hạn
chế di dân tự do:
Khác với sản xuất công nghiệp và một số ngành khác, đa số các làng nghề
không đòi hỏi số vốn đầu tư quá lớn, bởi rất nhiều nghề chỉ cần công cụ thủ
công, thô sơ mà những người thợ trong các làng nghề đều có thể tự sản xuất
hoặc chế tạo được. Hơn nữa, đặc điểm của sản xuất trong các làng nghề là quy
mô nhỏ, cơ cấu vốn và cơ cấu lao động ít nên rất phù hợp với khả năng huy
động vốn và các nguồn lực vật chất của các hộ gia đình. Với mức vốn đầu tư
không lớn, trong điều kiện hiện nay thì đó là một lợi thế để các làng nghề có thể
huy động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do tính chất sản phẩm và quy mô về
vốn cũng rất khác nhau. Mặt khác, do đặc điểm sản xuất của nghề truyền thống
là sử dụng lao động thủ công là chủ yếu, nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của
người lao động, từ lao động thời vụ nông nhàn đến lao động trên độ tuổi hay
dưới độ tuổi.
Cùng với việc tận dụng thời gian và lực lượng lao động, sự phát triển của
làng nghề đã có vai trò tích cực trong việc hạn chế di dân tự do ở nông thôn.
Hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị từ vùng này sang vùng khác là một
hiện tượng phổ biến ở nước ta hiện nay nói chung và Hải Phòng nói riêng. Sức
ép về việc làm và thu nhập đã thúc đẩy người nông dân đi tìm việc ở thành phố,
nơi thường xuyên có nhu cầu lao động, đặc biệt là lao động giản đơn hoặc đến
những vùng khác những nơi có khả năng cho thu nhập cao hơn. Qúa trình này
21
hình thành một cách tự phát và tự điều tiết bởi sự tác động của quy luật cung cầu
lao động. Nó diễn ra theo hướng di chuyển từ nơi thừa lao động và giá công rẻ
đến nơi thiếu lao động với giá công cao, từ nơi có đời sống thấp đến nơi có đời
sống cao. Vì vậy, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống được thúc
đẩy trên phạm vi cả nước nói chung và Hải Phòng nói riêng, nó đã tạo ra một sự
chuyển biến mới quan trọng trong việc tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập và
cải thiện đời sống nhân dân. Người dân nông thôn luôn có tâm lí gắn bó với làng
quê “ly nông, bất ly hương” do vậy khi đã có việc làm ổn định, mà thu nhập này
lại cao hơn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thì họ sẽ không muốn đi tìm việc
nơi khác.
+ Nâng cao giá trị sử dụng các nguồn tài nguyên:
Những điều kiện tự nhiên và nguyên liệu thô chỉ có giá trị khi được khai thác
sử dụng đúng mục đích, khi chúng thành những sản phẩm hữu ích phục vụ cho
con người.
Làng nghề đóng vai trò lịch sử to lớn trong vấn đề này, các làng nghề đã biến
các nguyên liệu thô trở thành những sản phẩm hữu ích phục vụ con người. Ngày
nay, giá trị này không thay đổi, mà ngược lại còn đóng vai trò to lớn trong nền
kinh tế quốc dân nói chung, góp phần làm thay đổi các vùng nông thôn nói
riêng.
Hải Phòng có nguồn tài nguyên khá phong phú về chủng loại và tiềm năng
khá dồi dào về qui mô số lượng. Trước hết phải kể đến tiềm năng về nguồn
nguyên liệu cho chế biến nông, thuỷ sản, đó là gạo làm bún bành, cá tôm làm
nước mắm và sản phẩm chế biến khác. Qua tính toán sơ bộ, so với giá nguyên
liệu, sau khi sản xuất, chế biến (thành hay bán thành phẩm thì giá trị tài nguyên
được tăng lên).
Như chế biến gạo thành bún, bún khô, bánh đa ướt hay cốm khô thì giá trị
sản phẩm tăng lên gấp 1,2 – 1,6 lần; Tre nứa, mây, để sản xuất hàng gia dụng và
22
phục vụ sản xuất nông nghiệp tăng gấp 2,0 – 2,5 lần; ding để đan sọt, song tăng
gấp 2 – 3 lần; cá làm nước mắm tăng giá trị lên trên 1,5 lần.
* Hỗ trợ phát triển dịch vụ du lịch, bảo tồn văn hoá truyền thống:
Sản phẩm của nghề thủ công truyền thống là sự kết tinh của lao động vật chất
và lao động tinh thần, nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và óc sáng tạo của
người thợ thủ công. Nhiều sản phẩm truyền thống có tính nghệ thuật cao, mỗi
sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật, trong đó chứa đựng những nét đặc sắc của
văn hoá dân tộc, đồng thời thể hiện những sắc thái riêng, đặc tính riêng của mỗi
làng nghề. Với những đặc điểm đặc biệt ấy chúng không chỉ còn là hàng hoá
đơn thuần mà đã trở thành sản phẩm văn hoá có tính nghệ thuật cao và được coi
là biểu tượng nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung và Hải Phòng
nói riêng. Nghề truyền thống, đặc biệt là nghề thủ công mỹ nghệ là những di sản
quý giá mà các thế hệ cha ông đã sáng tạo ra và truyền lại cho các thế hệ sau.
Ngày nay, nền sản xuất công nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, các sản
phẩm công nghiệp được sử dụng và tiêu thụ ở khắp nơi. Tuy nhiên, các sản
phẩm thủ công truyền thống với tính độc đáo và tinh xảo của nó vẫn rất cần thiết
và có ý nghĩa đối với nhu cầu đời sống của con người. Những sản phẩm này là
sự kết tinh, sự bảo tồn các giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc là sự bảo lưu
những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác tạo nên
những thế hệ nghệ nhân tài ba với những sản phẩm độc đáo mang bản sắc riêng.
Vì vậy, các làng nghề truyền thống với những bàn tay vàng của người thợ thủ
công cần được coi trọng, bảo tồn và phát triển, những công nghệ truyền thống
quan trọng và quý giá cần được bảo lưu và phát triển theo hướng hiện đại hoá.
Do đó việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống có ý nghĩa quan
trọng trong việc giữ gìn các giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam nói chung
mang bản sắc riêng của Hải Phòng nói riêng.
Ở Hải Phòng các điểm du lịch thường gắn liền với các sản phẩm từ ngành
nghề thuộc các làng nghề ở nông thôn. Trong đó, đặc biệt là các mặt hàng thủ
23
công mỹ nghệ. Ngành nghề ở các làng nghề phát triển sẽ làm đa dạng hoá loại
hình du lịch như du lịch sinh thái, du khảo đồng quê, du lịch thể thao, văn hoá
lịch sử truyền thống… với nhiều điểm du lịch hấp dẫn như Đồ Sơn, Cát Bà. Các
di tích lịch sử văn hoá như thành nhà Mạc (ở huyện Kiến Thụy), Đền Trạng
Trình (huyện Vĩnh Bảo), nước khoáng nóng (huyện Tiên Lãng), cùng các làng
nghề truyền thống sẽ là điểm đến các tour du lịch trong nước và quốc tế. Với
những mặt hàng lưu niệm phong phú sẽ làm tăng thêm chất lượng của tour du
lịch, đồng thời cũng là những cơ hội lớn để quảng cáo cho làng nghề.
1.1.2. Các điều kiện phát triển làng nghề
Qúa trình phát triển của làng nghề cần có nhiều điều kiện, nhưng những điều
kiện này có sự biến đổi trong từng thời kỳ và tác động theo chiều hướng khác
nhau. Chúng có thể là những điều kiện thúc đẩy nhưng cũng có thể là những
điều kiện kìm hãm sự phát triển.Ở mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi làng nghề do
có những đặc điểm khác nhau về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn
hoá nên những điều kiện này là không giống nhau. Tuy nhiên ta có thể tìm hiểu
và khái quát những điều kiện cơ bản sau:
1.1.2.1.Cơ chế chính sách phát triển làng nghề: Qúa trình đổi mới kinh tế
cùng với hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước đã có những tác động
to lớn có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của làng nghề truyền thống. Sự
chuyển biến quan trọng này đã được tác động bởi các đường lối, chính sách:
Nghị định số 66/2006/NĐ - CP ngày 07/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ về
một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn; Thông tư
hướng dẫn số 116/2006/TT – BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số
66/2006/NĐ - CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông
thôn; Thông tư 113/2006/TT – BTC ngày 28/12/2006 của Bộ Tài chính hướng
dẫn một số nội dung về ngân sách Nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông
thôn theo Nghị định số 66/NĐ - CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ. Với những