Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Phát huy lợi thế so sánh trong quá trình phát triển kinh tế ở một số nước ASEAN và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 135 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ




TRẦN THỊ LAN HƯƠNG




PHÁT HUY LỢI THẾ SO SÁNH TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở MỘT SỐ
NƯỚC ASEAN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM








Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị















HÀ NỘI - 2005



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ




TRẦN THỊ LAN HƯƠNG




PHÁT HUY LỢI THẾ SO SÁNH TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở MỘT SỐ
NƯỚC ASEAN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM





Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 5.02.01



Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ VĂN HÀ
VIỆN NGHIÊN CỨU ĐÔNG BẮC Á







HÀ NỘI - 2005



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: LỢI THẾ SO SÁNH VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC KHAI THÁC LỢI
THẾ SO SÁNH Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

7

1.1
Các lí thuyết về lợi thế so sánh
7
1.1.1
Lí thuyết lợi thế so sánh của D.Ricardo
7
1.1.2
Lí thuyết của Heshcher – Ohlin
9
1.1.3
Lí thuyết cầu tương hỗ của Stuart Mill
12
1.1.4
Một số lí thuyết truyền thống khác
13
1.2
Vai trò của việc khai thác lợi thế so sánh ở các nước đang phát
triển
19
1.2.1
Tầm quan trọng của việc phát huy lợi thế so sánh đối với phát triển
kinh tế ở các nước đang phát triển
19
1.2.2

Bối cảnh quốc tế hiện nay,những quan niệm bổ sung về lợi thế so
sánh
24
CHƯƠNG 2: LỢI THẾ SO SÁNH TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Ở CÁC NƯỚC ASEAN-5

34
2.1
Lợi thế so sánh chủ yếu ở các nước ASEAN-5
34
2.1.1
Điều kiện kinh tế ban đầu của ASEAN-5 khi tiến hành công nghiệp
hoá
34
2.1.2
Các lợi thế so sánh chủ yếu ở ASEAN-5
36
2.1.3
Lợi thế so sánh ở từng nước ASEAN-5
43
2.2
Chính sách của các chính phủ để tận dụng những lợi thế so sánh
trong giai đoạn 1970-1996
52
2.2.1
Chính sách công nghiệp hoá
552
2.2.2
Chính sách lựa chọn sản phẩm xuất khẩu
575
2.2.3
Chính sách đào tạo nhân lực
60
2.2.4
Chính sách phát triển khoa học công nghệ
63

2.2.5
Điều chỉnh chính sách phát huy lợi thế so sánh ở ASEAN-5 sau
khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
69
2.3
Tác động của việc tận dụng lợi thế so sánh ở các nước ASEAN-5
76
2.3.1
Tác động đối với tăng trưởng kinh tế
76
2.3.2
Tác động đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
76
2.3.3
Phát huy nội lực để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
78
2.3.4
Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế
79
2.3.5
Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế
81
2.3.6
Đánh giá những hạn chế của chính sách phát huy lợi thế so sánh
84
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC ASEAN-5 TRONG
PHÁT HUY LỢI THẾ SO SÁNH NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

90
3.1

Các điều kiện phát triển kinh tế và việc sử dụng lợi thế so sánh
nhằm phát triển kinh tế ở Việt Nam
90
3.1.1
Nhận thức về lợi thế so sánh ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
90
3.1.2
Phát huy lợi thế so sánh trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam
97
3.1.3
Thách thức hiện nay trong việc phát huy lợi thế so sánh ở Việt Nam
101
3.2
Vận dụng bài học kinh nghiệm từ phát huy lợi thế so sánh của các
nước ASEAN-5
108
3.2.1
Kinh nghiệm về công nghiệp hoá bền vững để phát huy tốt nhất
những lợi thế so sánh
108
3.2.2
Kinh nghiệm xuất phát từ chính năng lực nội sinh
110
3.2.3
Kinh nghiệm từ sự thay đổi lợi thế so sánh trong từng giai đoạn
113

KẾT LUẬN
116


TÀI LIỆU THAM KHẢO
119

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AFTA
Khu vực thương mại tự do ASEAN
AICO
Kế hoạch hợp tác công nghiệp ASEAN
APEC
Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GNP
Tổng sản phẩm quốc dân
HDI
Chỉ số phát triển con người
RCA
Lợi thế so sánh biểu hiện
PPP
Phương pháp đồng giá sức mua
TFP
Năng suất lao động tổng nhân tố
WB
Ngân hàng thế giới
WTO

Tổ chức thương mại thế giới



1
MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và hội nhập kinh tế
quốc tế, lợi thế so sánh là yếu tố cần thiết để các quốc gia phát huy những ưu thế
sẵn có để trao đổi và bổ sung lẫn nhau nhằm đạt được sự huy động nguồn lực
cho quá trình phát triển kinh tế. Trong những thập kỷ qua, một số nước ASEAN
là Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan, Philipin và Singapo (ASEAN-5) phát huy
được những lợi thế so sánh của mình để thực hiện chính sách mở cửa và công
nghiệp hoá. Nhờ tận dụng được những lợi thế so sánh về lao động đông và rẻ, tài
nguyên thiên nhiên phong phú và chưa được khai thác triệt để, đất đai màu mỡ
và vị trí địa lý thuận lợi và với mục đích thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài,
xuất khẩu hàng hoá thu ngoại tệ phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế, các
nước ASEAN-5 đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 8%/năm trong
thập kỷ 70, 6%/năm trong thập kỷ 80, một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao hơn bất
cứ khu vực nào khác trên toàn thế giới. Nhờ đó, đã nâng cao được mức sống cho
dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế hiện đại và thực hiện các chính sách kinh tế
xã hội khác một cách hiêụ quả. Nhiều chuyên gia nghiên cứu quốc tế đã đánh giá
các nước ASEAN-5 như những "con hổ" tạo nên sự "thần kỳ Châu Á".
Tuy nhiên, ngoài những nét tương đồng của khu vực Đông Nam Á, lợi thế
so sánh của các nước ASEAN-5 cũng có sự khác nhau, do vậy dẫn đến những
công cụ chính sách thực hiện để phát huy lợi thế so sánh của mỗi nước cũng có
những khác biệt. Đó cũng là một trong những lý do giải thích cho sự chênh lệch
tương đối về trình độ phát triển của các nước tính đến cuối thập kỷ 90. Trong bối
cảnh toàn cầu hoá và cạnh tranh kinh tế quốc tế gay gắt như hiện nay, Singapo

và Malaixia đã tìm được những lợi thế so sánh mới trong những ngành công
nghiệp tập trung nhiều vốn, công nghệ và lao động có kỹ năng và đang mất dần
những lợi thế so sánh truyền thống về lao động rẻ, trong khi đó các nước
ASEAN khác vẫn chủ yếu nằm ở sự phát triển các ngành công nghiệp tập trung
những lợi thế so sánh truyền thống và chưa tìm ra được những bước đi thích hợp

2
để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội
khác.
Sự khác biệt trong tận dụng lợi thế so sánh ở các nước và mức độ thành
công của mỗi nước trong phát huy lợi thế so sánh là những bài học kinh nghiệm
vô cùng quý giá cho các nước đi sau, trong đó có Việt Nam. Thực hiện mở cửa
và cải cách kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Việt Nam đang tiến hành
công nghiệp hoá rút ngắn. Để thực hiện công nghiệp hoá "rút ngắn", việc tận
dụng và phát huy những lợi thế so sánh đồng thời với tích luỹ và tạo dựng những
lợi thế so sánh mới là rất cần thiết. Nghiên cứu những thành công và hạn chế
trong việc phát huy những lợi thế so sánh ở các nước ASEAN-5 sẽ rất hữu ích để
rút ra những kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam. Xuất phát từ những thực tế
trên và với kiến thức đã được học, đề tài "Phát huy lợi thế so sánh trong quá
trình công nghiệp hoá ở một số nước ASEAN và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam" sẽ mang tính cấp thiết đối với quá trình công nghiệp hoá tiếp theo của Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, có rất nhiều học giả Việt Nam và nước ngoài nghiên cứu về
các đề tài có liên quan đến luận văn dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể phân
thành hai nhóm công trình nghiên cứu: a) của các học giả Việt Nam ; và b) của
các học giả nước ngoài.
Trong nhóm công trình thứ nhất, phải kể đến tác phẩm “ Công nghiệp hoá
Việt Nam trong thời đại Châu Á - Thái Bình Dương” của tác giả Trần Văn Thọ
(Nhà xuất bảnthành phố Hồ Chí Minh, năm 1997); “Vài khía cạnh kinh tế Việt

Nam suy nghĩ từ kinh nghiệm của các nền kinh tế mới công nghiệp hoá” của tác
giả Nguyễn Anh Tuấn (Nhà xuất bản khoa học xã hội, năm 1996); “Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá: phát huy lợi thế so sánh. Kinh nghiệp của các nền kinh tế đang
phát triển ở Châu Á” của tác giả Đỗ Đức Định (chủ biên; Nhà xuất bản chính trị
quốc gia 1999); "Cạnh tranh kinh tế" của tác giả Trần Văn Tùng (Nhà xuất bản
thế giới; năm 2004). Các tác phẩm này đã tập trung phân tích những chính sách
và kinh nghiệm công nghiệp hoá của một số nền kinh tế Đông Á, trong đó có
nhấn mạnh đến mô hình “đàn nhạn bay”, sự tận dụng nguồn tài nguyên và nhân

3
lực rẻ để phát triển thương mại và thu hút FDI của một số nước trong khu vực,
sự khác nhau giữa lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh, thực trạng công nghiệp
hoá và lựa chọn các sản phẩm xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay, và những
bài học, những biện pháp thiết thực rút ra từ các nước Châu Á mà Việt Nam nên
tham khảo học tập. Một số giáo trình giảng dạy kinh tế quốc tế của Việt Nam
như “ Quan hệ kinh tế quốc tế” của tác giả Võ Thanh Thu (xuất bản năm 2003);
"Kinh tế học quốc tế" của tác giả Tô Xuân Dân (chủ biên) (xuất bản năm 1995);
“Kinh tế học phát triển: những vấn đề đương đại” do nhà xuất bản khoa học xã
hội phát hành năm 2003 đã đề cập đến những xu hướng chủ yếu của thời đại
ngày nay, lợi ích của việc phát huy lợi thế so sánh đối với các nước đang phát
triển, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, kinh nghiệm phát huy lợi thế so
sánh của một số nước Châu Á trong thời gian qua. Các tác giả đều cho rằng
thương mại theo hướng thúc đẩy xuất khẩu ở Đông Á cũng như ở Việt Nam có
vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng như góp
phần tăng cường sự hội nhập quốc tế của các nước.
Về các thể loại báo, tạp chí, có rất nhiều tác giả đề cập đến việc phát huy lợi
thế so sánh của một số nước Châu Á và kinh nghiệm cho Việt Nam. Điển hình là
các bài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm: một số kinh nghiệm quốc
tế” của tác giả Vũ Anh Tuấn; (tạp chí Cộng sản số 10/2004); “Áp dụng phương
pháp phân tích lợi thế so sánh để nghiên cứu tiềm năng hội nhập kinh tế của các

nước ASEAN và cơ hội cho Việt Nam: của tác giả Lê Hà Thanh (bài hội thảo
của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân); “Mô hình phát triển của ASEAN nhìn từ
phía Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy Quý (Tạp chí Nghiên cứu trao đổi, số
4/1999); “Hội nhập quốc tế: cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế nước ta”
của tác giả Lê Đăng Doanh (Tạp chí Cộng Sản số 5/1999);…. Nội dung các bài
báo trên chủ yếu phân tích vai trò của công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, phân
loại lợi thế so sánh động, lợi thế so sánh tĩnh, những kết quả tận dụng lợi thế so
sánh, hướng đi cho Việt Nam trong thời kỳ đổi mới để phát huy lợi thế so
sánh….
Trong các công trình nghiên cứu thuộc nhóm thứ hai, trước hết phải kể đến
những bài viết của các tác giả như Matthias Busse “Do Labour Standard Affect

4
Comparative Advantage in Developing Countries” (2002); Mc Kinsey and
Company “ASEAN Competitiveness Study: Preliminery Final Report” (2003);
"Competitive versus Comparative Advantge" của tác giả J. Peter Neary (The
Developing Economy; World Bank 2003). Những bài viết này đã phần nào đề
cập những nguồn lực cơ bản của lợi thế so sánh ở các nước đang phát triển và
các nước ASEAN, những lợi thế so sánh mới, sự khác nhau giữa lợi thế so sánh
và lợi thế cạnh tranh, việc tận dụng lợi thế so sánh động và tĩnh ở một số nước.
Bên cạnh đó, những ấn phẩm của Ngân hàng Thế giới (WB); Liên Hợp Quốc
(UN) đã cung cấp những số liệu cập nhật về các chỉ số cơ bản của lợi thế so
sánh và công nghiệp hoá của các nước ASEAN.
Tình hình nghiên cứu từ trước đến nay cho thấy chủ yếu các công trình
nghiên cứu đều đi vào phân tích vai trò của thương mại quốc tế đối với các nước,
hoặc một vài khía cạnh cụ thể nào đó của lợi thế so sánh như khai thác nguồn tài
nguyên, nguồn nhân lực, vị trí địa lý, sự màu mỡ của đất đai. Đặc biệt, chưa có
một công trình nghiên cứu nào mang tính chất bao quát toàn diện những khía
cạnh, những vấn đề của lợi thế so sánh, những kết quả phát huy lợi thế so sánh
của các nước ASEAN, những nguyên nhân dẫn đến kết quả đó, cũng như những

bài học cụ thể cho các nước đi sau trong đó có Việt Nam. Vì lẽ đó, với việc lấy
chiến lược phát huy lợi thế so sánh của các nước ASEAN-5, những tác động cơ
bản của nó đối với nền kinh tế các nước làm đối tượng nghiên cứu chính, luận
văn sẽ là một công trình nghiên cứu đầy đủ về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu quá trình thực hiện các chính sách kinh tế
nhằm phát huy lợi thế so sánh ở các nước ASEAN-5, đánh giá thành công và hạn
chế trong việc phát huy lợi thế so sánh của các nước ASEAN-5, và rút ra những
kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam.
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào việc thực hiện nhiệm
vụ cụ thể sau:
- Phân tích các lý thuyết về lợi thế so sánh, những thay đổi trong quan niệm
về lợi thế so sánh trong bối cảnh toàn cầu hoá.

5
- Những lợi thế cơ bản của các nước ASEAN-5, những tương đồng và khác
biệt về lợi thế so sánh của các nước.
- Những công cụ chính sách để thực hiện việc phát huy những lợi thế so
sánh đó và tác động của nó đối với nền kinh tế của mỗi nước. Những nhìn nhận
đánh giá mới về việc tận dụng lợi thế so sánh của các nước này sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997.
- Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những chính sách của chính phủ các
nước nhằm phát huy lợi thế so sánh: như chính sách lựa chọn sản phẩm xuất
khẩu, chính sách thị trường, chính sách phát triển công nghệ, chính sách thu hút
đầu tư nước ngoài, chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách tài chính
tiền tệ, phát triển thể chế Luận văn cũng tập trung nghiên cứu những tác động
cơ bản của việc phát huy lợi thế so sánh đối vơí các nước ASEAN-5 như: tác
động đến tăng trưởng GDP, giải quyết công ăn việc làm, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, nâng cao thu nhập, mở rộng quy mô kinh tế, nâng cao tính cạnh tranh
của nền kinh tế
Phạm vi nghiên cứu là 5 nước ASEAN gồm Singapo, Malaixia, Thái Lan,
Philippin, Inđônêxia.
Về không gian, luận văn tập trung nghiên cứu việc phát huy lợi thế so sánh
của các nước ASEAN-5 kể từ năm 1970, khi các nước này bắt đầu chiến lược
công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Đối với Việt Nam, thời gian nghiên cứu để
áp dụng kinh nghiệm phát huy lợi thế so sánh của các nước ASEAN-5 sẽ được
tính từ năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách "Đổi mới" kinh tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng trong việc
nghiên cứu các khoa học xã hội, tác giả còn sử dụng các phương pháp thống kê,
tổng hợp, phân tích kinh tế nhằm tìm ra những căn cứ, số liệu minh hoạ cho các
luận điểm, đồng thời góp phần dự đoán cho giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh đó, tác
giả còn sử dụng phương pháp phân kỳ, nghiên cứu so sánh nhằm tìm ra những

6
nét đặc thù của các giai đoạn khác nhau. Đồng thời, hàng loạt các bảng biểu,
hình vẽ, đồ thị sẽ được sử dụng để minh hoạ thêm cho vấn đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Tác giả hy vọng luận văn sẽ có những đóng góp cơ bản sau:
Thứ nhất, tóm tắt, đánh giá các lý thuyết chủ yếu về lợi thế so sánh, mối
quan hệ giữa việc tận dụng lợi thế so sánh và phát triển kinh tế, chỉ ra những
nhân tố mới của lợi thế so sánh.
Thứ hai, phân tích mối quan hệ giữa chính sách phát huy lợi thế so sánh và
kết quả tận dụng lợi thế so sánh của ASEAN-5 trong thời gian qua để đánh giá
những mặt được và mặt chưa được khi thực hiện mục tiêu chính sách công
nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Thứ ba, những bài kinh nghiệm rút ra từ việc phát huy lợi thế so sánh của
các nước ASEAN-5 cho Việt Nam trong.

6. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lợi thế so sánh và vai trò của việc khai thác lợi thế so sánh ở các
nước đang phát triển
Chương 2: Lợi thế so sánh trong quá trình phát triển kinh tế ở các nước
ASEAN-5
Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm của các nước ASEAN-5 trong phát huy
lợi thế so sánh nhằm phát triển kinh tế ở Việt Nam.


7
Chương 1
LÝ THUYẾT LỢI THẾ SO SÁNH VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC KHAI
THÁC LỢI THẾ SO SÁNH Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

1.1. Các lý thuyết về lợi thế so sánh
Ngay từ giữa thế kỷ 16, trường phái trọng thương đã chú ý đến vai trò quan
trọng của ngoại thương trong việc làm tăng của cải quốc gia. Đến thế kỷ 18, nhà
kinh tế chính trị học cổ điển Anh Adam Smith đã đưa ra khái niệm lợi thế so
sánh tuyệt đối để lý giải cho tầm quan trọng của ngoại thương. Ông cho rằng các
nước trên thế giới buôn bán với nhau là vì họ khác nhau và vì họ cùng có lợi.
Trên thế giới, các nước đều khác nhau về điều kiện tự nhiên, địa lý, tài nguyên,
và sự khác nhau này buộc các nước phải chuyên môn hoá vào việc sản xuất một
số mặt hàng nhất định. Nước có khoáng sản thì tập trung chuyên môn hoá vào
phát triển công nghiệp, còn nước có đất đai phì nhiêu thì tập trung vào sản xuất
nông sản. Thông qua chuyên môn hoá, sản lượng của hai nước sẽ tăng lên, và
thông qua trao đổi thương mại thì cả hai nước cùng có lợi.
Quan điểm về lợi thế so sánh tuyệt đối chưa phản ánh đầy đủ sự khác biệt
giữa các nước trong trao đổi thương mại, tuy nhiên quan điểm này đã mở đầu

cho những lý thuyết khác nhau về lợi thế so sánh. Trên thực tế, ngoài sự khác
biệt về tài nguyên thiên nhiên, địa lý, đất đai, các nước còn có sự khác nhau về
năng suất lao động, dung lượng thị trường, các nguồn lực về con người,
vốn…Các nhà kinh tế chính trị học sau Adam Smith đã giải thích sự khác biệt
giữa các nước theo các tiêu chí bổ sung như trên. Điển hình là lý thuyết của
David Ricardo, Heckscher – Ohlin, Stuart Mill… Chúng được coi là những lý
thuyết truyền thống để phân tích những nhân tố cơ bản của lợi thế so sánh và lợi
ích thương mại của việc khai thác và phát huy các lợi thế so sánh.
1.1.1. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
Ra đời vào thế kỷ 19, lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo được coi là mô
hình đơn giản nhất giải thích về các nhân tố cơ bản của lợi thế so sánh và lợi ích
thu được từ trao đổi thương mại. Giả thiết của mô hình này gồm:

8
- Thế giới chỉ có hai quốc gia (Chẳng hạn là Trung Quốc và Việt Nam) và
chỉ sản xuất hai mặt hàng (giấy và vải). Mỗi quốc gia có lợi thế về một mặt hàng.
- Lao động (L) là yếu tố sản xuất duy nhất có thể di chuyển trong mỗi nước,
nhưng không di chuyển giữa các nước.
- Công nghệ sản xuất ở hai nước là cố định.
- Chi phí sản xuất (K) cố định, không có chi phí vận tải.
- Thương mại hoàn toàn tự do giữa hai nước.
Căn cứ vào giả thiết trên, so với Việt Nam, Trung Quốc sẽ có lợi thế tương
đối trong sản xuất giấy và Việt Nam có lợi thế tương đối trong sản xuất vải nếu
như:
{Lvải/Lgiấy }ở Trung Quốc > {Lvải/Lgiấy} ở Việt Nam
hoặc:
{Lvải Trung Quốc/Lvải Việt Nam} > {Lgiấy Trung Quốc/Lgiấy Việt Nam}
thậm chí Trung Quốc có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai mặt hàng
trên, tức là:
Lvải Trung Quốc < Lvải Việt Nam và Lgiấy Trung Quốc < Lgiấy Việt Nam

Khi đó, trong trao đổi thương mại giữa hai nước, Trung Quốc sẽ có lợi
nhiều hơn nếu xuất khẩu giấy sangViệt Nam, và Việt Nam sẽ có lợi nhiều hơn
khi xuất khẩu hàng dệt may sangTrung Quốc.
Có thể minh hoạ mô hình Ricardo bằng ví dụ sau đây:

Trung Quốc
Việt Nam
Giấy (tấn/1 giờ công)
10
40
Vải (mét/1 giờ công)
15
20

Số liệu trên cho thấy Trung Quốc có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai
mặt hàng bởi vì yêu cầu chi phí đầu tư vào cả hai mặt hàng đó đều thấp hơn nếu
so sánh với Việt Nam. Tuy nhiên, nếu phân tích theo mô hình lợi thế so sánh
tương đối của Ricardo, ta thấy Lgiấy Trung Quốc/Lgiấy Việt Nam bằng 10/40 và
Lvải Trung Quốc/Lvải Việt Nam bằng 15/20. Do 10/40 < 15/20, nên Trung Quốc

9
được đánh giá là có lợi thế so sánh tương đối trong sản xuất giấy và Việt Nam có
lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Việt Nam sẽ chuyên môn hoá sản xuất vải
và đem đổi vải lấy giấy củaTrung Quốc, bởi vì nếu không có sự trao đổi này,
Việt Nam sẽ phải chi phí 40 giờ lao động thay vì 20 giờ lao động. Còn với Trung
Quốc, mặc dù có lợi thế tuyệt đối cả hai mặt hàng nhưng vẫn chuyển lao động
sang sản xuất giấy để thu lợi nhiều hơn.
Lý thuyết lợi thế so sánh tương đối của Ricardo vì vậy còn có tên gọi là lý
thuyết lợi thế chi phí tương đối. Lý thuyết này đặt ra vấn đề là một sản phẩm có
thể được sản xuất ở trong nước nhưng cũng có thể được nhập khẩu hoặc xuất

khẩu. Nguyên tắc của lợi thế so sánh theo quan điểm của Ricardo là: một nước sẽ
chuyên môn hoá vào việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với
chi phí tương đối thấp hơn các nước khác, và nhập khẩu hàng hoá mà họ sản
xuất tương đối kém hiệu quả với chi phí tương đối cao hơn. Việc chuyên môn
hoá dựa trên cơ sở lợi thế so sánh sẽ giúp các nước có điều kiện trao đổi hàng
hoá với nhau và cả hai cùng có lợi.
Thông qua mô hình Ricardo, chúng ta hiểu được rằng tại sao thương mại
quốc tế lại xuất hiện và nó có tác động như thế nào đến lợi ích của các nước. Tuy
nhiên, nếu so sánh với thực tiễn thương mại quốc tế hiện nay, mô hình này còn
nhiều hạn chế bởi: Thứ nhất, trên thực tế việc chuyên môn hoá sản xuất hoàn
toàn mà mô hình đòi hỏi không thể xảy ra; Thứ hai, giả định về lao động không
thể di chuyển tự do giữa các nước là phán đoán không đúng với thực tế ngày
nay; Thứ ba, Ricardo đã bỏ qua vai trò lợi thế so sánh nhờ quy mô và mới chỉ để
cập tới nhân tố cung hàng hoá, mà chưa chú ý tới nhân tố cầu hàng hoá. Các nhà
kinh tế học đi sau đã khắc phục dần những hạn chế này của Ricardo.
1.1.2. Lý thuyết lợi thế so sánh của Heckscher – Ohlin
Những phân tích của Ricardo về lợi thế so sánh đã được hai nhà kinh tế học
Thuy Điển Eli Heckscher và Bertil Ohlin làm sáng tỏ thêm vào những năm 30
của thế kỷ 20. Nếu như Ricardo cho rằng chỉ có một yếu tố duy nhất tham gia
vào quá trình sản xuất (đó là chi phí lao động để sản xuất ra một đơn vị hàng

10
hoá), thì Heckscher – Ohlin cho rằng: quan niệm lợi thế so sánh không chỉ gồm
yếu tố lao động để sản xuất ra một hàng hoá mà còn bao gồm nhiều yếu tố khác
như đất đai, vốn…Giả thiết của mô hình này là:
- Chỉ có hai quốc gia tham gia vào quá trình sản xuất và trao đổi thương mại
(chẳng hạn Trung Quốc và Việt Nam); chỉ có 2 loại hàng hoá (vải và giấy), và
hai yếu tố sản xuất là lao động (L) và vốn (K).
- Cả hai quốc gia sử dụng cùng một loại công nghệ sản xuất.
- Hàng hoá vải sử dụng nhiều lao động và hàng hoá giấy được sử dụng

nhiều vốn ở cả hai quốc gia.
- Cả hai hàng hoá được sử dụng trong điều kiện tỷ lệ thu hồi theo quy mô là
không đổi ở cả hai quốc gia.
- Không có sự chuyên môn hoá sản xuất hoàn toàn ở hai quốc gia.
- Sở thích của hai quốc gia là như nhau.
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
- Có sự dịch chuyển linh hoạt của các yếu tố lao động và vốn trong phạm vi
quốc gia nhưng không có sự dịch chuyển quốc tế.
- Không xét chi phí vận tải, thuế nhập khẩu hoặc các trở ngại thương mại
khác (thương mại tự do).
- Toàn bộ tài nguyên được sử dụng triệt để ở cả hai nước.
- Thương mại quốc tế giữa hai quốc gia được cân đối.
Theo giả định trên, ngành dệt là ngành sử dụng nhiều lao động hơn, trong
khi ngành giấy sử dụng nhiều vốn hơn nếu:
(K/L) để sản xuất giấy > (K/L) để sản xuất vải
Cho rằng, giá chi phí vay vốn (hay còn gọi là lãi suất) là (r) được tính bằng
USD và tiền lương là (w) được tính bằng USD/giờ, Trung Quốc sẽ là nước dồi
dào vốn hơn và Việt Nam dồi dào lao động hơn, nếu:
(r/w) ở Trung Quốc < (r/w) ở Việt Nam
Điều này có nghĩa là Trung Quốc (nơi có vốn tương đối rẻ, hay còn gọi là
lãi suất tương đối thấp) sẽ có lợi thế so sánh trong sản xuất các hàng hoá sử dụng

11
nhiều vốn (chẳng hạn như giấy) và Việt Nam(nơi có vốn đắt hơn và khan hiếm
hơn) sẽ có lợi thế trong sản xuất các hàng hoá sử dụng nhiều lao động (như dệt
vải). Do vậy, khi quan hệ buôn bán với nhau, Trung Quốc sẽ xuất khẩu giấy và
Việt Nam sẽ xuất khẩu vải.
Theo Heckscher – Ohlin, ở cả Trung Quốc và Việt Nam, lao động và vốn
được sử dụng để sản xuất ra các mặt hàng. Tiền lương được trả cho công nhân và
lãi suất được trả cho việc sử dụng vốn. Như vậy, chi phí sản xuất vải và giấy ở

mỗi nước hoàn toàn được xác định với các mức lương và lãi suất không đổi.
Điều này sẽ làm tăng chi phí ở cả hai ngành sản xuất, nhưng mức độ bị ảnh
hưởng lại khác nhau. Do ngành vải đòi hỏi nhiều lao động nên chi phí sẽ tăng
cao hơn so với mức tăng của chi phí ngành giấy. Như vậy, một sự gia tăng về
tiền lương so với lãi suất sẽ làm tăng chi phí sản xuất của mặt hàng đòi hỏi nhiều
lao động (vải) so với mặt hàng đòi hỏi nhiều vốn (giấy). Do các yếu tố sản xuất
được giả định là không di chuyển được giữa hai nước và lao động của Việt Nam
không cạnh tranh với lao động của Trung Quốc nên tiền lương và lãi suất ở Việt
Nam và Trung Quốc sẽ không ngang bằng nhau. Do có sự khác biệt giữa các yếu
tố sản xuất nên tiềm năng sản xuất của Việt Nam và Trung Quốc cũng khác
nhau. Nếu Việt Nam có sự dồi dào tương đối về lao động (phản ánh ở tỷ lệ tiền
lương/lãi suất thấp hơn), Việt Nam sẽ có lợi thế tương đối hơn trong các hàng
hoá sử dụng nhiều lao động so với Trung Quốc (có tỷ lệ tiền lương/lãi suất cao
hơn).
Dựa trên nguyên tắc trên, Heckscher – Ohlin đưa ra một định lý như sau:
Một nước sẽ xuất khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất chúng cần sử dụng
nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó, và nhập khẩu những hàng hoá
mà việc sản xuất ra chúng cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở nước
đó. Nói một cách vắn tắt, một nước tương đối giàu về lao động sẽ xuất khẩu
hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu hàng hoá sử dụng nhiều vốn.
Trong ví dụ trên, Trung Quốc sẽ có lợi thế về giấy, còn Việt Nam sẽ có lợi thế về
vải. Trung Quốc sẽ xuất khẩu giấy sang Việt Nam để đổi lấy vải.

12
So với Ricardo, Heckscher – Ohlin đã cho rằng không có yếu tố chuyên
môn hoá hoàn toàn trong sản xuất hàng hoá. Các nước chỉ có sự khác nhau duy
nhất là ở các nguồn lực – một nước có sự giàu có hơn về lao động nhưng lại
khan hiếm hơn về vốn so với nước kia, trong khi có rất nhiều yếu tố giống nhau
như nhu cầu hàng hoá, mức giá tương đối, công nghệ…Tuy nhiên, hạn chế của
mô hình Heckscher – Ohlin là: trên thực tế hiện nay, cạnh tranh hoàn hảo là

không thể xảy ra và sự thay đổi công nghệ đã khiến cho các quốc gia có những
thay đổi khác nhau về lợi thế so sánh. Cũng giống như Ricardo, Heckscher –
Ohlin cũng mới chỉ chú ý đến nhân tố cung tương đối của hàng hoá trên thị
trường, mà chưa chú trọng đến sự thay đổi trong cầu tương đối, đặc biệt khi nó
bị hạn chế bởi khả năng thu nhập của dân chúng, do vậy nó chưa sát với thực
tiễn của thương mại quốc tế, mà ở đó thương mại được đặt trong mối quan hệ
chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu dùng.
1.1.3. Lý thuyết cầu tương hỗ của Stuart Mill
Khắc phục những hạn chế của lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo, nhà
kinh tế học người Anh Stuart Mill (1806 - 1873) đã đưa ra lý thuyết cầu tương
hỗ (hay cầu đối ứng), trong đó nhấn mạnh đến yếu tố cầu trong thương mại quốc
tế. Ông cho rằng trong hoạt động trao đổi thương mại giữa hai nước, cung và cầu
đều cần thiết, do vậy lợi thế so sánh không thể dựa trên chi phí so sánh mà dựa
vào giá trị trao đổi. Dựa trên những lý luận mà Ricardo đã nêu ra, Stuart Mill cho
rằng một nước nếu mà sản phẩm của mình có nhu cầu, được ưa chuộng ở nước
ngoài, thì nước đó thu được nhiều lợi nhuận nhất trong trao đổi hàng hoá. Chẳng
hạn, nếu sản phẩm giấy của Trung Quốc được dân chúng Việt Nam ưa chuộng,
thì giá trị của nó sẽ tăng. Nhờ đó, Trung Quốc có thể mua được nhiều hàng dệt
may ở Việt Nam hơn và ngược lại.
Để trình bày quan điểm của Stuart Mill, có thể đưa ra một ví dụ sau đây:
Với mức tiền lương như nhau, công nhân ở Trung Quốc và Việt Nam sản xuất
như sau:

Việt Nam
Trung Quốc
Vải (mét/1 giờ công)
5
10
Giấy (tấn/1 giờ công)
100

300

13

Việt Nam sẽ có lợi khi xuất khẩu vải sang Trung Quốc. Với 5 mét vải, Việt
Nam mua được từ 100 đến 150 tấn giấy của Trung Quốc. Nếu bằng hoặc lớn
hơn 150 tấn thì Trung Quốc sẽ từ chối không trao đổi giấy lấy vải của Việt Nam
bởi vì như vậy họ sẽ tự sản xuất vải ở trong nước. 5 mét vải và số lượng từ 100
đến 150 tấn giấy chính là ranh giới để hai nước trao đổi hàng hoá với nhau.
Lượng hàng trao đổi giữa hai nước có thể là nhiều hoặc ít tuỳ thuộc theo nhu cầu
về sản phẩm của nước này ở nước kia. Lượng hàng đó trong thương mại quốc tế
được biểu thị bởi cái tên gọi là đường cung. Đường cung là đường biểu diễn mô
tả lượng hàng mà một nước muốn xuất khẩu để đổi lại một lượng hàng nhập
khẩu từ nước kia. Nó xác định lợi ích nhiều hay ít hơn ở từng nước phụ thuộc
vào đường cầu đối ứng. Chẳng hạn, người Trung Quốc thích vải của người Việt
Nam hơn, họ sẽ sẵn sàng trao đổi một lượng giấy của mình lớn hơn để có vải, và
trong trường hợp đó người Việt Nam có lợi. Còn ngược lại, nếu người Việt Nam
thích giấy của người Trung Quốc hơn, họ sẵn sàng trao đổi vải nhiều hơn để lấy
giấy, và người Trung Quốc có lợi.
Nhìn chung, so với Ricardo, Stuart Mill đã làm nổi bật hơn lợi ích của
thương mại quốc tế thông qua phân tích cung cầu hàng hoá. Tuy nhiên, hạn chế
của ông là: ông vẫn chấp nhận nhiều giả thuyết cổ điển về lợi thế so sánh
(thương mại quốc tế chỉ gồm hai nước, hai hàng hoá, không có sự thay đổi công
nghệ, thương mại được thực hiện tự do…). Bên cạnh đó, thông qua phân tích cầu
tương hỗ, Stuart Mill đi đến một kết luận là: trong thương mại quốc tế, nước
nghèo thu lợi nhiều nhất, bởi vì nước giàu có nhiều tiền và nhiều ham muốn nên
cầu của họ cao và họ sẵn sàng trả giá cao cho hàng hoá. Kết luận này là thiếu
chính xác trong nền kinh tế hiện đại.
1.1.4. Một số lý thuyết truyền thống khác
Nếu như Ricardo nghiên cứu quy luật lợi thế so sánh tương đối trên cơ sở

đưa ra những giả thuyết đơn giản hoá của lý thuyết giá trị lao động, thì Haberler
(1936) lại đưa ra lý thuyết chi phí cơ hội để chứng minh cho quy luật lợi thế

14
tương đối. Haberler cho rằng: trên thực tế lao động không bao giờ có sự đồng
nhất: những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau với mức lương
khác nhau, năng suất lao động và trình độ tay nghề khác nhau. Hơn nữa, hàng
hoá làm ra không chỉ bởi lao động mà còn bao gồm cả các yếu tố sản xuất khác
như đất đai, vốn, kỹ thuật. Việc so sánh hàm lượng lao động của các mặt hàng
khác nhau sẽ đưa ra những nhận định sai lệch về giá trị tương đối, bởi vì việc sản
xuất những mặt hàng đó đòi hỏi tỷ trọng khác nhau về các yếu tố sản xuất. Theo
Haberler thì chi phí cơ hội của một hàng hoá là số lượng các hàng hoá khác
phải cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn tài nguyên để sản xuất thêm một đơn
vị hàng hoá thứ nhất. Như vậy, nước nào có chi phí cơ hội thấp trong việc sản
xuất một loại hàng hoá nào đó thì họ có lợi thế tương đối (lợi thế so sánh) trong
việc sản xuất hàng hoá đó và không có lợi thế tương đối trong việc sản xuất
hàng hoá thứ hai.
Để chứng minh cho luận điểm này, Haberler giả định khi không có thương
mại quốc tế, Trung Quốc phải bỏ đi 2/3 số đơn vị vải của mình để giành lại đủ
các nguồn tài nguyên cho việc sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm giấy. Như thế
chi phí cơ hội về giấy của Trung Quốc là 1 giấy = 2/3 đơn vị vải. Còn ngược lại
chi phí cơ hội về giấy ở Việt Nam là 1 giấy = 2 vải. Như vậy, Trung Quốc có lợi
thế tương đối trong việc sản xuất giấy còn Việt Nam có lợi thế tương đối trong
việc sản xuất vải. Theo quy luật lợi thế tương đối, Trung Quốc sẽ chuyên môn
hoá sản xuất giấy, còn Việt Nam sẽ chuyên môn hoá sản xuất vải. Theo
Haberler, chi phí cơ hội 1 giấy = 2 vải ở Việt Nam và 1 giấy = 2/3 vải ở Trung
quốc luôn là một hằng số. Tuy nhiên, trên thực tế, chi phí cơ hội rất ít khi là một
hằng số. Hầu hết các quốc gia đều ở trong tình trạng chi phí cơ hội tăng dần.
Bên cạnh lý thuyết lợi thế so sánh của Heckscher – Ohlin, nhà kinh tế học
Paul Samuelson phát triển rộng lý thuyết này tạo nên một lý thuyết chung là lý

thuyết Heckscher – Ohlin – Samuelson, viết tắt là H-O-S, hay còn gọi là lý
thuyết cân bằng giá cả yếu tố. Theo quan điểm của Hẹckscher – Ohlin về sự
cung ứng các yếu tố tài nguyên trong sản xuất hàng hoá, trong đó nước có nhiều

15
tài nguyên thiên nhiên và lao động sẽ tập trung vào sản xuất và xuất khẩu các sản
phẩm có thể sử dụng các yếu tố có sẵn, tương đối nhiều và rẻ ở trong nước; đồng
thời nhập khẩu các sản phẩm mà việc sản xuất đòi hỏi rất nhiều yếu tố sản xuất
mà nước đó có ít và đắt (chẳng hạn như vốn), và ngược lại. Thống nhất với quan
điểm đó, Samuelson đã đặt ra vấn đề: nếu một nước tăng sản xuất hàng hoá bằng
cách sử dụng những yếu tố dồi dào (chẳng hạn như lao động), thì nhu cầu đối với
yếu tố dư thừa đó sẽ tăng lên dẫn đến tăng giá các yếu tố (như tiền lương); đồng
thời nhu cầu đối với yếu tố khan hiếm (chẳng hạn như vốn) sẽ giảm dẫn tới giảm
giá của yếu tố (như lãi suất). Như vậy, giá của hai yếu tố có xu hướng xích lại
gần nhau, có nghĩa là giá của các yếu tố có xu hướng hội tụ trong một quốc gia.
Khuynh hướng đối lập này thậm chí có thể mở rộng ra đối với các quốc gia khác
hoặc các đối tác thương mại khác liên quan đến vấn đề dư thừa hay khan hiếm
tài nguyên.
Từ cách đặt vấn đề như trên, mô hình H-O-S đưa ra một định lý như sau:
Thương mại quốc tế sẽ đưa đến sự cân bằng thu nhập tương đối và tuyệt đối của
các yếu tố thuần nhất giữa các nước. Do đó, thương mại quốc tế là một cách
thay thế cho sự dịch chuyển quốc tế của các yếu tố. Điều đó có nghĩa là: thương
mại quốc tế làm cho (w) tăng ở nước thứ nhất (nước có tiền lương thấp) và giảm
ở nước thứ hai (nước có tiền lương cao). Do đó thương mại quốc tế làm giảm sự
khác biệt về (w) giữa hai nước khi có ngoại thương. Tương tự, thương mại quốc
tế làm giảm lãi suất (r) ở nước thứ nhất (nước có vốn đắt) và tăng ở nước thứ hai
(nước có vốn rẻ), do đó làm giảm sự chênh lệch về lãi suất khi có ngoại thương.
Đi xa hơn nữa, thương mại quốc tế không chỉ có khuynh hướng làm giảm sự
khác biệt quốc tế về thu nhập của các yếu tố thuần nhất, mà còn dẫn đến sự cân
bằng giá cả tương đối của các yếu tố khi tất cả các giả thiết được giữ vững.

Thương mại quốc tế sẽ tiếp tục được mở rộng cho đến khi giá cả tương đối của
hàng hoá được cân bằng hoàn toàn.
Khắc phục giả thuyết của Ricardo về thương mại quốc tế chỉ thực hiện gồm
hai nước, hai loại hàng hoá, vào năm 1965, nhà kinh tế học Balassa đã đưa ra

×