Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.24 KB, 37 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ RỦI RO
TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG:
1.1.1 Khái niệm :
Tín dụng là quan hệ vay mượn sử dụng vốn của lẫn nhau dựa trên nguyên
tắc hoàn trả và sự tin tưởng lẫn nhau. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa
ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế.
Sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về TLSX là
cơ sở ra đời tín dụng. Xét về mặt xã hội, sự xuất hiện của chế độ tư hữu về TLSX là
cơ sở hình thành sư phân hoá xã hội: của cải, tiền tệ có xu hướng tập trung vào một
nhóm người, trong lúc đó một nhóm người khác có thu nhập thấp hoặc thu nhập
không đáp ứng đủ nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt là khi xảy ra những biến
cố rủi ro bất thường xảy ra. Trong điều kiện đó đòi hỏi sự ra đời của tín dụng để giải
quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội, thực hiện điều hoà nhu cầu vốn tạm thời của
cuộc sống. Sản xuất hàng hoá là nguyên nhân ra đời của tín dụng. Vì vậy bất cứ xã
hội nào có sản xuất hàng hoá là có sự hoạt động của tín dụng. Trong nền kinh tế sản
xuất hàng hoá, các doanh nghiệp có vốn kinh doanh phải có một số vốn nhất định.
Do đặc điểm của vốn tuần hoàn theo công thức T-H-T và do tính chất thời vụ trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, mà mỗi doanh nghiệp có lúc thừa vốn có lúc thì
thiếu vốn. Nhu cầu về tín dụng là một nhu cầu không thể thiếu được.
Tín dụng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau, nhưng ở bất cứ
phương thức nào tín dụng cũng biểu hiện ra bên ngoài như là vay mượn tạm thời
một vật hoặc một số tiền tệ, nhờ vậy mà người ta có thể sử dụng được giá trị của
hàng hoá hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua trao đổi.
Tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay, giữa họ có
mối quan hệ với nhau thông qua vận động giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới
hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế ngân hàng đóng vai
trò là một tổ chức trung gian, trong quan hệ tín dụng nó vừa là người cho vay đồng
thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các


doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ, trái phiếu để huy động vốn trong
xã hội. Với tư cách là người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp
và cá nhân.
Khác với tín dụng thương mại, được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, tín
dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ - bao gồm tiền mặt và bút tệ.
Trong nền kinh tế thị trường đại bộ phận quỹ vay tập trung qua ngân hàng,
nó không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải
các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp vốn xây
dựng cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá nhân.
1.1.2 Phân loại :
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng
thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Loại tài sản này được
phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
A_ Tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn:
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời
gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả
năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng được phân thành:
 Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động;
 Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như
phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chống hao mòn;
 Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay,
cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu.
Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản
cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín dụng theo
thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết
đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tín
dụng trung và dài hạn: các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của
khách hàng. Tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao
hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này

như kì hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lí thanh khoản của ngân
hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn…
B_ Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho
thuê..
 Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải
hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là tài sản lớn nhất
trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: Doanh
số cho vay trong kì và dư nợ cuối kì. Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền mà
ngân hàng đã cho vay ra trong kì. Dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng hiện đang
còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Khi lập các báo cáo tài chính( thời điểm), cho
vay dưới hình thức dư nợ. Một số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ phần trích lập
dự phòng tổn thất hoặc lãi được nhận trước.
 Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương
ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một
số thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ)
 Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những
thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi
cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài hạn( Leasing) được ghi vào khoản
mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê ngân hàng đã thu được
(dư nợ cho thuê)
 Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng
của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử
dụng uy tín của mình để thu lợi.
C_ Tín dụng được chia theo đảm bảo :
Không có đảm bảo, có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Về nguyên
tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ
ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu
khách hàng không trả nợ. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về
việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng hoặc khả năng trả nợ của
người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.

 Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín
thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh,
ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc các món vay tương đối nhỏ so với vốn
của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu
cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính
lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng
có khả năng giám sát việc bán hàng…, cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
 Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải kí hợp
đồng đảm bảo. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Hùng
Vương_Hà Nội phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo như:
quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người
thứ ba…, có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản
đảm bảo.
D_ Tín dụng phân loại theo rủi ro:
Tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để
phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để
chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro tín dụng, tức là
xếp loại tín dụng theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao. Cách phân loại này giúp
ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trữ quỹ cho các
khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng.
 Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi
 Tín dụng có vấn đề: Các khoản tínd dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách
hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp nhiều
thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và
khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
 Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn đã lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp
nhở hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
E_ Phân loại khác:
 Theo ngành kinh tế: công, nông nghiệp…

 Theo đối tượng tín dụng: Tài sản lưu động, tài sản cố định
 Theo mục đích: Sản xuất, tiêu dùng…
Các cách cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của
ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song
vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Ví dụ ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, bên cạnh việc đa dạng hoá các ngành tài
trợ, vẫn tập trụng tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Cách phân loại
trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài
trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.1.3 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
- Các chủ thể tham gia gồm một bên ngân hàng và các chủ thể khác trong nền
kinh tế như: các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân…
- Vốn tín dụng chủ yếu là tiền tệ, cũng có thể là tài sản.
- Thời hạn tín dụng của ngân hàng cũng rất linh hoạt có thể là ngắn hạn, trung
hạn hoặc dài hạn.
- Công cụ của tín dụng ngân hàng cũng rất linh hoạt, có thể là kỳ phiếu, trái phiếu
ngân hàng, các hợp đồng tín dụng..v..v
- Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng mang tính chất gián tiếp, trong đó ngân
hàng là người trung gian tín dụng giữa người gửi tiền và người vay tiền.
- Mục đích của ngân hàng là nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng
qua đó thu được lợi nhuận.
1.1.4 Chức năng của tín dụng ngân hàng:
1.1.4.1 Chức năng phân phối lại tài nguyên:
Tín dụng là sự vận động của vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác. Chính
nhờ sự vận động của tín dụng mà các chủ thể vay vốn nhận được một phần tài
nguyên của xã hội phục vụ cho sản xuất hoặc tiêu dùng.
Phân phối tín dụng được thực hiện bằng hai cách:
 Phân phối trực tiếp: là việc phân phối vốn từ chủ thể có vốn tạm thời chưa
sử dụng sang chủ thể trực tiếp sử dụng vốn đó là kinh doanh và tiêu dùng. Phương
pháp phân phối này được thực hiện trong quan hệ tín dụng thương mại và việc phát

hành trái phiếu của Nhà nước và các công ty.
 Phân phối gián tiếp: Là việc phân phối được thực hiện thông qua các tổ chức
trung gian, như ngân hàng, HTX tín dụng, công ty tài chính…
Trong nền kinh tế hiện đại, phân phối vốn tín dụng qua các tổ chức trung
gian chiếm vị trí quan trọng nhất. Một mặt các tổ chức trung gian tập trung vốn
tiền tệ của các doanh nghiệp và cá nhân để làm nguồn vốn cho vay, mặt khác
chúng phân phối nguồn vốn đó dưới hình thức cấp tín dụng cho các doanh nghiệp,
cá nhân và một phần cho kho bạc Nhà nước.
Giữa phân phối qua tín dụng và phân phối qua Ngân sách có những điểm
khác nhau: Đối với tín dụng phân phối trên cơ sở hoàn trả, phân phối vốn liên quan
đến thu nhập quốc dân, và tổng sản phẩm xã hội, phân phối vốn mang tính chất cấp
phát, phân phối chủ yếu liên quan đến thu nhập quốc dân và phân phối chủ yếu cho
lĩnh vực phi sản xuất.
1.1.4.2. Tạo cơ sở để lưu thông dấu hiệu trị giá ( tiền không đủ giá).
Trong thời kỳ đầu lưu thông là hoá tệ, nhưng khi các quan hệ tín dụng phát triển,
các giấy nợ đã thay thế cho một bộ phận tiền trong lưu thông. Lợi dụng đặc điểm này,
các ngân hàng đã bắt đầu phát hành tiền giấy vào lưu thông. Lúc đầu tiên giấy phát
hành trên cơ sở có dữ trữ quí kim( vàng), nhưng dần dần tiền giấy phát hành vào lưu
thông tách rời với dự trữ vàng của ngân hàng.
Ngày nay ngân hàng cung cấp cho lưu thông chủ yếu được thực hiện thông
qua con đường tín dụng. Đây là cơ sở đảm bảo cho lưu thông tiền tệ ổn định, đồng
thời đảm bảo đủ phương tiện phục vụ cho lưu thông.
Như vậy, nhờ hoạt động của tín dụng mà ngân hàng thực hiện chức năng tạo
tiền phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tiền tệ do ngân hàng tạo ra gồm:
 Tiền tệ: Tiền giấy và tiền kim loại không đủ giá trị.
 Bút tệ.
Nhờ vào công cụ nói trên mà tốc độ lưu thông hàng hoá nhanh hơn và do
vậy, hàng hoá đi từ hình thái tiền tệ vào sản xuất và ngược lại được thúc đẩy mạnh
mẽ hơn. Nói cách khác, tín dụng thúc đẩy lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế.
1.1.5 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế:

Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, tín dụng có các vai trò sau:
• Thứ nhất: Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục
đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền
kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Tín dụng còn là cầu nối
giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương
tiện đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn vốn
hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp, vì vậy tín dụng đã góp
phần động viên vật tư hàng hoá đi vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật
đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
 Thứ hai: Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tiều tệ tạm thời chưa sử dụng, trên
cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế. Mặt khác quá trình đầu tư tín dụng được thực
hiện một cách tập trung, chủ yếu là cho các xí nghiệp kinh doanh hiệu quả.
 Thứ ba: Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và
ngành kinh tế mũi nhọn.
Trong thời gian tập trung phát triển nông nghiệp và ưu tiên cho xuất khẩu…
Nhà Nước đã tập trung tín dụng để tài trợ phát triển các ngành đó, từ đó tạo điều
kiện phát triển các ngành khác.
 Thứ tư: Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của
các doanh nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có
lợi tức, nhờ vậy mà hoạt động của tín dụng đã kích thích sử dụng vốn có hiệu quả.
Bằng cách tác động như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn tín dụng
phải quan tâm đên việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng
vòng quay của vốn, tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
 Thứ năm: Tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Trong điều kiện kinh tế “ mở”, tín dụng đã trở thành một trong những
phương tiện nối liền các nền kinh tế các nước với nhau.

1.2 RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN RỦI RO TÍN
DỤNG
1.2.1Khái niệm về rủi ro tín dụng:
1.2.1.1 Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Có nhiều quan điểm khác nhau về rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng, và các lĩnh vực khác. Nhưng rủi ro là thường có hai đặc tính sau:
Thứ nhất là biên độ rủi ro, đó là sự thiệt hại từ rủi ro gây ra ở mức độ nào.
Thứ hai là tần số xuất hiện của rủi ro nhiều hay ít.
Như mọi doanh nghiệp khác, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, những
kinh doanh tiền tệ và ngân hàng thương mại cũng gánh chịu các rủi ro do tác động
của môi trường vĩ mô và vi mô gây nên như các doanh nghiệp khác. Rủi ro trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng về cơ bản có thể chia thành hai loại là rủi ro đặc
thù và rủi ro môi trường.
• Rủi ro môi trường:
Rủi ro môi trường luôn tồn tại trong tổ chức và ngoài tổ chức, hay nói cách
khác rủi ro môi trường gồm hai loại: rủi ro môi trường vĩ mô và rủi ro môi trường
cạnh tranh.
o Rủi ro môi trường vĩ mô: Môi trường đó ngân hàng hoạt động chứa đầy muôn vàn
rủi ro, chúng tác động đến ngân hàng bằng nhiều cách như: làm suy yếu khả năng
chịu đựng rủi ro của ngân hàng, hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài
chính. Những rủi ro này rất khó kiểm soát nên chúng ở mức độ hạn chế trên sổ dự
báo. Các loại rủi ro môi trường vĩ mô mà ngân hàng thường gặp là: rủi ro tự nhiên
và rủi ro bất khả kháng ( như: lũ lụt, hoả hoạn, động đất…); rủi ro về luật pháp liên
quan đến sự vận động của nền kinh tế và chu kỳ kinh doanh ( như: lạm phát, suy
thoái kinh tế…) ảnh hưởng của các yếu tố này đến ngân hàng rất lớn; rủi ro về điều
chỉnh: là nhằm thực hiện các chính sách vĩ mô, thì các nhà lãnh đạo đưa ra các
chính sách tiền tệ, lãi suất… Đôi khi gây thiệt hại cho ngân hàng.
o Rủi ro môi trường cạnh tranh: các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh thường
chịu tác động của khách hàng hoặc các đối thủ từ nhiều phía từ đó luôn rất nhiều
các tác động đầy rủi ro. Trong rủi ro môi trường cạnh tranh thì có các loại rủi ro

như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản.
• Rủi ro đặc thù: luôn tồn tại trong lĩnh vực hoặc ngành nghề kinh doanh.
Rủi ro đặc thù là rủi ro do bản thân của ngành hay lĩnh vực kinh doanh tạo
ra. Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro đặc thù thường bao gồm các yếu tố:
o Rủi ro về quản lý: rủi ro này có thể bắt nguồn từ ban quản lý ngân hàng do thiếu
kiến thức, thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu khả năng điều hành. Nó cũng có thể xảy
ra do sự yếu kém về năng lực hay đạo đức của nhân viên ngân hàng.
o Rủi ro cung cấp các dịch vụ tài chính hay rủi ro kinh doanh bao gồm: rủi ro về hoạt
động, rủi ro về sản phẩm, rủi ro về văn hoá, rủi ro về công nghệ, rủi ro đòn cân nợ
và rủi ro do thiếu nỗ lực nghiên cứu và phát triển.
o Rủi ro thích ứng vốn: nó thể hiện ngân hàng có qui mô vốn nhỏ thường ít an toàn
hơn ngân hàng có qui mô vốn lớn.
o Rủi ro tài sản thế chấp: tài sản thế chấp không đủ giá trị để bù đắp thiệt hại cho
ngân hàng…
1.2.1.2 Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng được hiểu là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng
phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả , hoặc không trả đầy đủ
vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến
là khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm
quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn
được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới
mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
Rủi ro gắn liền với hoạt động ngân hàng, cho vay bao giờ cũng bao gồm rủi
ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn
bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như: các
hoạt động bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường
liên ngân hàng, những chứng khoán có giá ( trái phiếu, cố phiếu…..), trái quyền,
Swap, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ..v..v… Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức
kinh doanh mới trong hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Hiện nay ở trên tất cả các
nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm không chỉ ở phạm vi các

ngân hàng, mà cả trong toàn nền kinh tế. Các ngân hàng luôn luôn tìm cực đại lợi
nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các món vay và chứng
khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến các hoạt động cho vay,
như: sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiêt lập mối quan hệ khách hàng lâu
dài, qui định các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Dẫu
sao, không một ngân hàng nào nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi viết nó ra những
qui định hạn chế vào một hợp đồng cho vay, sẽ luôn luôn có những hoạt động rủi
ro của người vay tiền, chưa có một qui định hạn chế nào loại bỏ được chúng cả. Và
đó được gọi đó là rủi ro tín dụng
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Rủi ro tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá
trình kinh doanh của các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế. Tuy nhiên tín dụng
ngắn hạn chỉ cung cấp một phần chứ không phải toàn bộ số vốn lưu động trong
một thời gian ngắn.
Đối với loại tín dụng ngắn hạn, rủi ro thường xảy ra khi cán bộ tín dụng mắc
phải sai lầm trong quá trình tính toán hiệu quả đầu tư và bất cẩn trong công tác
thẩm định. Để khắc phục được loại rủi ro này, chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng để
đưa ra các kết luận đúng đắn về tình hình tài chính của doanh nghiệp, nâng cao
chất lượng của công tác thẩm định.
1.2.2.2 Rủi ro tín dụng trung, dài hạn
Tín dụng trung dài hạn là khoản cho vay với mục đích đầu tư xây dựng cơ
bản, mua sắm tài sản cố định. Tín dụng trung và dài hạn là khoản đầu tư có thời
hạn thu hồi vốn dài, đối với tín dụng trung hạn là từ 1 đến 3 năm, đối với tín dụng
dài hạn là trên 5 năm. Ngoài các đặc điểm trên, tín dụng trung và dài hạn còn có
một đặc điểm quan trọng là có số lượng lớn.
Rủi ro tín dụng trung và dài hạn thường xảy ra khi có những diễn biến bất
lợi trong quá trình xây dựng và tiến hành sản xuất kinh doanh do thời gian thu hồi
vốn quá dài. Ngoài các thông số kinh tế, kỹ thuật các nhà đầu tư cần phải tính đến
các biến động về chính trị, chính sách của nhà nước (các yếu tố phi kinh tế) nếu

không rất dễ dẫn tới rủi ro gây thiệt hại lớn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Để tránh được loại rủi ro này, các nhà quản lý cần phải tính, cân nhắc một
cách chính xác và tỉ mỉ hiệu quả của dự án đầu tư trong quá trình thực hiện dự án.
Trong đó có một số yếu tố cực kỳ quan trọng về kinh tế kỹ thuật như: nguyên
nhiên vật liệu đầu vào, khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra, các sản phẩm cùng loại
và sản phẩm thay thế hiện đang có bán trên thị trường, xu hướng và thái độ của thị
trường đối với loại sản phẩm này, lựa chọn công nghệ phù hợp, khả năng làm chủ
công nghệ của chủ đầu tư, v.v.. và các yếu tố phi kinh tế khác như: Chính sách của
Nhà nước đối với ngành nghề, sản phẩm sau đầu tư, năng lực và uy tín của bên
cung cấp thiết bị công nghệ…
1.2.2.3 Rủi ro tín dụng chiết khấu
Tín dụng chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, qua dó khách hàng
chuyển quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để
nhận về một khoản tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi suất chiết khấu và
phí hoa hồng. Hình thức chiết khấu các thương phiếu được lập trên cơ sở hợp đồng
kinh tế được pháp luật thừa nhận.
Thương phiếu giả là loại hình gây nhiều rủi ro nhất trong nghiệp vụ chiết
khấu. Thương phiếu này được thành lập khi không có một quan hệ thương mại
tương ứng nhằm mục đích đánh lừa ngân hàng. Thương phiếu giả tạo có các loại
sau:
- Thương phiếu trống: người bị ký phát không có hoặc không biết.
- Thương phiếu được lập có sự đồng lõa giữa người ký phát và người bị ký
phát.
- Thương phiếu trống hỗ tương: là thương phiếu được lập trên cơ sở thoả thuận
giữa hai bên mà thực chất là sự giúp đỡ ngân quỹ cho người phát lệnh.
Để hạn chế rủi ro trong hoạt động chiết khấu cần:
- Xem xét kỹ tính chất pháp lý của thương phiếu
- Xem xét tính thương mại của thương phiếu
- Đánh giá khả năng trả nợ của người bị ký phát
1.2.2.4 Rủi ro tín dụng thuê mua

Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê tài sản chuyên dùng kèm theo lời
hứa sẽ bán lại về sau, chậm nhất là sau khi kết thúc hợp đồng cho người thuê với
giá thoả thuận. Các thành viên tham gia tín dụng thuê mua gồm:
- Người đi thuê - tức là các doanh nghiệp
- Người cho thuê - ở đây là các ngân hàng
Người đi thuê sẽ tìm và lựa chọn tài sản cần thuê ở người cho thuê, người
cho thuê sẽ gửi đơn đặt hàng tới nhà cung cấp thiết bị và chịu trách nhiệm thanh
toán sau đó giao tài sản cho người đi thuê. Thuê mua bất động sản và thuê mua
động sản. Khả năng rủi ro đối với hình thức tín dụng này là tương đối thấp.
Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì
trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng thuê mua, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu
của ngân hàng. Tài sản cho thuê tồn tại dưới hình thái vật chất tương đối ổn định
về dễ quản lý. Tuy nhiên, rủi ro vẫn có thể xảy ra khi người đi thuê bị thiên tai, hỏa
hoạn gây ra thiệt hại cho tài sản thuê mua hay sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
khiến nó trở nên lỗi thời không phù hợp với thời đại dẫn tới khả năng sử dụng thiết
bị giảm đi và làm ảnh hưởng tới việc thu nợ.
Trên đây là các loại rủi ro tín dụng cơ bản nhất trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng, mức độ xảy ra rủi ro ở mỗi loại là khác nhau.
Tuỳ vào mức độ hoạt động của mỗi ngân hàng mà chúng ta phải đưa ra những biện
pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro hợp lý nhất.
1.2.3 Các tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng ngân hàng:
1.2.3.1 Phân loại nợ:
 Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn.
Đây là các khoản nợ mà ngân hàng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy
đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
 Nhóm 2: Nợ cần chú ý.
Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã
được cơ cấu lại.
 Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn.

Các khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn cơ cấu lại.
 Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
Các khoản nợ quá hạn từ 180 – 360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày theo
thời hạn cơ cấu lại
 Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
Các khoản nợ khoanh chờ xử lý

×