Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Rào cản trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 125 trang )





































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ



PHẠM HUY THĂNG







RÀO CẢN TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM




Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị
Mã số: 60.31.01






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ








HÀ NỘI - 2006






1
MỤC LỤC


Trang

PHẦN MỞ ĐẦU
1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ RÀO CẢN ĐỐI VỚI ĐẦU
TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI

1.1

Lý luận chung về rào cản đối với đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài
5
1.1.1
Khái niệm về rào cản đầu tư
6
1.1.2
Các rào cản đầu tư trực tiếp nước ngoài
6
1.2
Rào cản đối với đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở một số nƣớc
trong khu vực và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
18
1.2.1
Rào cản đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số nước trong khu
vực
18
1.2.2.
Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
28

CHƢƠNG 2: CÁC RÀO CẢN TRONG ĐẦU TƢ TRỰC
TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

2.1
Tổng quan về dòng vốn FDI và những tác động của nó đối
với sự phát triển kinh tế Việt Nam
34
2.1.1
Tổng quan dòng vốn FDI vào Việt Nam kể từ năm 1988

34
2.1.2
Tác động của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam
44
2.2
Các rào cản trong hoạt động FDI tại Việt Nam thời gian qua
51
2.2.1
Rào cản thể chế, pháp lý
51
2.2.2
Rào cản kinh tế
57
2.2.3
Rào cản tự nhiên
68


2
2.2.4
Rào cản văn hoá xã hội
71
2.2.5
Rào cản bên ngoài
74
2.3
Đánh giá chung về những tác động của rào cản đầu tƣ đối
với kinh tế Việt Nam
79


Chƣơng 3: những định hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm
hạn chế, tháo gỡ và xoá bỏ các rào cản trong hoạt động đầu
tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở việt nam thời gian tới

3.1
Bối cảnh mới và sự tác động đối với nhu cầu thu hút FDI
84
3.1.1
Bối cảnh quốc tế
84
3.1.2
Bối cảnh trong nước
90
3.2
Định hƣớng thu hút FDI của Việt Nam đến năm 2010
97
3.2.1
Mục tiêu thu hút FDI
97
3.2.2
Chiến lược thu hút FDI đến năm 2010
97
3.3
Các giải pháp hạn chế, tháo gỡ và xoá bỏ những rào cản đối
với FDI thời gian tới
99
3.3.1
Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý
99
3.3.2

Cải tiến thủ tục hành chính đối với FDI
103
3.3.3
Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch đối với nguồn vốn
FDI
105
3.3.4
Phát triển nguồn nhân lực
106
3.3.5
Nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội
109

Kết luận
111

Tài liệu tham khảo
114



1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một bộ phận quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là các quốc
gia đang phát triển như Việt Nam. Sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ VI (1986), chiến lược mở cửa kinh tế của Việt Nam đã đem lại một lượng
vốn FDI tương đối lớn bổ sung cho nguồn vốn khan hiếm trong nước. Kể từ

năm 1988 sau khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lần thứ nhất,
dòng FDI vào Việt Nam tiếp tục tăng nhanh và có những đóng góp không nhỏ
cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Qua nhiều lần sửa đổi, Luật đầu tư
nước ngoài của Việt Nam đã có phần thông thoáng hơn, cởi mở hơn, phù hợp
với tình hình thực tiễn hơn, môi trường đầu tư được cải thiện tốt hơn. Nhìn
chung, cho đến nay FDI đã trở thành một mục tiêu cơ bản, lâu dài và là một
hoạt động không thể thiếu, có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh
tế ở Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tiễn gần 2 thập kỷ thu hút FDI cho thấy, môi trường
đầu tư của Việt Nam đang gặp rất nhiều vấn đề bất cập, ảnh hưởng không nhỏ
đến động thái và hiệu quả của dòng vốn FDI vào nước ta. Nếu nhìn nhận một
cách khách quan, dòng vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian gần đây đang
chịu ảnh hưởng của rất nhiều rào cản phát sinh, bao gồm cả những rào cản từ
môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, môi trường tự nhiên, môi trường văn
hoá xã hội, môi trường bên ngoài Điều này đang tác động một cách trực tiếp
và gián tiếp tới dòng vốn FDI vào Việt Nam. Vấn đề chính đặt ra là làm thế
nào để có thể giảm thiểu, hạn chế và xoá bỏ những rào cản trong các dự án
FDI để có thể thu hút nhiều hơn nữa dòng vốn FDI vào Việt Nam, tránh tình
trạng đầu tư không hiệu quả và tình trạng ngày càng có nhiều vốn FDI không
vào Việt Nam mà đổ vào các nước láng giềng như Trung Quốc chẳng hạn.


2
Với những yêu cầu đặt ra cả về lý luận và thực tiễn như trên, việc tìm
hiểu và nghiên cứu vấn đề : “Rào cản trong hoạt động đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài tại Việt Nam” là hết sức cần thiết và tôi chọn đó làm đề tài luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Rào cản trong các dự án FDI của nước ngoài là một vấn đề được nhiều
nhà hoạch định chính sách, nhiều cơ quan, các nhà kinh tế trong nước và quốc

tế quan tâm. Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này như:
- TS. Vũ Quốc Bình: “Hoàn thiện đồng bộ môi trường pháp lý trong
kinh doanh cho các công ty liên doanh với nước ngoài”, Tạp chí Kinh tế và
Phát triển, tháng 7/1997.
- TS. Lê Đăng Doanh: ”Giảm chi phí đầu cào để tăng sức cạnh tranh”,
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 29/5/2003.
- TS. Vũ Thế Dũng, “Những rào cản cần vượt qua”, Thời báo Kinh tế
Sài Gòn, 12/9/2004.
- TS. Phùng Xuân Nhạ, “Đầu tư quốc tế”, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2000.
- TS. Nguyễn Văn Thường, “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam, những rào
cản cần phải vượt qua”, NXB Lý luận chính trị, 2005.
- TS. Trần Văn Thọ, “Tìm chỗ đứng cho công nghiệp Việt Nam trong
mạng lưới phân công lao động quốc tế: Nâng cao sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp để hội nhập và phát triển”, Tokyo 31/5/2005.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết khác có liên quan đăng trên các báo, tạp
chí khác.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn quan trọng về vai trò của FDI đối với Việt Nam cũng như các
rào cản và một số chính sách liên quan đến việc làm thế nào hạn chế, tháo gỡ và
xoá bỏ chúng. Nhưng về cơ bản, những nghiên cứu về các rào cản trong hoạt


3
động FDI của Việt Nam được xem xét trong chiến lược phát triển kinh tế chung
của đất nước. Do đó mục đích, đối tượng, phạm vi và thời điểm nghiên cứu
khác nhau, đặc biệt là trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập của Việt
Nam hiện nay thì việc nghiên cứu vấn đề “Rào cản trong hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam” cả về thực trạng và giải pháp là rất cần thiết.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế, tháo gỡ
và xoá bỏ các rào cản trong các dự án FDI trong thời gian tới ở Việt Nam. Để
thực hiện được mục tiêu này, đề tài có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về các loại rào cản trong hoạt động
FDI.
- Đánh giá thực trạng về tình hình hoạt động đầu tư và các rào cản trong
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam từ năm 1988 đến nay.
- Trên cơ sở các phân tích trên, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm
hạn chế, tháo gỡ và xoá bỏ các rào cản trong hoạt động FDI ở Việt Nam trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu:
Các rào cản hiện nay trong hoạt động FDI ở Việt Nam và các chính
sách nhằm tháo gỡ và xoá bỏ các rào cản trong hoạt động FDI của Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các hoạt động chính sách
liên quan đến áp đặt, thực thi và tháo gỡ các rào cản trong hoạt động FDI ở
Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Đây được coi là mốc thời gian mà nhiều
chuyên gia đánh giá là sự chuyển mình trong chính sách thương mại cũng như
quan hệ đối ngoại của Việt Nam.
- Về không gian: Các rào cản cơ bản trong hoạt động FDI ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu


4
Để làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của luận văn, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp: phương pháp kết hợp phân tích với
tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, dự báo trong quá trình nghiên cứu

đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về rào cản đầu tư trong các
lý thuyết đầu tư quốc tế, kinh nghiệm của một số nước khu vực trong việc xoá
bỏ rào cản đầu tư và bài học cho Việt Nam
- Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ 1988
đến nay, các rào cản đầu tư chủ yếu của Việt Nam hiện nay, để từ đó thấy
được những mặt còn tồn tại, hạn chế và vấn đề đặt ra trong thời gian tới.
- Trên cơ sở những vấn đề lý luận, đánh giá về thực tiễn, tác giả đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm tháo gỡ, hạn chế, xoá bỏ các rào cản trong
hoạt động FDI ở Việt Nam thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về
rào cản đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương 2: Các rào cản trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam thời gian qua.
Chương 3: Những quan điểm định hướng và những giải pháp cơ bản
nhằm hạn chế, tháo gỡ và xoá bỏ các rào cản trong hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam thời gian tới.


5
Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ RÀO CẢN ĐỐI VỚI
ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI



Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
tăng lên nhanh chóng và trở thành một trong những cơ hội thúc đẩy các nền
kinh tế đang phát triển có thêm điều kiện để phát triển kinh tế. Các lý thuyết
về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng ra đời từ đó. Mặc dù với những
cách tiếp cận khác nhau, nhưng những lý thuyết về FDI đều tập trung lý giải
nguồn gốc ra đời của đầu tư nước ngoài và những tác động quan trọng của nó
đối với nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Những lý thuyết này đã trở thành
cơ sở lý luận quan trọng đối với việc hoạch định chính sách đầu tư nước
ngoài của các nước.
Cho đến nay, môi trường quốc tế đã thay đổi và đang có nhiều nhân tố
ảnh hưởng đến dòng vốn FDI. Cùng với xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá
kinh tế, ngày càng nhiều các quốc gia đang cố gắng phá bỏ những rào cản đầu
tư, tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn để thu hút FDI. Nếu nhìn nhận
một cách tổng quan, các rào cản đối với đầu tư nước ngoài của một nước bao
gồm cả những rào cản từ môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, môi trường
tự nhiên, môi trường văn hoá xã hội, môi trường bên ngoài Những rào cản
này đang có tác động trực tiếp và gián tiếp tới tình hình thu hút FDI của nước
đó. Đây cũng chính là những vấn đề cốt yếu mà chương này có ý định nghiên
cứu, nhằm xem xét cụ thể những rào cản hiện nay đối với đầu tư nước ngoài
và góp phần đánh giá chính xác những rào cản đầu tư hiện nay của Việt Nam
và giải pháp xoá bỏ những rào cản đó trong những chương tiếp theo.


6
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ RÀO CẢN ĐỐI VỚI ĐẦU TƢ TRỰC
TIẾP NƢỚC NGOÀI
1.1.1. Khái niệm về rào cản đầu tƣ
Ngày nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về rào cản đầu tư. Một số
nước (điển hình là Pháp) quan niệm rào cản không có tính chất đối xứng, chỉ

đơn thuần theo nghĩa có tiêu cực, có hại như rào cản thời tiết Ngược lại, ở
một số nước khác (điển hình ở Mỹ) có quan niệm lạc quan hơn, cho rằng rào
cản có tính chất đối xứng, trong đó cả hai khả năng thắng hay bại, được hay
thua đều được nhìn nhận như nhau. Chẳng hạn, việc tích trữ đầu cơ một mặt
hàng có thể lãi nhưng cũng có thể sẽ lỗ. Mặc dù có những quan điểm khác
nhau về rào cản, tuy nhiên các quan niệm này dường như cũng có những mỗi
quan hệ, đặc trưng cơ bản giống nhau, đó là: sự không chắc chắn, bất ngờ (có
sự sai lệch giữa một bên là những gì xảy ra trong thực tế với một bên là những
gì được dự kiến từ trước, và sự sai lệch này lớn đến mức khó chấp nhận, thậm
chí không thể chấp nhận được và hậu quả là do một hoặc nhiều nguyên nhân
gây ra.
Tựu chung lại theo tác giả, thì rào cản đầu tư là những rào cản từ
môi trường kinh tế, môi trường tự nhiên, môi trường pháp lý, môi trường
văn hoá xã hội, cũng như từ các nguyên nhân khách quan và chủ quan có
tác động không tốt đến dòng lưu chuyển vốn đầu tư quốc tế.
Rào cản không mang tính quy luật, nó vận động, biến đổi theo môi
trường pháp lý, kinh tế, kỹ thuật, tự nhiên theo khả năng làm chủ tự nhiên và
tư duy của con người. Do vậy, quản lý và kiểm soát được rào cản ngày càng
được coi trọng và là công việc hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện các
dự án đầu tư.
1.1.2. Các rào cản đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.2.1. Rào cản thể chế, pháp lý
Trong quá trình đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài rất cần một môi trường
pháp lý vững chắc và có hiệu lực từ nước nhận đầu tư. Môi trường này bao gồm


7
một hệ thống đầy đủ các chính sách, quy định cần thiết, đảm bảo sự nhất quán,
không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau và có hiệu lực trong thực hiện. Các nhà
đầu tư nước ngoài luôn tôn trọng các quy định về chính sách, luật pháp của

nước nhận đầu tư.
Các hoạt động đầu tư nước ngoài chịu tác động bởi nhiều chính sách
của nước chủ nhà, trong đó có các chính sách tác động trực tiếp như quy định
về lĩnh vực đầu tư, mức sở hữu của nước ngoài, miễn giảm thuế đầu tư, quy
định các tỷ lệ xuất khẩu, tư nhân hoá, cạnh tranh, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
và các chính sách có ảnh hưởng gián tiếp như các chính sách về tài chính tiền
tệ, thương mại, văn hoá - xã hội, an ninh, đối ngoại Mức độ đầy đủ và hợp lý
của các chính sách này sẽ có ảnh hưởng mạnh đến dòng vốn đầu tư vào nước
chủ nhà, ngược lại nó sẽ là rào cản lớn hạn chế vốn đầu tư nước ngoài.
Các quy định của nước nhận đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài
cũng là những rào cản đối với dòng lưu chuyển vốn đầu tư quốc tế. Các quy
định thường là các thủ tục hành chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong
việc đi lại, xin giấy phép đầu tư, giải quyết các khiếu kiện và các vấn đề khác
trong cuộc sống của họ. Việc ban hành quá nhiều các quy định đối với các nhà
đầu tư nước ngoài thường dẫn đến tình trạng cửa quyền, nhũng nhiễu của các
cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài. Tình trạng này thường làm nản lòng các
nhà đầu tư và góp phần làm tăng rủi ro trong quá trình đầu tư của họ.
Một rào cản khác cũng có tác động tiêu cực đến các nhà đầu tư nước
ngoài là các chính sách, quy định đối với đầu tư nước ngoài không thống nhất
với nhau, dẫn đến việc nhà đầu tư không biết phải theo chính sách quy định
nào là đúng. Hiện tượng này dễ đẩy các nhà đầu tư nước ngoài vào hoàn cảnh
vi phạm pháp luật của nước chủ nhà. Mặt khác, việc sửa đổi các chính sách
luật pháp của nước chủ nhà đối với đầu tư nước ngoài không nhất quán cũng
làm cho các nhà đầu tư lúng túng trong khi thực hiện. Vì thế họ không yên tâm
làm ăn lâu dài ở nước nhận đầu tư.


8
Rào cản thể chế pháp lý còn thể hiện ở tính hiệu lực trong việc thực
hiện chính sách pháp luật của nước chủ nhà. Do làm ăn ở nơi xa lạ, không

người thân thích, với lượng tài sản và tiền vốn lớn, nên các nhà đầu tư nước
ngoài phải dựa vào pháp luật của nước chủ nhà để đảm bảo quyền lợi cho họ.
Vì thế, nếu việc thực hiện luật pháp không nghiêm túc, kém hiệu lực thì quyền
lợi của các nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy, các nhà đầu tư thường rất lo sợ
khi đầu tư vào những nước có môi trường pháp lý nhiều rủi ro.
1.1.2.2. Rào cản kinh tế
Rào cản kinh tế đối với đầu tư nước ngoài tại một quốc gia chủ yếu
thuộc về các yếu tố như: tính không ổn định của nền kinh tế vĩ mô, lạm phát
cao, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt nặng nề, cán cân thương mại mất cân
đối, thâm hụt ngân sách không thể kiểm soát được, trình độ phát triển của nền
kinh tế thấp, chất lượng cơ sở hạ tầng và dịch vụ kém hiệu quả, năng lực cạnh
tranh của nước chủ nhà yếu kém, dung lượng thị trường nhỏ Các yếu tố đó
có tác động mạnh mẽ đối với dòng vốn đầu tư nước ngoài, làm hạn chế các
hoạt động kinh doanh của các dự án FDI nếu như không được khắc phục. Có
thể nói các rào cản về kinh tế có tác động mạnh hơn các chính sách khuyến
khích ưu đãi về tài chính của nước chủ nhà đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của
kinh tế vĩ mô, các thủ tục hành chính và tham nhũng. Những nước có trình độ
quản lý vĩ mô kém thường dẫn tới tình trạng lạm phát cao, nợ nước ngoài lớn,
tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, các thủ tục hành chính rườm rà, tham nhũng
hoành hành Đây là những nguyên nhân tiềm ẩn cao dẫn tới khủng hoảng
kinh tế. Bởi vậy, các nhà đầu tư nước ngoài thường không muốn đầu tư vào
những nước có trình độ quản lý kinh tế vĩ mô kém.
Mặt khác, sự phát triển của kết cấu hạ tầng và dịch vụ sẽ tạo ra những
điều kiện thuận lợi và giảm những chi phí phát sinh cho các hoạt động đầu tư.
Kết cấu hạ tầng “cứng” gồm các yếu tố như hệ thống đường giao thông, sân
bay, bến cảng, điện lực, viễn thông Đây là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến việc vận hành các hoạt động kinh doanh và điều kiện sống của các nhà



9
đầu tư nước ngoài. Những nơi có kết cấu hạ tầng “cứng” thiếu và lạc hậu đều
tạo ra những rào cản đối với dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Kết cấu hạ tầng “mềm” bao gồm các yếu tố như chất lượng nguồn nhân
lực, dịch vụ tài chính, công nghệ và sinh hoạt cho các nhà đầu tư luôn là yếu
tố được các nhà đầu tư nước ngoài cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định đầu
tư vào một nước. Điều này cho thấy một nước nếu không có kết cấu hạ tầng
“mềm” đầy đủ và chất lượng sẽ là rào cản đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, sức mua và dung lượng thị trường luôn là yếu tố quan
trọng thu hút các nhà đầu tư. Quy mô và tính chất của thị trường luôn quyết
định quy mô và tính chất của sản xuất và tổng lợi nhuận của nhà đầu tư. Do
vậy, các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay thường có xu hướng nhằm vào các
quốc gia có quy mô thị trường lớn để đầu tư, và vấn đề giá nhân công rẻ đôi
khi không còn là yếu tố hấp dẫn chủ yếu đối với nhà đầu tư nếu như nước đó
có sức mua và dung lượng thị trường thấp.
Hơn nữa, những thị trường nước chủ nhà có tính cạnh tranh cao sẽ giảm
được các rào cản đối với đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể
tự do lựa chọn đầu tư vào lĩnh vực mà ở đó họ có lợi thế so sánh so với các
nhà đầu tư nội địa, trong khi nếu thị trường độc quyền thì việc lựa chọn này
khó thực hiện được. Do đó, mức độ canh tranh hay độc quyền của nước chủ
nhà cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến quyết định đầu tư của các nhà
đầu tư nước ngoài.
1.1.2.3. Rào cản tự nhiên
Đây là yếu tố gây e ngại nhiều nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài. Rào
cản tự nhiên bao gồm vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên không thuận lợi, cụ thể
hơn là khoảng cách địa lý khá xa, địa điểm không thuận tiện, khí hậu thay đổi
thất thường, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, dân số ít Những yếu tố này
tác động quan trọng đến tính sinh lãi hoặc rủi ro của các hoạt động đầu tư.
Các nhà đầu tư nước ngoài đều phải tiến hành chuyên chở hàng hoá và
dịch vụ giữa địa điểm sản xuất và tiêu thụ. Nếu vị trí địa lý thuận lợi, không xa

xôi cách trở thì chi phí vận chuyển thấp, giảm được giá thành và hạn chế rủi


10
ro. Ngược lại, nếu vị trí địa lý giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư xa xôi,
giao thông không thuận lợi, các rào cản này sẽ lớn hơn, làm nản lòng các nhà
đầu tư.
Khí hậu của nước chủ nhà cũng là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến
quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Yếu tố này bao gồm các đặc
điểm về thời tiết, độ ẩm, bão lũ Chẳng hạn, ở những nước có khí hậu nhiệt đới
gió mùa thường phù hợp với các dự án nông nghiệp hơn là các dự án công
nghiệp, vì khí hậu này thường có độ ẩm cao nên tác động xấu đến độ bền công
nghệ và điều kiện sống của các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư từ phương Tây.
Mặt khác, nếu điều kiện tự nhiên không thuận lợi sẽ không cung cấp
được các yếu tố đầu vào phong phú và giá rẻ cho các hoạt động đầu tư. Các
nhà đầu tư thường rất quan tâm đến nguồn cung cấp nguyên liệu tự nhiên và
lao động ở nước chủ nhà. Một nước sẽ không mang tính hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài nếu không có nguồn khoáng sản dồi dào với trữ lượng lớn,
nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, dân số đông Quy mô dân số đông không chỉ
có lợi thế về cung cấp nguồn lao động mà còn là khả năng tiêu thụ rất lớn. Tất
nhiên, mức độ hấp dẫn này còn phụ thuộc vào chất lượng của thị trường lao
động và sức mua của đa số tầng lớp dân cư.
Rào cản tự nhiên hầu hết có ảnh hưởng đến các dự án FDI trong các
ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, bởi các nhà đầu tư thường phải gặp những
rủi ro về thiên tai, dịch bệnh như hạn hán, cháy rừng, sét đánh, bão lũ, dịch
bệnh do ô nhiễm nguồn nước. Bên cạnh nguy cơ về rủi ro do thiên nhiên gây
ra, các vùng nguyên liệu như: rừng cao su, mía, gỗ, giấy phục vụ cho công
tác sản xuất của các doanh nghiệp đầu tư cũng liên tục bị bàn tay con người
chặt phá, đốt và lấn chiếm đất đai
1.1.2.4. Rào cản văn hoá, xã hội

Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều quan tâm đến nhóm yếu tố văn
hoá xã hội như: phong tục tập quán, tôn giáo, ngôn ngữ, trình độ phát triển văn
hoá, khoảng cách giàu nghèo, tỷ lệ tăng dân số vì nó quyết định đến thái độ tiêu


11
dùng và khả năng thanh toán của khách hàng tại các thị trường mục tiêu. Các yếu
tố này có thể là những cản trở, kìm hãm các hoạt động đầu tư nước ngoài.
Một trong những khó khăn nhất cho các nhà đầu tư khi kinh doanh ở
nước ngoài là sự bất đồng về ngôn ngữ. Sự khác biệt về ngôn ngữ không chỉ
làm phát sinh thêm chi phí (do phải học ngoại ngữ hoặc thuê phiên dịch) mà
còn có thể gây ra những hiểu nhầm nhau trong kinh doanh và khó khăn trong
sinh hoạt của các nhà đầu tư. Bởi vậy, nếu ngôn ngữ của nước chủ nhà được
nhiều nước sử dụng (chẳng hạn như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung
Quốc ) hoặc gần với các ngôn ngữ này thì rất thuận lợi cho các nhà đầu tư
nước ngoài.
Tôn giáo là một thành tố quan trọng của nền văn hoá, nó phản ánh tín
ngưỡng của con người vào một đấng siêu nhiên. Tín ngưỡng có tác động mạnh
đến các quan niệm sống của con người về các giá trị cá nhân và xã hội, qua đó
ảnh hưởng đến thái độ đối với các nhà kinh doanh, tập quán tiêu dùng và thuần
phong mỹ tục. Mỗi tôn giáo có cái nhìn khác nhau về giá trị đạo đức cá nhân và
xã hội. Chẳng hạn những người theo đạo Phật và đạo Hồi không thích nhìn
những phụ nữ ăn mặc có vẻ quyến rũ trên các nhãn hiệu sản phẩm, trong khi
các nhà đầu tư phương Tây lại muốn khai thác các hình ảnh này trong các
chương trình quảng cáo của họ. Gần gây, sự xung đột tôn giáo giữa đạo Hồi và
đạo Thiên chúa của phương Tây ngày càng trầm trọng, gây nên những kỳ thị
tôn giáo, xung đột, khủng bố ở nhiều nước. Đặc điểm khác nhau này đã tạo ra
những rào cản trong giao lưu giữa các nền văn hoá, ảnh hưởng không nhỏ đến
các nhà đầu tư nước ngoài.
Giá trị đạo đức và tinh thần dân tộc của nước chủ nhà cũng ảnh hưởng

lớn đến thu hút đầu tư nước ngoài. Nếu một xã hội không phân biệt đối xử, coi
trọng lòng tin, thương yêu đùm bọc lẫn nhau thì sẽ giảm được tình trạng bạo
loạn và tệ nạn xã hội. Hơn nữa, tính tự trọng dân tộc cao nhưng không có thái
độ bài ngoại sẽ có tính chất tích cực thu hút đầu tư nước ngoài. Ở những nước
luôn xảy ra bất ổn định chính trị và xã hội, xung đột xã hội xảy ra triền miên,


12
kỳ thị với người nước ngoài , các rào cản đối với đầu tư nước ngoài sẽ rất
lớn.
Phong tục tập quán của nước chủ nhà có ảnh hưởng lớn đến các hoạt
động kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư thường không
muốn đầu tư vào một nơi mà ở đó có quá nhiều các phong tục khác lạ như ăn
kiêng, nhiều lễ hội tôn giáo và các cấm đoán trong giao tiếp với người nước
ngoài. Trái lại, nếu nước chủ nhà có nhiều phong tục tập quán gần với các nhà
đầu tư thì không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong công việc kinh doanh
mà còn giúp họ dễ hoà nhập với cuộc sống của nước sở tại.
Mỗi nền văn hoá có đặc trưng riêng về thị hiếu thẩm mỹ. Thị hiếu này
có ảnh hưởng đến thiết kế nhãn hiệu, quảng cáo và kiểu dáng của sản phẩm.
Nếu không nắm bắt rõ thị hiếu thẩm mỹ của nước chủ nhà, các nhà đầu tư sẽ
gặp khó khăn do mất thời gian và chi phí thay đổi biểu tượng quản cáo, nhãn
hiệu, màu sắc Đôi khi, sự khác nhau về thị hiếu thẩm mỹ gây ra xung đột
giữa các nhà đầu tư và người dân của nước sở tại.
Trình độ phát triển giáo dục - đào tạo đóng vai trò rất quan trọng đối với
các hoạt động đầu tư nước ngoài. Trình độ giáo dục không tốt và cơ cấu đào
tạo không hợp lý sẽ là rào cản đối với các nhà đầu tư nước ngoài bởi đội ngũ
lao động đó không có tay nghề cao, không thích ứng với tác phong lao động
hiện đại, khiến sản xuất bị trì trệ, năng suất lao động thấp. Các nhà đầu tư
nước ngoài sẽ phải mất nhiều chi phí để đào tạo và tái đào tạo nguồn nhân lực
đáp ứng các yêu cầu sản xuất của họ.

1.1.2.5. Rào cản bên ngoài
Rào cản bên ngoài là những rào cản nảy sinh từ môi trường quốc tế.
Môi trường quốc tế thay đổi đang là nhân tố ảnh hưởng đến dòng FDI trong
thời gian gần đây. Trước kia, các lý thuyết đầu tư quốc tế đều nhấn mạnh đến
hàng rào thương mại như là một lực cản đối với xuất khẩu hàng hoá, do vậy
dẫn đến việc hình thành FDI để lẩn trốn những hàng rào thương mại đó. Hàng
rào thương mại này chủ yếu được sử dụng dưới hình thức thuế quan, hạn
ngạch, đôi khi còn là chi phí vận tải và các hình thức phi thuế quan khác.


13
Hàng rào thương mại thường được Chính phủ của các quốc gia sử dụng để
tăng nguồn thu ngân sách, bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước và thực
hiện các chính sách kinh tế của mình. Hàng rào thương mại này thường được
các lý thuyết đầu tư quốc tế nhấn mạnh trong mối quan hệ song phương (quan
hệ giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư) chứ chưa phản ánh trên bình diện
nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trong thời đại toàn cầu hoá, hàng rào thương
mại đã dần được gỡ bỏ, tạo điều kiện cho tự do hoá thương mại và đầu tư. Do
vậy, những nhân tố mới quyết định sự dịch chuyển dòng FDI trên thực tế là:
+ Tự do hoá thương mại, nghĩa là xoá bỏ các hàng rào thương mại, đang
đẩy lùi nhân tố lẩn tránh hàng rào thuế quan của dòng FDI và tập trung hơn
vào việc nâng cao sức cạnh tranh trong các hoạt động đầu tư hiện tại. Điều này
cũng làm tăng quy mô tiếp cận thị trường, chẳng hạn như đẩy mạnh xuất khẩu.
Tất cả các doanh nghiệp đều buộc phải nâng cao hiệu quả kỹ thuật và phản
ứng tốt hơn đối với các lực lượng thị trường không chỉ trong lĩnh vực thương
mại, mà còn trong các lĩnh vực dịch vụ và cơ sở hạ tầng. Các công ty xuyên
quốc gia (TNCs) cần phải tái thiết lại cơ cấu kinh doanh của họ, tận dụng tất
cả các tài sản của họ để đạt được mức độ hoạt động tốt nhất (best practice),
giảm sự xuất hiện của họ trong các ngành không có lợi thế cạnh tranh nhằm
tối đa hoá lợi nhuận. Do vậy, hoạt động của các TNCs ở nước ngoài thường

kéo theo các chức năng liên kết khác như R&D, quản lý tài chính, thu mua
với các nước nhận đầu tư để nâng cao hiệu quả cho công ty. Tự do hoá thương
mại đang đặt ra rất nhiều thách thức mới đối với những nước đang phát triển
để thích ứng với tình hình mới.
+ Cùng với tự do hoá thương mại, tự do hoá FDI cũng đang là nhân tố
thúc đẩy dòng FDI vào các khu vực và các nước. Ngày càng có nhiều những
thoả thuận ưu đãi đầu tư song phương giữa các nước. Nhờ đó, các TNCs được
tự do hơn trong vấn đề ra quyết định đầu tư, lựa chọn cách thức đầu tư và tăng
nhanh lợi nhuận. Nhờ có các hiệp định đầu tư song phương (BITs), các nước
nhận đầu tư đã thu hút được nhiều hơn nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý từ phía đối tác đầu tư, thúc đẩy sự liên kết sâu rộng hơn giữa các


14
công ty địa phương với các chi nhánh của TNCs. Tuy nhiên, tự do hoá FDI
đang tạo nên môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các quốc gia, các
khu vực để cùng thu hút FDI. Những nước không có những nỗ lực vượt bậc
trong việc cải thiện môi trường đầu tư sẽ bị đẩy ra ngoài dòng FDI đang được
tự do hoá mạnh mẽ trên thế giới.
+ Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng đang là một yếu tố mới thúc
đẩy FDI. Toàn cầu hoá tạo nên mạng lưới sản xuất quốc tế rộng khắp. Toàn
cầu hoá là một khái niệm phát triển cao hơn về chất so với khái niệm quốc tế
hoá. Chính tốc độ phát triển nhanh chóng của toàn cầu hoá sẽ thúc đẩy xu
hướng tự do hoá thương mại, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các TNCs mở
rộng phạm vi hoạt động trên toàn cầu.
Trong xu thế toàn cầu hoá, sự phát triển của khoa học công nghệ đóng
vai trò quan trọng. Trên thực tế, động lực của quá trình sản xuất quốc tế ngày
nay phần lớn đều phản ánh bản chất, tốc độ và tính thâm nhập của tiến bộ
công nghệ. Các lĩnh vực công nghệ mới như công nghệ thông tin, công nghệ
viễn thông, công nghệ vận tải mới đang cho phép các TNCs mở rộng quy

mô và quản lý các hoạt động đầu tư quốc tế của mình một cách hiệu quả hơn.
Vai trò chuyển giao công nghệ của FDI đối với các nước nhận đầu tư cũng lớn
hơn. Tuy nhiên, để có thể tiếp cận nguồn công nghệ mới do toàn cầu hoá
mang lại, các nước đang phát triển cũng cần phải cải cách và nâng cấp các
nguồn lực hiện có. Nếu không có những nỗ lực như vậy, toàn cầu hoá kinh tế
sẽ là rào cản cực lớn khiến các nước bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển.
Từ những xu hướng mới hiện nay của môi trường quốc tế, có thể đề cập
đến những rào cản cơ bản trong thu hút FDI vào các nước đang phát triển nói
chung và Việt Nam nói riêng như sau:
Thứ nhất, nền kinh tế các nước dễ gặp rủi ro và bất lợi trong các
cuộc cạnh tranh khu vực và toàn cầu
Toàn cầu hoá mang lại cơ hội cho tất cả các nước, song xuất phát điểm
hội nhập của mỗi quốc gia khác nhau đã dẫn đến những cơ hội và rủi ro do


15
toàn cầu hoá mang lại sẽ không giống nhau. Do có ưu thế về vốn, công nghệ,
thị trường, kinh nghiệm quản lý, các nước phát triển luôn nắm quyền quyết
định và khống chế những luật chơi chung sao cho có lợi cho họ. Mặc dù "luật
chơi" có vẻ công bằng, nhưng thực chất chúng luôn đem lại lợi thế cho những
nước mạnh. Các nước đang phát triển và chậm phát triển chịu nhiều bất lợi,
thiệt thòi về phía mình, cụ thể là:
+ Với trình độ phát triển kinh tế thấp, các nước đang phát triển hầu hết
là những nước nghèo, luôn khan hiếm nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật, tri
thức quản lý, nên họ chỉ có thể phát huy được các lợi thế so sánh bậc thấp
(tài nguyên, lao động, thị trường) với mức thụ động rất cao. Mặc dù ở trình
độ phát triển kinh tế thấp hơn, họ vẫn phải cạnh tranh với những đối thủ
mạnh ngay cả trên thị trường trong và ngoài nước. Chính sự cạnh tranh bất
lợi này đã là một trong những nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng xuất khẩu
hàng hoá của các nước này suy giảm, kéo theo những biến động dây chuyền

sang các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh tài chính - việc làm và làm sụp đổ
nền kinh tế.
+ Do phụ thuộc vào thị trường các nước công nghiệp phát triển về
nguồn vốn, công nghệ, thị trường xuất khẩu hàng hoá, các nước đang phát
triển luôn bị các nước công nghiệp phát triển dùng sức mạnh để ép họ nhân
nhượng những điều khoản có lợi cho họ, khiến các nước này phải lệ thuộc
kinh tế ngày càng nhiều. Do tương quan về tiềm lực phát triển mất cân đối,
các nước công nghiệp phát triển đang muốn thúc đẩy nhanh quá trình tự do
hoá thương mại. Họ yêu cầu các nước đang tham gia quá trình tự do hoá và
toàn cầu hoá phải thực hiện mở rộng thị trường cho hàng hoá của họ thâm
nhập vào, thực hiện tự do hoá cạnh tranh, trong khi lại dựng nên các hàng rào
phi thương mại tại chính thị trường nước họ như áp dụng các tiêu chuẩn lao
động, an toàn vệ sinh, môi trường Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng xuất khẩu
của các nước đang phát triển vẫn phải chịu hàng rào thuế quan cao gấp 4 - 5
lần so với hàng xuất khẩu của các nước phát triển; Ngược lại, các nước hội


16
nhập sau không muốn tốc độ tự do hoá thương mại diễn ra quá nhanh vì nó
vượt ra ngoài sự phát triển của nền kinh tế trong nước và sẽ mang lại cho nền
kinh tế những mất mát nhiều hơn như bài học ở các nước Mỹ Latinh thập kỷ
1990. Bởi vậy, các nước này đã cố gắng duy trì chế độ bảo hộ để bảo vệ sản
xuất trong nước và chủ quyền kinh tế. Tuy nhiên, sức ép đòi mở cửa từ phía
các nước phát triển ngày càng mạnh và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
các nước hội nhập sau có nguy cơ ngày càng giảm. Tính chất bất lợi trong
yêu cầu đẩy mạnh tự do hoá cạnh tranh và cải cách kinh tế từ phía các nước
phát triển trong khi nền kinh tế của các nước đang phát triển chưa đủ điều
kiện để mở cửa đã và đang đem lại nhiều rủi ro cho các nước đang phát triển.
+ Tự do hoá đầu tư thường mang lại lợi ích to lớn cho các nước phát
triển. Để tiếp nhận dòng vốn đầu tư, các nước nhận đầu tư phải có những chính

sách đối xử ưu đãi các nhà đầu tư nước ngoài, trong khi không thể ưu đãi hoặc
có những sự bảo hộ các nhà đầu tư và các cơ sở sản xuất trong nước mà các
nước chủ nhà cho là cần thiết. Trong tình trạng luôn thiếu vốn, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý - kinh doanh và sự chậm muộn cải cách hệ thống tài chính -
ngân hàng, hàng hoá, đồng tiền và thị trường chứng khoán của các nước tiếp
nhận đầu tư rất dễ trở thành mục tiêu đầu cơ của các nhà đầu tư quốc tế, đặc
biệt là các công ty xuyên quốc gia đầy thế lực. Khi nguồn vốn đầu cơ tăng
mạnh và không được sự kiểm soát hiệu quả của Chính phủ, sẽ dẫn đến sự hình
thành các "bong bóng" tài chính - nguyên nhân gây ra các khủng hoảng tài
chính trên quy mô lớn. Trong điều kiện toàn cầu hoá phát triển mạnh thì khủng
hoảng của một nước, một khu vực đều có khả năng tạo ra các chấn động lan
truyền gây khủng hoảng đến các nước và khu vực khác. Nguy hại nhất trong
quá trình cạnh tranh này vẫn là các nước kém phát triển, bởi những nước này
không có đủ năng lực chống đỡ khủng hoảng và trở nên ngày càng phụ thuộc
hơn.


17
Thứ hai, nền kinh tế thiếu trầm trọng vốn, công nghệ, thị trường, cơ
sở hạ tầng, trong khi những phản ứng chính sách của Chính phủ thường
chậm và kém hiệu quả
Khó khăn của các nước đang phát triển khi tiếp nhận FDI là khoảng
cách khá xa về trình độ phát triển so với các nước chủ đầu tư. Thông thường,
khả năng công nghệ của các nước tiếp nhận đầu tư là các công nghệ trung
bình, lạc hậu và rất thiếu những công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ
thông tin. Do thiếu thốn nghiêm trọng về vốn, các nước này thường tiếp nhận
công nghệ từ các nước phát triển hơn dưới hai hình thức: viện trợ và thu hút
FDI. Đây là con đường đưa đến sự tiếp nhận các công nghệ lạc hậu hoặc
không phù hợp, dẫn đến hiệu quả sản xuất kém, chất lượng hàng hoá thấp.
Nguyên nhân chính là ở chỗ: năng lực tiếp nhận công nghệ - kỹ thuật ở các

nước này rất yếu do nguồn nhân lực có trình độ thấp, kỹ năng không cao, do
vậy khó có thể phát huy cao nhất lợi thế của nước đi sau trong việc tiếp nhận
các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài để cải tạo nhanh chóng cơ cấu kỹ thuật và
nâng cao trình độ kết cấu hạ tầng kỹ thuật.
Những rào cản trên đều liên quan đến trình độ của nguồn nhân lực và
đội ngũ doanh nghiệp cũng như năng lực thích ứng của các Chính phủ. Do
không có đội ngũ lao động và doanh nghiệp có năng lực, năng động và thích
ứng nhanh với tập quán kinh doanh trong khu vực và thế giới, thiếu khả năng
cạnh tranh mạnh, các nước hội nhập sau khó giành được những lợi thế trong
hội nhập. Thêm vào đó, ngay cả ở các nước đã phát triển kinh tế thị trường
như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia và ở những nước
mới hình thành cơ chế thị trường sơ khai như ở Nga, Trung Quốc, Việt Nam ,
hệ thống chính sách kinh tế và môi trường luật pháp cũng còn nhiều bất cập.
Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á cho thấy, một hệ thống tài chính - ngân
hàng yếu kém và sự phản ứng chính sách chậm chạp, kém hiệu quả trong việc
tiếp nhận và phân bổ nguồn vốn vay, điều chỉnh tỷ giá, điều chỉnh cơ cấu hàng
hoá xuất khẩu sao cho phù hợp với tình hình mới đã dẫn đến những thiệt hại


18
nặng nề cho nền kinh tế. Và điều tai hại hơn là chính những yếu kém trên đã
tạo thuận lợi cho các nước phát triển đưa ra những điều kiện ép buộc các quốc
gia đang phát triển phải thay đổi chính sách kinh tế, tạo nên sự lệ thuộc không
thể tránh khỏi trong môi trường toàn cầu hoá.
Thứ ba, các nước đi sau dễ trở thành bãi thải công nghiệp của quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu do tiếp nhận công nghệ lạc hậu
từ các dự án FDI
Xuất phát là những nước đi sau, trình độ kỹ thuật lạc hậu hơn các nước
công nghiệp phát triển, cho nên mô hình phát triển thích hợp nhất của các
nước đang phát triển là phải tích cực thực hiện chính sách “đuổi bắt” kỹ thuật

tiên tiến của các nước phương Tây, lấy tăng trưởng kinh tế tốc độ cao làm
mục tiêu hàng đầu nhằm đuổi kịp các nước này và hội nhập nhanh vào nền
kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, trong giai đoạn toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng và không
kém phần khốc liệt như hiện nay, mô hình “đuổi bắt” cũng đang gặp phải
những vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt khi nền kinh tế tri thức xuất hiện. Nền
kinh tế tri thức này phát triển nhanh chóng từ công nghệ mới, đặc biệt là công
nghệ thông tin, viễn thông và công nghệ sinh học. Hàng loạt các quốc gia (chủ
yếu là các quốc gia công nghiệp) đã có những chính sách tập trung phát triển
loại hình công nghệ này. Theo đánh giá của WB, 90% công nghệ cao trên thế
giới hiện nay là do các quốc gia công nghiệp phát triển chi phối. Bên cạnh
những công nghệ mới đem lại lợi nhuận và vị thế cao hơn cho các nước công
nghiệp phát triển, những công nghệ cũ và lạc hậu hơn, có khả năng sinh lợi
thấp cũng đang ngày càng nhiều tại các nước này và họ tìm mọi cách để
chuyển giao các nước có trình độ phát triển thấp hơn.
Với nguồn lao động rẻ và kỹ năng thấp (chủ yếu là lao động phổ thông
trong các ngành nông nghiệp và công nghiệp truyền thống), sẵn có nguồn tài
nguyên thiên nhiên và đang rất cần vốn và công nghệ để phát triển kinh tế, các
nước đang phát triển là địa bàn tốt nhất để các nước công nghiệp phát triển,
chuyển giao những loại hình công nghệ tương đối lạc hậu này. Do tiếp nhận


19
một cách ồ ạt nguồn vốn đầu tư nước ngoài, trình độ nhân lực và khả năng
đánh giá công nghệ còn kém, các nước đang phát triển cũng đang phải tiếp
nhận nhiều ngành công nghiệp ô nhiễm, kỹ thuật lạc hậu, chủ yếu là các thế hệ
công nghệ sử dụng nhiều lao động, công nghiệp sơ chế, công nghiệp tiêu
dùng, có điều kiện vệ sinh an toàn kém và mức độ gây ô nhiễm môi trường
cao.
1.2. RÀO CẢN ĐỐI VỚI ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở

MỘT SỐ NƢỚC TRONG KHU VỰC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM
1.2.1. Rào cản đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở một số nƣớc trong khu
vực
1.2.1.1. Mô hình "đàn nhạn bay" và những biện pháp khắc phục rào
cản đầu tư nảy sinh từ mô hình này ở các quốc gia NIEs, ASEAN và
Trung Quốc
Mô hình "đàn nhạn bay" của Akamatsu đề cập từ thập kỷ 1960. Mô
hình này đã phân tích chu kỳ phát triển của ngành công nghiệp, trong đó có cả
giai đoạn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản và chính sách điều
chỉnh lại cơ cấu công nghiệp trong nước theo hướng từ những ngành hàm
chứa nhiều lao động, tài nguyên sang các ngành có tiềm năng cạnh tranh mạnh
trên thế giới. Mô hình "đàn nhạn bay" đã mô tả bức tranh công nghiệp hoá ở
các nước Châu Á, trong đó có sự "đuổi bắt" của các nước đi sau trong một số
ngành công nghiệp mà các nước đi trước đang có lợi thế so sánh. Kết quả là
các nước đi trước phải chuyển dịch cơ cấu lên cao hơn, tìm cách phát triển
những ngành có lợi thế so sánh mới. Hiện tượng này đã tạo ra sự thay đổi
trong phân công lao động quốc tế. Ví dụ như lợi thế so sánh của ngành dệt đã
chuyển từ Nhật Bản tới một nước NIEs (chẳng hạn như Hàn Quốc vào thập
niên 1970), sau đó là một nước ASEAN (chẳng hạn như Thái Lan vào thập
niên 1980), và hiện nay là tới Việt Nam, Trung Quốc Sự chuyển dịch của các
ngành khác như sắt thép, điện tử cũng theo hướng tương tự, nhưng bắt đầu
muộn hơn kể từ thập kỷ 1980. Trong sự chuyển dịch đó, đã hình thành sự liên


20
kết ngoại thương và chuyển giao công nghệ giữa các nước Nhật Bản sang
NIEs, tiếp đó sang ASEAN và sau này là Việt Nam, Trung Quốc.
Như vậy, với sự dẫn đầu là Nhật Bản, hơn 30 năm qua, nhất là từ giữa thập
niên 1980 khi đồng Yên Nhật Bản liên tục tăng giá và sau khủng hoảng dầu mỏ

thế giới, quá trình công nghiệp hoá ở Châu Á đã diễn ra nhanh chóng. Làn sóng
công nghiệp hoá lan rộng không chỉ ở chiều rộng mà ngày càng có chiều sâu ở
các nước Châu Á. Chiều rộng biểu hiện ở sự lan nhanh làn sóng sang các nước
láng giềng của Nhật Bản và chiều sâu là nó kéo theo sự thay đổi và chuyển dịch
cơ cấu xuất khẩu và cơ cấu ngành kinh tế. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế tạo
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các nước Đông Á đã tăng nhanh kể
từ thập kỷ 1980 và đạt trên 90% ở một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng
Kông, và thấp dần theo thứ tự các nước Singapo, Trung Quốc, Thái Lan,
Malaixia, Inđônêxia, Philippin và cơ cấu ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ
cũng có sự biến chuyển theo hướng hiện đại hơn, thứ tự từ những nước đi trước
như Nhật Bản, sau đó đến NIEs, một số nước ASEAN như Malaixia, Thái Lan,
tiếp đó là Trung Quốc và thấp nhất là ở Inđônêxia và Việt Nam.
Trong mô hình đàn nhạn bay, FDI là một nhân tố quan trọng tạo nên sự
phân công lao động theo kiểu mạng lưới ở Châu Á, nhưng theo thứ tự từ thấp
đến cao. FDI, đặc biệt là từ Nhật Bản, đã khắc phục được những hạn chế của
việc thiếu vốn đầu tư, khan hiếm ngoại tệ và tình trạng lạc hậu của toàn bộ nền
kinh tế trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Trong điều kiện đó, các NIEs,
ASEAN và Trung Quốc đã thực hiện chính sách công nghiệp hoá hướng về
xuất khẩu, lựa chọn những ngành công nghiệp thích hợp nhất và đưa ra các
biện pháp khuyến khích FDI vào các ngành đó và thực sự đã đạt được những
thành tựu to lớn trong thu hút FDI phục vụ cho quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Mô hình đàn nhạn bay đã tạo ra sự phát triển kinh tế nhiều tầng nấc
nhưng mang tính chất phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước trong khu vực. Sau
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, những rào cản đầu tư ở các nước


21
ASEAN bộc lộ ngày càng rõ nét. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm
1997 là mốc đánh dấu sự sụt giảm liên tục của các dòng FDI chảy vào

ASEAN-5. Sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của ASEAN-5 trong thập kỷ
1980 đã bị thay thế bằng sức hấp dẫn của Trung Quốc và nhiều nước mới nổi
khác. Có nhiều lý do giải thích cho điều đó, chẳng hạn: ảnh hưởng tiêu cực
của khủng hoảng tài chính châu Á, do đó làm nổi lên những lợi thế của Trung
Quốc và sự tự do hoá của các nền kinh tế mới nổi. Tình hình này đã đặt ra
những vấn đề mới về thu hút vốn nước ngoài. Các nước ASEAN nhận thấy, để
thu hút FDI bên ngoài khu vực ASEAN, thì họ phải tạo điều kiện thuận lợi
cho FDI trong nội bộ khu vực ASEAN, trước hết là cần phải hợp tác chặt chẽ
để đủ sức cạnh tranh với nhiều khu vực khác và sự nổi lên của Trung Quốc.
Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) được ký kết tháng 10 năm
1998 cũng chính là nhằm nâng cao hơn nữa sức hấp dẫn của khu vực đối với
FDI cả từ nguồn trong nội bộ và ngoài ASEAN. Hiệp định đặt ra mục tiêu là
tạo dựng một môi trường đầu tư tự do và minh bạch cho các nhà đầu tư
ASEAN đến năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020. Nỗ lực này
về thực chất là cố gắng tạo lập nên chế độ một cửa cho tất cả các nhà đầu tư
quan tâm đến khu vực.
Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) - kết quả của quá trình tự
do hoá thương mại khu vực - cũng thúc đẩy FDI tìm kiếm thị trường bởi vì
việc xoá bỏ các hàng rào thương mại trong nội bộ ASEAN khiến các công ty
tăng cường liên kết trong nội bộ khu vực và nhờ đó tăng sức hấp dẫn của thị
trường khu vực như là một thị trường có quy mô lớn. Việc các nhà đầu tư
nước ngoài bị hấp dẫn bởi các nền kinh tế có chính sách tự do hơn, cung cấp
nhiều ưu đãi hơn, lực lượng lao động có kỹ năng hơn hay cơ sở hạ tầng tốt
hơn đã khiến mỗi nước phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh, phát huy
lợi thế so sánh trong thu hút FDI.
Kể từ cuối thập kỷ 90, xu hướng hợp tác khu vực Đông Á có chiều
hướng gia tăng và kết quả là trong Tuyên bố hoà hợp Bali II (Inđônêxia, năm


22

2003) của Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ IX, Cộng đồng Đông Á bao
gồm 10 nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc (ASEAN+3) đã
hình thành. Sự hình thành Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN
(CAFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mê Kông giữa Trung
Quốc và các nước ASEAN thế hệ thứ 2 cũng là những nỗ lực hợp tác nhiều
tầng nấc trong mô hình đàn nhạn bay nhằm hạn chế các rào cản, cải thiện môi
trường đầu tư, tự do hoá thương mại và đầu tư nhằm khôi phục dòng chảy vào
của dòng FDI phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế.
1.2.1.2. Rào cản trong hoạt động thu hút FDI ở một số quốc gia
ASEAN
* Chính sách thu hút FDI ở ASEAN
Ngay từ đầu thập kỷ 1970, các nước ASEAN đã lần lượt xây dựng các
cơ sở pháp lý để thực hiện chiến lược thu hút FDI. Tuy nhiên, chính sách thu
hút FDI của từng nước cũng có những đặc điểm riêng biệt.Cụ thể là:
- Inđônêxia: Là một nước giàu tài nguyên, thị trường nội địa rộng lớn
(dân số đông thứ 4 thế giới), nhưng mãi đến thập kỷ 1980, Inđônêxia mới thực
hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, chậm hơn các nước
khác trong khu vực khoảng một thập kỷ. Cũng bắt đầu từ thập kỷ 1980, chính
sách thu hút FDI mới bắt đầu được tự do hoá từng bước, và những giới hạn về
quyền sở hữu của người nước ngoài được điều chỉnh rất chậm. Cho đến cuối
những năm 1980, Inđônêxia mới nới lỏng những quy định về cấm người nước
ngoài đầu tư trong các ngành điện lực, hải cảng, thông tin, bất động sản, nhà
hàng khách sạn, may mặc Các chính sách về nới lỏng cổ phần cho người
nước ngoài cũng bắt đầu có nhiều tiến bộ trong thập kỷ 1990, với tỷ lệ tối đa
là 95% (trong thập kỷ 1980 là 49%); Chính phủ cũng miễn thuế nhập khẩu
hàng hoá phục vụ sản xuất; miễn thuế lợi nhuận công ty trong 5 năm hoạt
động đầu tiên; cho phép người nước ngoài được tham gia cổ phần trong các
ngân hàng thương mại; tư nhân hóa một số xí nghiệp quốc doanh

×