Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.51 KB, 98 trang )


Đại học quốc gia hà nội
Khoa Kinh tế
=== o0o ===




Đoàn Huân Phong



Ngân hàng Th-ơng mại cổ phần ở Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp






luận văn thạc sĩ kinh tế




Hà Nội - 2005

Đại học quốc gia hà nội
Khoa Kinh tế
=== o0o ===




Đoàn Huân Phong



Ngân hàng Th-ơng mại cổ phần ở Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị XHCN
Mã số : 5.02.01



luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Danh Tốn




Hà Nội - 2005

Danh mục cụm từ viết tắt

ACB : Ngân hàng th-ơng mại cổ phần á Châu
ATM : Máy rút tiền tự động
CNH-HĐH : Công nghiệp hoá - Hiện đại hóa
CN NHNNg : Chi nhánh ngân hàng n-ớc ngoài
DNNN : Doanh nghiệp nhà n-ớc

DNTN : Doanh nghiệp t- nhân
EAB : Ngân hàng th-ơng mại cổ phần Đông á
Habubank : Ngân hàng th-ơng mại cổ phần Nhà Hà Nội
HĐQT : Hội đồng quản trị
HTX : Hợp tác xã
IMF : Quỹ tiền tệ thế giới
NHLD : Ngân hàng liên doanh
NHNN : Ngân hàng Nhà n-ớc
NHTM : Ngân hàng th-ơng mại
NHTMCP : Ngân hàng th-ơng mại cổ phần
NHTMQD : Ngân hàng th-ơng mại quốc doanh
NHTW : Ngân hàng trung -ơng
QTD : Quỹ tín dụng
QTDND : Quỹ tín dụng nhân dân
QTDNDTW : Quỹ tín dụng nhân dân trung -ơng
Sacombank : Ngân hàng th-ơng mại cổ phần Sài Gòn th-ơng tín
TCTD : Tổ chức tín dụng
Techcombank : Ngân hàng th-ơng mại cổ phần Kỹ th-ơng
TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh
VCB : Ngân hàng Ngoại th-ơng Việt Nam
VIP : Ngân hàng th-ơng mại cổ phần Quốc tế Việt Nam
VPB : Ngân hàng TMCP các DN ngoài quốc doanh Việt Nam
WB : Ngân hàng thế giới

Mục lục


Trang
Lời mở đầu.
1

Ch-ơng 1: Những vấn đề chung về NHTMCP trong nền kinh tế
thị tr-ờng
5
1.1. Khái quát về NHTM trong nền kinh tế thị tr-ờng
5
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm kinh doanh của NHTM
5
1.1.1.1. Khái niệm về NHTM
5
1.1.1.2. Phân loại NHTM
7
1.1.1.3. Đặc điểm của kinh doanh NHTM
9
1.1.2. Các chức năng của NHTM
12
1.1.3. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị tr-ờng
14
1.2. Đặc tr-ng và các hoạt động chính của NHTMCP
18
1.2.1. Các đặc tr-ng cơ bản của NHTMCP
18
1.2.2. Những hoạt động chủ yếu của NHTMCP trong nền kinh tế
thị tr-ờng
20
1.2.2.1. Hoạt động huy động vốn
20
1.2.2.2. Hoạt động cấp tín dụng và đầu t-
21
1.2.2.3. Hoạt động dịch vụ trung gian
22

1.3. Xu h-ớng phát triển hệ thống NHTM trong khu vực và trên
thế giới
23

Ch-ơng 2: Thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMCP ở Việt
Nam
29
2.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của các
NHTMCP Việt Nam
29
2.1.1. Khái niệm về NHTMCP
29
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của các NHTMCP
30

2.1.3. Đặc điểm hoạt động chủ yếu của các NHTMCP ở Việt
Nam

37
2.2. Thực trạng hoạt động của các NHTMCP
38
2.2.1. Nguồn vốn
38
2.2.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
38
2.2.1.2. Nguồn vốn huy động
39
2.2.1.3. Các nguồn vốn khác
41
2.2.2. Sử dụng vốn

42
2.2.3. Hoạt động thanh toán
46
2.2.4. Các dịch vụ khác
47
2.2.5. Hiệu quả kinh doanh và bộ máy tổ chức
48
2.3. Đánh giá chung về hệ thống NHTMCP ở Việt Nam
55
2.3.1. Những kết quả b-ớc đầu đạt đ-ợc
55
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân
59
2.3.2.1. Những mặt còn tồn tại
59
2.3.2.2. Nguyên nhân
62

Ch-ơng 3: Những định h-ớng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam
67
3.1. Định h-ớng đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của các
NHTMCP ở Việt Nam
67
3.1.1. Xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam
67
3.1.1.1. Thời cơ
67
3.1.1.2. Những khó khăn và thách thức
68

3.1.2. Một số yêu cầu đặt ra đối với các NHTMCP ở Việt Nam
70
3.1.3. Định h-ớng đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của các
NHTMCP trong thời gian tới
71
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
NHTMCP Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
72
3.2.1. Nâng cao năng lực tài chính
72

3.2.1.1. Nâng cao mức vốn tự có
72
3.2.1.2. Làm trong sạch bảng cân đối tài sản
74
3.2.2. Sắp xếp lại bộ máy tổ chức và hoàn thiện cơ chế hoạt động
75
3.2.3. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
77
3.2.4. Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, nâng cao chất l-ợng công
tác khách hàng
78
3.2.5. Phát triển nguồn nhân lực và nâng cao trình độ cán bộ
ngân hàng
80
3.2.6. Các giải pháp hỗ trợ khác
81
3.2.6.1. Phát triển thị tr-ờng chứng khoán
81
3.2.6.2. Hoàn thiện môi tr-ờng pháp lý

82
3.2.6.3. Tăng c-ờng quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế
83
Kết luận.
85
Tài liệu tham khảo.














1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường việc phát triển hệ thống các tổ chức trung
gian tài chính, đặc biệt là các NHTM cho phép huy động tối đa nguồn vốn
trong nước và nước ngoài, đầu tư có hiệu quả cho nền kinh tế, cung cấp các
dịch vụ tài chính ngày càng tiện lợi cho người dân và các doanh nghiệp, thúc
đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững. Thực tiễn trên thế giới đã chỉ ra rằng, ở
đâu có thị trường tài chính phát triển và được tự do hoá, hoạt động ngân hàng

hoạt động trong môi trường cạnh tranh theo pháp luật thì ở đó kinh tế tăng
trưởng nhanh, vững mạnh
Thực hiện đổi mới và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, Đảng
và Nhà nước ta cũng chủ trương cho phép phát triển mạnh mẽ hệ thống các tổ
chức trung gian tài chính, đặc biệt là hệ thống NHTMCP. Theo chủ trương
đó, trong những năm đầu thập kỷ 90 hàng loạt NHTMCP của các cổ đông là
thể nhân và pháp nhân trong nước đã được thành lập. Có thể nói, đây là mô
hình tổ chức tín dụng phù hợp với cơ chế thị trường, cạnh tranh mạnh mẽ với
các NHTMQD.
Tuy nhiên sau hơn 10 năm đổi mới, hệ thống NHTMCP Việt Nam nói
riêng tuy có những bước phát triển và những đóng góp to lớn vào phát triển
kinh tế thông qua các hoạt động cung ứng vốn và các dịch vụ ngân hàng trong
thời gian qua, nhưng bên cạnh đó NHTMCP cũng đã bộc lộ nhiều yếu kém.
Sự yếu kém ở đây không chỉ là công tác quản lý, cơ cấu tổ chức mà còn là
yếu kém về tình hình tài chính, nhất là thời kỳ khủng hoảng tài chính – tiền tệ
trong khu vực năm 1997 - 1998. Mặt khác, cũng như các lĩnh vực khác của
nền kinh tế, NHTMCP cũng đang đứng trước những thách thức hội nhập với

2
các thể chế tài chính trong khu vực và quốc tế như tham gia AFTA, Hiệp định
thương mại Việt - Mỹ…
Thực tế đòi hỏi các NHTMCP cần được cải cách, chấn chỉnh, củng cố và
sắp xếp lại một cách toàn diện bằng những giải pháp phù hợp với xu hướng
tái cơ cấu NHTM của các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt là xu
hướng tái cơ cấu NHTM của các nước sau khủng hoảng tài chính khu vực kết
hợp với điều kiện đặc thù của nền kinh tế Việt Nam hiện nay nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động và tạo ra những NHTMCP thực sự đủ mạnh, phát huy
được các vai trò tích cực, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của đất
nước trong giai đoạn mới.
Xuất phát từ đòi hỏi cấp bách đó, tôi đã chọn đề tài “Ngân hàng thương

mại cổ phần ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” để thực hiện luận văn
thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu:
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động của các
NHTM nói chung và một số ít về NHTMCP nói riêng, điển hình là một số
công trình sau:
- Nguyễn Quốc Việt. Ngân hàng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội
ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
- Những vấn đề cơ bản về hoàn thiện các tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội, 2001.
- Nghiên cứu giải pháp thực hiện chiến lược tổng thể phát triển ngành
ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Hà Nội, 2001.

3
- Định hướng và giải pháp mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại của hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam đến năm 2010. Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Văn Hưng. Sắp xếp lại để đảm bảo an toàn hệ thống NHTMCP
ở nước ta. Tạp chí Ngân hàng, số 5, 2003.
- Nguyễn Kiến Quân. Kết quả bước đầu của việc thực hiện chấn chỉnh,
củng cố và sắp xếp lại NHTMCP ở nước ta. Tạp chí Ngân hàng, số 7,
2003.
- …
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu khác được công bố trên các
báo, các tạp chí khoa học. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu hệ thống NHTM, hay mới chỉ đề cập đến từng góc độ khác
nhau trong hoạt động của các NHTMCP mà chưa có một công trình nào
nghiên cứu đầy đủ về hệ thống NHTMCP. Vì vậy, việc tập trung nghiên cứu
một cách cơ bản, hệ thống cả về lý luận và thực tiễn về hệ thống NHTMCP ở

Việt Nam là rất cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu:
- Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMCP Việt
Nam nhằm làm rõ những thành công và những hạn chế của hệ thống
NHTMCP này. Từ đó luận văn đề xuất những giải pháp nhằm từng bước nâng
cao hiệu quả hoạt động và đẩy mạnh sự phát triển của hệ thống NHTMCP ở
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động của hệ thống
NHTMCP ở Việt Nam trong giai đoạn từ những năm đầu thập kỷ 90 trở lại
đây, đặc biệt là từ khi có hai Pháp lệnh về ngân hàng.

4
- Luận văn không đi sâu vào các hoạt động nghiệp vụ cũng như từng
NHTMCP một mà nghiên cứu một số ngân hàng lớn, tiêu biểu chủ yếu là các
NHTMCP đô thị nhằm làm rõ thực trạng của toàn bộ hệ thống các NHTMCP.

5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng tổng hợp những quan
điểm phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn chú trọng đến các phương pháp nghiên cứu
khác như phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích, phương pháp nghiên cứu
hệ thống, phương pháp thống kê kinh tế và một số phương pháp khác để giải
quyết vấn đề đặt ra.
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống NHTM nói
chung và NHTMCP nói riêng.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống các NHTMCP ở Việt Nam
trong thời gian qua.
- Đưa ra một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động và đẩy mạnh sự phát triển của hệ thống NHTMCP ở Việt Nam trong bối
cảnh hiện nay.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về NHTMCP trong nền kinh tế thị
trường.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMCP ở Việt Nam.

5
Chương 3: Những định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của các NHTMCP Việt Nam.



CHƢƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHTMCP TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG.
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG.
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm kinh doanh của NHTM.
1.1.1.1. Khái niệm về NHTM.
Từ việc xuất hiện đồng tiền trong lưu thông, tiền thân của ngân hàng
chính là quá trình biến đổi trong hoạt động của những người chuyên làm nghề
dịch vụ kho quỹ, những người thợ vàng, thợ bạc. Có thể nói, ngân hàng ra đời
do sự thúc đẩy khách quan trong quá trình phát triển sản xuất, lưu thông hàng
hoá và hoạt động thương mại. Có thể tóm tắt cơ chế và những nghiệp vụ sơ
khai của NHTM như sau: Lúc đầu một số nhà thờ và lãnh chúa hoặc một số
thương nhân có uy tín làm nghề vàng, bạc từ chỗ làm dịch vụ cầm đồ đã đứng
ra làm nghiệp vụ chuyển đổi tiền; nhận bảo quản và chuyển tiền lấy hoa hồng;
ghi chép sổ sách theo dõi lượng tiền gửi vào và đến hạn rút ra; sử dụng các

khoản tiền gửi chưa tới kỳ trả để cho vay. Các tổ chức NHTM với các nghiệp
vụ ban đầu như trên xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng hơn 2000 năm trước
công nguyên ở những quốc gia giàu có nhất và sau đó là thời kỳ phát triển khá
phổ biến từ đầu thế kỷ XV ở các quốc gia có sản xuất và lưu thông hàng hoá.
NHTM ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển, đòi hỏi của nền
kinh tế và giao lưu hàng hoá, đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế như

6
tạo sự tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, tạo công ăn việc làm, ổn định
xã hội… trong mỗi quốc gia và khu vực thế giới. Qua đó, ngân hàng đã dần
hình thành và hoàn thiện các nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên, do hoạt động
NHTM rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ của ngân hàng thường
phức tạp và các vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền
kinh tế. Hơn nữa do tập quán, luật pháp của mỗi nước, mỗi vùng lãnh thổ là
khác nhau nên dẫn đến khái niệm về NHTM là không đồng nhất.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các hoạt động cơ bản của NHTM
cũng phát triển theo và các chức năng của nó cũng được mở rộng, khi đó các
nhà kinh tế đã định nghĩa: “NHTM là những trung gia tài chính có giấy phép
kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi, kể cả
các khoản tiền gửi mà dựa vào đó có thể sử dụng các tờ séc”.
Ngày nay, trên toàn thế giới về NHTM có rất nhiều khái niệm khác nhau,
như ở Pháp: “NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường
xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số
tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ
tài chính”. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này
trên phương diện những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp. Ở Mỹ người ta
định nghĩa về ngân hàng như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và thanh toán… và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất
so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.

Rõ ràng là các ngân hàng có thể được định nghĩa qua các chức năng, các
dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tại Ấn Độ thì lại quan niệm
NHTM là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư…
Còn tại Việt Nam, theo điều 20 của Luật các TCTD thì: “Tổ chức tín dụng là
doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định

7
khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng
với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán”.
Như vậy, qua những khái niệm trên, có thể rút ra định nghĩa về NHTM
như sau: NHTM là trung gian tài chính, có giấy phép kinh doanh của chính
phủ, là trung tâm nhận tiền gửi của khách hàng và cung cấp cho khách
hàng dịch vụ chi trả cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc gửi tiền
tiết kiệm và cho vay.
Vì vậy, NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ có các hoạt động
cơ bản như nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức, cơ quan
nhà nước và các tổ chức tín dụng tài chính khác kể cả trong và ngoài nước. Sử
dụng các nguồn vốn nói trên để cho vay hoặc chiết khấu và làm các dịch vụ
khác, cung cấp các dịch vụ thanh toán…
1.1.1.2. Phân loại NHTM.
Hiện nay trên thế giới có nhiều loại hình NHTM khác nhau và có nhiều
tiêu chí để phân loại các NHTM như:
Căn cứ vào chức năng chủ yếu: các NHTM chia thành ngân hàng đa
năng hay ngân hàng chuyên doanh. Trong đó, ngân hàng kinh doanh đa năng
là loại hình ngân hàng thực hiện tất cả các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng
như cho vay, tiết kiệm, kinh doanh các loại giấy tờ có giá, các dịch vụ khác
liên quan đến hoạt động ngân hàng. Loại ngân hàng này có nhiều dạng như
ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng nhà nước. Có ngân hàng
tầm cỡ quốc gia, quốc tế hay tính chất khu vực. Các ngân hàng này có đặc

điểm là phong phú về nghiệp vụ, khách hàng đa dạng và khả năng phân tán
rủi ro cao.
Còn ngân hàng chuyên doanh chỉ được thực hiện một hoặc một số ít
nghiệp vụ ngân hàng. Các ngân hàng này có đặc điểm là nghiệp vụ kinh

8
doanh mang tính hạn hẹp, phạm vi hoạt động bị giới hạn và tính chuyên môn
hoá cao. Hiện nay xu hướng phát triển các loại hình NHTM trên thế giới cho
thấy, không một quốc gia nào chỉ tồn tại một loại hình ngân hàng đa năng
hoặc ngân hàng chuyên doanh mà luôn tồn tại song song cho dù luôn có một
loại hình ngân hàng chiếm ưu thế. Gần đây các ngân hàng chuyên doanh ngày
càng có xu hướng chuyển sang đa năng hoá hoạt động của mình. Xu hướng
trong các luật ngân hàng hiện đại là không tạo ra sự phân biệt các ngân hàng
đa năng và các ngân hàng chuyên doanh như trước đây, mà hình thành một
loại ngân hàng hoạt động đa năng.
Căn cứ vào quy mô và đối tượng khách hàng: các ngân hàng được phân
chia thành ngân hàng bán buôn hay ngân hàng bán lẻ. Theo đó, ngân hàng bán
buôn là là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu là thực hiện với các
khách hàng lớn, với số lượng giao dịch của ngân hàng nhỏ nhưng giá trị của
các khoản giao dịch lớn. Hoạt động của ngân hàng bán buôn thường tập trung
ở các trung tâm thương mại, do đối tượng khách hàng mà ngân hàng phục vụ
thường là khách hàng lớn và nằm tại các trung tâm thương mại lớn. Vốn hoạt
động lớn, nhưng phạm vi hoạt động hẹp về số lượng khách hàng và lĩnh vực
đầu tư vốn.
Ngân hàng bán lẻ chủ yếu thực hiện với các khách hàng là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ thậm chí siêu nhỏ, khách hàng cá nhân vay tiêu dùng…
Ngân hàng này thường có số lượng giao dịch lớn, giá trị của từng khoản nhỏ,
phạm vi hoạt động rất rộng, địa bàn hoạt động của tổ chức, mạng lưới rất lớn.
Vốn thực hiện đầu tư mang tính phân tán do khách hàng phục vụ thuộc nhiều
loại hình khác nhau. Hoạt động của ngân hàng bán lẻ về mặt vốn thường nhỏ

và tính ổn định của vốn thấp.
Xu hướng phát triển của ngân hàng bán buôn chỉ mở rộng hoạt động tại
các trung tâm thương mại lớn, ở những nước kinh tế phát triển và những nơi

9
có hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh. Còn các ngân hàng bán lẻ
có xu thế ngày càng mở rộng đặc biệt ở các nước kinh tế chậm phát triển và
trong thực tế luôn tồn tại cùng với ngân hàng bán buôn.
Căn cứ vào hình thức sở hữu: các ngân hàng được phân chia thành ngân
hàng Nhà nước, ngân hàng cổ phần, ngân hàng tư nhân, ngân hàng liên doanh
và ngân hàng nước ngoài…
Các loại hình ngân hàng kể trên chiếm ưu thế và đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo ra cung tiền tệ. Trong quá trình tiến hành kinh doanh, các ngân
hàng sử dụng vốn chủ yếu từ các nguồn tiền gửi và vay vốn qua phát hành trái
phiếu. Trên cơ sở đó, các ngân hàng tiến hành các hoạt động đầu tư nhằm đáp
ứng những yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế. [4, 8]
1.1.1.3. Đặc điểm của kinh doanh NHTM.
Có thể hiểu đơn giản kinh doanh ngân hàng là việc tiến hành các hoạt
động sản xuất, buôn bán các sản phẩm dịch vụ tài chính tiền tệ của các ngân
hàng nhằm vào mục tiêu cao nhất là tối đa hoá lợi nhuận. Trên góc độ khái
quát, đặc trưng của kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế thị trường được
thể hiện:
Kinh doanh ngân hàng là hoạt động thu lợi nhuận trên cơ sở thoả mãn
các nhu cầu về phương tiện và dịch vụ trao đổi, thanh toán, cất giữ, huy động
tiết kiệm, tài trợ đầu tư… cho các tác nhân trong nền kinh tế. Các ngân hàng
kinh doanh có mục tiêu then chốt là tối đa hóa lợi nhuận. Nhu cầu mà các
ngân hàng phục vụ là nhu cầu về những dịch vụ, những phương tiện cho việc
trao đổi, thanh toán, cất giữ, thu thập các nguồn tiết kiệm, tài trợ đầu tư sao
cho có lợi nhất và ít rủi ro nhất. Hoạt động của các ngân hàng có tính chuyên
môn hoá vào việc thoả mãn các loại nhu cầu này, khả năng thoả mãn các nhu

cầu này có ảnh hưởng quyết định đến khả năng thu lợi nhuận của các ngân
hàng. Lợi nhuận này có được từ hai nguồn thu nhập chính. Một là các chi phí

10
hay hoa hồng mà khách hàng trả về các dịch vụ, phương tiện ngân hàng cung
ứng cho họ. Hai là các khoản lợi tức do chênh lệch lãi suất giữa đầu vào với
đầu ra.
Đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền, các tài sản tài chính và các
dịch vụ trực tiếp liên quan đến việc sở hữu, sản xuất, lưu thông quản lý, sử
dụng tiền và các tài sản tài chính trong nền kinh tế. Nhiệm vụ của các ngân
hàng kinh doanh là trực tiếp kinh doanh tiền và các tài sản tài chính. Tiền và
các tài sản tài chính là những phương tiện phục vụ các công việc trao đổi,
thanh toán, cất giữ, huy động tiết kiệm, tài trợ đầu tư của các tác nhân trong
nền kinh tế sao cho có lợi và giảm rủi ro. Như vậy, trên phương diện vi mô thì
kinh doanh ngân hàng là việc sản xuất, buôn bán, quản lý, lưu thông và sử
dụng tiền cùng các tài sản tài chính. Mặt khác, nếu xét trên phương diện vĩ
mô thì tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán và
trong việc hoàn trả các món nợ. Vì vậy, đối tượng kinh doanh của các ngân
hàng là tiền và các tài sản tài chính thì đồng thời nó cũng bao gồm những dịch
vụ trực tiếp liên quan đến việc sản xuất, buôn bán, quản lý, lưu thông và sử
dụng tiền cùng các tài sản tài chính.
Kinh doanh ngân hàng là tiến hành các hoạt động gắn với các thể chế
trung gian tài chính hoạt động trên thị trường tài chính như: các hoạt động về
huy động tiền gửi, cho vay, chuyển tiền, làm trung gian thanh toán, tài trợ đầu
tư, đại lý môi giới tài chính hưởng hoa hồng… Thị trường xã hội là tổng thể
thống nhất của các thị trường riêng biệt. Có thể xem thị trường xã hội được
hình thành bởi hai loại thị trường chủ chốt là thị trường tài chính và thị trường
các hàng hoá dịch vụ phi tài chính. Trên thị trường tài chính diễn ra các hoạt
động tạo lập, lưu thông, trao đổi các sản phẩm dịch vụ tài chính tiền tệ, các tổ
chức ngân hàng, tài chính hoạt động trong lĩnh vực này. Còn trên thị trường

phi tài chính diễn ra các hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi các sản phẩm
dịch vụ phi tài chính, mà người hoạt động trong lĩnh vực này là các tổ chức

11
phi tài chính như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, thương nghiệp và vận tải.
Hoạt động kinh doanh ở mỗi ngân hàng chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi
những tác động của môi trường kinh doanh. Đối với chủ ngân hàng và những
người quản lý ngân hàng thì hoạt động kinh doanh ở mỗi ngân hàng trong các
thời kỳ luôn chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi môi trường kinh doanh về các mặt
kinh tế, kỹ thuật, luật pháp, tâm lý và tập quán xã hội. Đây là những nhân tố
bên ngoài tác động mạnh mẽ đến hoạt động của từng ngân hàng với những
khác biệt về tính chất và cường độ so với các lĩnh vực kinh doanh khác mà
ngân hàng không hoàn toàn chủ động kiểm soát được. Hoạt động ngân hàng
suy đến cùng là có tính lệ thuộc vào các hoạt động kinh tế chung mà trước hết
là các hoạt động sản xuất, lưu thông, tiêu dùng các sản phẩm vật chất. Việc
cung ứng và lưu thông tiền tệ cũng như các dịch vụ tài chính - tiền tệ nói
chung phụ thuộc chặt chẽ vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất, vào
tình hình hoạt động của các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp,
thương mại, tiêu dùng cá nhân… Có thể thấy rằng, bất kỳ một biến động đáng
kể nào của các lĩnh vực này đều trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến thị
trường tài chính và hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh mang tính độc
quyền và rủi ro cao. Có rất nhiều yếu tố khác nhau tạo nên tính độc quyền cao
và rủi ro cao trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
hiện đại. Bao gồm cả các yếu tố kinh tế, kỹ thuật, luật pháp, đặc điểm đối
tượng và quá trình kinh doanh. Trên thực tế, mọi chuyên gia nghiên cứu về
hoạt động kinh doanh ngân hàng trên thế giới đều thấy hiện tượng chỉ một vài
ngân hàng lớn chi phối hầu như toàn bộ thị trường quốc gia hay thế giới về
dịch vụ tài chính. Trong một số phân hệ của thị trường tài chính ở nhiều quốc

gia người cung ứng nhiều khi chỉ là một hay vài ba ngân hàng này chiếm tỷ lệ
đa số về thị phần, quy mô tài sản, quy mô và địa bàn hoạt động, cũng như khả

12
năng ảnh hưởng đến các cán cân thị trường về giá cả, lưu lượng hoạt động…
Điều tương tự cũng xảy ra với các thị trường tài chính quốc tế, ở đó một vài
tập đoàn tài chính khổng lồ chi phối lưu lượng hoạt động của thị trường. Từ
đó tạo tính độc quyền cao trong kinh doanh ngân hàng.
Một đặc trưng khác trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là tính rủi ro
cao. Rủi ro ở đây được quan niệm là những biến động không lường trước
được trong các điều kiện, môi trường, trong hoạt động và tham số hoạt động
kinh doanh làm cho ngân hàng không đạt được các mục tiêu. Biểu hiện là
mức độ phá sản và khả năng mất vốn của ngân hàng rất lớn khi cạnh tranh
tăng lên so với các lĩnh vực kinh doanh khác cho dù là ngân hàng lớn hay
nhỏ.
1.1.2. Các chức năng của NHTM.
Tầm quan trọng của các NHTM được minh họa một cách rõ nét thông
qua các chức năng cơ bản của nó, bao gồm:
Huy động tiền gửi: là một dịch vụ rất quan trọng mà các NHTM thực
hiện với các khu vực của nền kinh tế. Tiền gửi có hai loại là tiền gửi thanh
toán và tiền gửi có kỳ hạn. Trong đó, tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi có thể
rút ra theo yêu cầu để thoả mãn các giao dịch hàng ngày của các cá nhân hay
doanh nghiệp. Còn tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có thể rút ra nhưng phải
báo trước với ngân hàng và được duy trì như hình thức tiết kiệm của các cá
nhân hoặc doanh nghiệp để thoả mãn các nhu cầu chi trả đều đặn. Bằng việc
cung cấp các điều kiện thuận lợi cho việc gửi tiền, NHTM đã huy động được
khoản tiền nhàn rỗi trong dân để đáp ứng nhu cầu đầu tư, tiêu dùng cần thiết,
qua đó người gửi tiền nhận được một khoản tiền dưới dạng lãi suất với mức
độ an toàn. Tiền lãi trả cho khoản tiền gửi có thời hạn cao hơn tiền lãi trả cho
tiền gửi thanh toán nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền lâu hơn, giúp cho


13
tình hình tài chính của ngân hàng được ổn định hơn. Ở nhiều nước, phần lớn
tiền gửi tiết kiệm được thực hiện thông qua hệ thống NHTM.
Cơ chế thanh toán: là chức năng quan trọng của NHTM. Khách hàng
muốn rút tiền gửi từ ngân hàng có thể thực hiện bằng cách trực tiếp rút tiền
mặt. Tiền mặt rút ra từ ngân hàng sẽ được bổ sung bằng séc hoặc thẻ tiền mặt
để tiện lợi hơn. Tuy nhiên, phần lớn các giao dịch ngân hàng được thực hiện
bằng séc, thẻ tín dụng và bằng các phương tiện khác. Trả tiền bằng séc là hình
thức thông dụng nhất của việc chi trả không dùng tiền mặt. Ngân hàng thực
hiện việc chi trả bằng cách ký tên vào séc, còn người nhận đem nộp séc vào
ngân hàng của mình. Sau đó séc được thanh toán bù trừ qua hệ thống liên
ngân hàng. NHTM càng được sự tín nhiệm trong việc sử dụng séc và thẻ tín
dụng thì chức năng này của ngân hàng càng trở nên quan trọng. Việc thanh
toán của NHTM được sự trợ giúp của công nghệ thông tin hiện đại sẽ ngày
càng phát triển theo hướng nhanh gọn và tiện lợi. Hiện nay, ở nhiều nước
ngành ngân hàng đã được trang bị máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật
hiện đại khác, điều đó giúp cho việc thanh toán được diễn ra nhanh chóng, chi
phí thấp và đạt độ chính xác cao.
Mở rộng cho vay: từ khi mới được thành lập, các NHTM đã luôn tìm
kiếm cơ hội cho vay. Số tiền huy động được thông qua hình thức tiết kiệm
luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân.
Thông qua cơ chế nhận tiền gửi và cho vay, NHTM tạo ra lợi nhuận, đảm bảo
cho sự tồn tại và phát triển của nó. Vì thế, mở rộng cho vay là một chức năng
quan trọng nhất của các NHTM. Việc tài trợ của các NHTM cho hoạt động
ngoại thương và du lịch góp phần thúc đẩy việc buôn bán giữa các nước phát
triển và giảm bớt phí tổn giao dịch. Cùng với sự tăng lên của các hoạt động
ngoại thương giữa các nước, dịch vụ ngân hàng đối ngoại của NHTM cũng
không ngừng tăng lên.


14
Dịch vụ uỷ thác của NHTM sẽ ra đời và phát triển khi thu nhập của dân
chúng và của các công ty tăng lên. NHTM sẽ đáp ứng nhu cầu về chuyển tài
sản giữa các cá nhân, về phân chia lợi tức giữa các công ty, phục vụ các dịch
vụ liên quan đến phát hành, thanh toán và chuộc lại các cổ phiếu và tín phiếu.
Bảo quản tài sản có giá trị một cách an toàn nhất cho khách hàng. Đây
là một trong những dịch vụ lâu đời nhất và đang phát triển của NHTM trong
điều kiện hiện tại. Các giấy tờ có giá trị như trái khoán, cổ phiếu thường được
bảo quản tại các ngân hàng lớn. Các công ty tài chính và phi tài chính thường
gửi chứng khoán nợ tại các NHTM. Hơn nữa, nhiều người sở hữu chứng
khoán còn yêu cầu ngân hàng không chỉ bảo quản cho họ những chứng khoán
đó trong từng thời kỳ dài mà còn làm dịch vụ thu lãi chứng khoán và nhập
vào tài khoản của họ ở ngân hàng.
Ngoài ra NHTM còn cung cấp dịch vụ mua bán chứng khoán cho khách
hàng. Thực tế cho thấy khi có sự tham gia của ngân hàng vào thị trường
chứng khoán như là một nhà môi giới đầu tư, hoạt động của thị trường này trở
nên hiệu quả hơn. Trong tương lai, chức năng này của ngân hàng, đặc biệt đối
với các ngân hàng lớn sẽ được mở rộng hơn. [8, 17]
1.1.3. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trƣờng.
Để phát triển nền kinh tế thị trường, loại hình doanh nghiệp không thể
thiếu là NHTM. Ngân hàng là con đẻ của nền kinh tế hàng hoá, nhưng sau khi
ra đời thì ngân hàng lại đóng vai trò quan trọng cho nền kinh tế hàng hoá phát
triển, góp phần to lớn xoá bỏ các ách tắc trong lưu thông hàng hoá, tạo điều
kiện sản xuất kinh doanh tăng trưởng nhanh chóng. Về mặt lý luận và thực
tiễn cho thấy, muốn phát triển nền kinh tế thị trường điều quan trọng là phải
phát triển các trung gian tài chính.
NHTM ra đời là kết quả tất yếu của sự phát triển của nền sản xuất hàng
hoá, nhưng mặt khác hệ thống NHTM với tư cách là trung gian tài chính

15

thông qua các hoạt động của mình tác động trở lại, đóng vai trò động lực quan
trọng thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Trong thế giới hiện đại, tính cho đến thời điểm này thì NHTM và cơ cấu
hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng nhất trong thể chế tài chính của mỗi
nước. Hoạt động của NHTM đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn,
trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh vực
và theo hướng chuyên sâu. Vai trò của NHTM thể hiện ở những điểm sau:
Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lưu chuyển vốn của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế, quá trình vận động của vốn có thể thực hiện thông qua hai
kênh dẫn vốn chính là tài chính trực tiếp và tài chính gián tiếp. Trong đó,
kênh dẫn vốn tài chính trực tiếp là kênh dẫn vốn thông qua thị trường vốn.
Người có vốn nhàn rỗi và người cần vốn gặp trực tiếp nhau trên thị trường
vốn. Còn kênh dẫn vốn tài chính gián tiếp là kênh dẫn vốn thông qua các
trung gian tài chính nói chung và ngân hàng nói riêng. Người có vốn nhàn rỗi
và người cần vốn gặp nhau một cách gián tiếp thông qua trung gian tài chính.
Các trung gian tài chính đi vay vốn của người có vốn nhàn rỗi và cho người
cần vốn vay lại.
Kênh tài chính trực tiếp về cơ bản chứa đựng nhiều hạn chế vì đòi hỏi
phải có sự phù hợp về nhu cầu giữa người đi vay và người có vốn cho vay.
Kênh tài chính gián tiếp do hoạt động của các trung gian tài chính nên đã khắc
phục được các hạn chế của kênh tài chính trực tiếp. Trong nền kinh tế hàng
hoá phát triển, chức năng trung gian tài chính của ngân hàng đóng một vai trò
quan trọng. Phần lớn quy mô hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng vốn
đều được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng. Điều này được thể hiện là
nguồn tín dụng do các ngân hàng cung cấp cho các doanh nghiệp chiếm một
tỷ trọng ngày càng cao trong nguồn vốn tín dụng của doanh nghiệp.

16
Nâng cao chất lượng hoạt động huy động và cho vay vốn trong nền kinh
tế. Loại hình doanh nghiệp chuyên môn hoá cao trong lĩnh vực kinh doanh

tiền tệ, NHTM dựa trên uy tín của mình đã khuyến khích các chủ thể kinh tế
có vốn nhàn rỗi gửi vào ngân hàng để thu lãi tiền gửi. Đồng thời, nhờ vào lợi
thế quy mô và nghiệp vụ, ngân hàng đã giúp các nhà đầu tư về vốn và các
dịch vụ ngân hàng để các nhà đầu tư thực hiện tốt các dự án sản xuất kinh
doanh. Như vậy, ngân hàng là một trung gian tài chính với chức năng quan
trọng là đi vay để cho vay. Hoạt động NHTM đã góp phần quan trọng trong
việc tối đa hoá khối lượng vốn khả dụng cho nền kinh tế với mức chi phí thấp
nhất. Trên phương diện nghiệp vụ đầu ra là cấp tín dụng cho nền kinh tế,
NHTM với bề dày kinh nghiệm của mình được xem như là một tổ chức hàng
đầu trong hoạt động cho vay. Trong nền kinh tế, NHTM có thể đảm bảo một
cách tốt nhất để các dự án đầu tư có hiệu quả. Có thể nói, NHTM thông qua
các hoạt động của mình đã tập trung và biến các khoản tích luỹ xã hội, các
nguồn vốn tản mạn không sinh lời hoặc sinh lời thấp thành vốn đầu tư cho
phát triển nền kinh tế.
Đóng vai trò cỗ máy tạo tiền của nền kinh tế. Không phải ngay khi mới
hình thành các NHTM đã thực hiện được chức năng quan trọng này. Chỉ khi
hoạt động các NHTM phát triển tới một mức độ nhất định, khi mà hoạt động
cấp tín dụng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt thông qua hệ thống
ngân hàng trở nên phổ biến thì chức năng này của ngân hàng mới thực sự thực
hiện được một cách đúng mức. Việc các ngân hàng thực hiện các bút tệ, bút
toán ghi sổ là yếu tố quan trọng nhất góp phần hình thành chức năng tạo tiền
của hệ thống NHTM. Đây là cơ sở để NHTW thực hiện việc điều tiết lượng
tiền cung ứng, qua đó điều tiết thị trường tài chính, tiền tệ thông qua các công
cụ chính sách tiền tệ của mình.

17
Đẩy nhanh quá trình thanh toán, giảm chi phí giao dịch trong nền kinh
tế. Vai trò này của ngân hàng tương ứng với chức năng trung gian tài chính
của nó. Với những dịch vụ thanh toán ngày càng thuận tiện của mình, từ hình
thức thanh toán truyền thống tới các hình thức thanh toán điện tử hiện đại,

ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng và đẩy nhanh
hoạt động trung gian thanh toán, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
kinh tế trong nước và quốc tế phát triển. Mặt khác, do trình độ chuyên môn
hoá cao ở các ngân hàng trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nên đã hạ thấp chi
phí cho quá trình thanh toán, nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế.
Thông qua hoạt động trung gian thanh toán, các hoạt động về huy động vốn
và cho vay của NHTM được tăng cường và phát huy có hiệu quả.
Cầu nối nền tài chính trong nước với nền tài chính quốc tế. Trong nền
kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được
mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới ngày
càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi nước luôn
gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành của
sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước cũng phải hoà nhập với
nền tài chính quốc tế và NHTM cùng các hoạt động kinh doanh của mình đã
đóng một vai trò quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ kinh
doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái
và các nghiệp vụ khác, NHTM đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không
ngừng được mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại
hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại nước ngoài, hệ thống
NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự
vận động của nền tài chính quốc tế.
NHTM ra đời và phát triển trên cơ sở nền sản xuất, lưu thông hàng hoá
phát triển và nền kinh tế ngày càng cần đến hoạt động của NHTM với các
chức năng và vai trò của mình. Thông qua việc thực hiện các chức năng và

18
vai trò của mình, nhất là chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã trở thành
một bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nhân tố cốt lõi cho sự hình thành và phát triển của thị trường vốn tại
các nước đang phát triển. Một trong những yếu tố hàng đầu để thị trường tài

chính phát triển là phải có một hệ thống các trung gian tài chính đủ mạnh, đủ
sức hoạt động với tư cách là những tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp trong
lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Tuy nhiên tại các nước đang phát triển, hệ thống
trung gian tài chính còn rất hạn chế về chủng loại cũng như về chất lượng.
Trong hệ thống trung gian tài chính ở các nước này chỉ có NHTM có quá
trình lịch sử phát triển lâu đời và có uy tín nhất. Do vậy, NHTM đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển thị trường tài chính nói chung và thị
trường chứng khoán nói riêng. Thông qua các hoạt động của NHTM sẽ thúc
đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, tạo đà cho sự ra đời thị trường
chứng khoán. Các NHTM đảm nhiệm hầu hết các chức năng của các tổ chức
trung gian tổ chức khác để trong giai đoạn đầu có thể tạo lập được nền tảng
cơ bản cho thị trường, tạo lập môi trường thuận lợi cho các loại hình trung
gian tài chính khác phát triển, từng bước hoàn thiện thị trường tài chính. [1,
20]
1.2. ĐẶC TRƢNG VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA NHTMCP.
1.2.1. Các đặc trƣng cơ bản của NHTMCP.
NHTMCP là một hình thức của công ty cổ phần. Hình thức cổ phần thực
ra đã có một lịch sử lâu đời. Nhiều nhà kinh tế cho rằng hình thức cổ phần là
một trong những phát minh lớn của loài người. Nếu trong nền kinh tế tập
trung, nền kinh tế hiện vật thì hình thức này không cần đến nó, không phù
hợp và như vậy có cũng không thể xuất hiện và tồn tại. Nhưng trong nền kinh
tế thị trường, nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần thì lại

19
rất cần đến nó và đó là mảnh đất tốt để loại hình này xuất hiện, tồn tại và phát
triển.
Loại hình NHTMCP đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và được pháp
luật quy định rõ ràng, chi tiết cho từng loại hình. Hình thức kinh tế cổ phần
nói chung và NHTMCP nói riêng là một tổ chức kinh doanh có số vốn thuộc
sở hữu chung của nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần. NHTMCP

thành lập trên cở sở sở hữu nhà nước, sở hữu của các cá nhân, sở hữu của các
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và có thể có cả tổ chức và cá nhân nước ngoài
tham gia. Hình thức sở hữu cổ phần luôn là sở hữu hỗn hợp và là sở hữu
phần, tức là mỗi thành viên có vốn góp đều tham gia sở hữu và cùng sở hữu
các tài sản đó và sẽ có quyền sở hữu phần tài sản tương ứng với số vốn mà
mình đóng góp. Hình thức cổ phần đã cụ thể hoá nguyên tắc tập thể và cá thể
trong hệ thống sở hữu. Ngay cả trong điều kiện có sự tham gia sở hữu của
nhiều bên, nhiều cá nhân, nhiều thành phần, cả trong nước và nước ngoài,
song do đặc trưng của quan hệ sở hữu cổ phần mà nó đã giải quyết tốt mâu
thuẫn giữa lợi ích kinh tế của các bên tham gia, giải quyết tốt các mâu thuẫn
về quyền sở hữu của các bên tham gia.
NHTMCP được hình thành từ vốn góp của các thành viên tham gia. Vốn
của NHTMCP được chia thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được
phát hành dưới hình thức cổ phiếu. Người góp vốn vào ngân hàng, nắm giữ
cổ phiếu được gọi là cổ đông. Cổ đông của NHTMCP có thể là các cá nhân,
các tổ chức, các doanh nghiệp nhà nước. Cổ phiếu xác nhận phần vốn góp vào
ngân hàng, xác nhận quyền sở hữu phần tài sản của ngân hàng đồng thời xác
nhận phần lợi nhuận được hưởng và quyền chi phối và điều hành ngân hàng.
Nét đặc trưng của cổ phiếu là nó vừa liên quan đến quan hệ sở hữu, vừa liên
quan đến quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Cổ phiếu và tín dụng là hai hình thức
giống mà khác nhau. Cả hai hình thức đều gắn với sự vận động của dòng vốn
nhàn rỗi và được hưởng thu nhập trên số vốn nhàn rỗi đó. Mặc dù cổ phiếu

×