Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài Nhật Bản tới sự phát triển kinh tế của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (994.53 KB, 99 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





NGUYỄN XUÂN PHƢƠNG







TÁC ĐỘNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
CỦA NHẬT BẢN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI




















Hà Nội – 2013



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





NGUYỄN XUÂN PHƢƠNG








TÁC ĐỘNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
CỦA NHẬT BẢN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM




Chuyên ngành : Kinh tế thế giới & Quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số : 60 31 07





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI












Hà Nội – 2013



MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT i
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ iii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VÀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI 8
1.1. Phát triển kinh tế 8
1.1.1. Khái niệm phát triển kinh tế 8
1.1.2. Các yếu tố đo lường sự phát triển của một nền kinh tế 11
1.2. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và tác động của đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài tới sự phát triển kinh tế 14
1.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài 14
1.2.2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới sự phát triển kinh tế
của nước tiếp nhận đầu tư 18
CHƢƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
TỪ NHẬT BẢN TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM
2000 TỚI NAY 24
2.1. Tổng quan chung về đầu tƣ của Nhật Bản vào Việt Nam từ năm
2000 tới nay 24
2.1.1. Giai đoạn 2000 – 2006 29
2.1.2. Giai đoạn 2007 tới nay 30
2.2. Đánh giá những tác động của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài từ Nhật
Bản tới sự phát triển kinh tế của Việt Nam từ năm 2000 tới nay 40
2.2.1. Tác động tới tăng trưởng kinh tế 41

2.2.2. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế 47
2.2.3. Phát triển nguồn nhân lực 51
2.2.4. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ 53
2.2.5. Đóng góp vào ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô 55
2.2.6. Tiếp cận và mở rộng thị trường và quan hệ đối ngoại 55
2.2.7. Một số tác động tiêu cực tới sự phát triển kinh tế Việt Nam 57


CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH
CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA NGUỒN VỐN ĐẦU
TƢ TRỰC TIẾP TỪ NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM 62
3.1. Chủ trƣơng của Nhà nƣớc đối với đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài 62
3.2. Giải pháp phát huy những tác động tích cực của đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài từ Nhật Bản 66
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải cách hành chính 67
3.2.2. Nâng cấp kết cấu hạ tầng, giao thông 70
3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 72
3.2.4. Sắp xếp hợp lý danh mục kêu gọi đầu tư 74
3.2.5. Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ 76
3.3. Giải pháp hạn chế những tác động tiêu cực của đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài từ Nhật Bản 80
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87

i

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa

1
ABAC
Hội đồng tư vấn kinh doanh ASEAN
2
ADB
Ngân hàng phát triển châu Á
3
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
4
APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
5
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
6
CPI
Chỉ số giá tiêu dùng
7
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
8
FTA
Khu vực mậu dịch tự do
9
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
10
GNP
Tổng sản phẩm quốc dân

11
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
12
JETRO
Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản
13
JICA
Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
14
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
15
OECD
Tổ chức hợp tác & phát triển kinh tế
16
SIDA
Tổ chức hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển
17
UNCTAD
Diễn đàn thương mại & phát triển Liên hiệp quốc
18
WB
Ngân hàng thế giới
ii

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT
Số hiệu

Nội dung
Trang
1
Bảng 2.1
Tổng số vốn đầu tư thực hiện mười năm 2001-2010
phân theo khu vực kinh tế
16
2
Bảng 2.2
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được cấp
giấy phép thời kỳ 1988-2010 phân theo đối tác đầu
tư chủ yếu
18
3
Bảng 2.3
Đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo đối tác
31
4
Bảng 2.4
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vĩnh Phúc giai đoạn
2001- 2010
41
5
Bảng 2.5
Giá trị xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản và 3 nước
Đông Dương (tính đến tháng 11/2012)
48





iii

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

STT
Số hiệu
Nội dung
Trang
1
Biểu đồ 2.1
Vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam
23
2
Biểu đồ 2.2
GDP của Việt Nam
34
3
Biểu đồ 2.3
Cơ cấu kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2000
- 2010 (%)
43


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới đang ngày càng trở nên “phẳng” hơn, quá trình hội nhập và phụ
thuộc lẫn nhau của các quốc gia trên thế giới cũng ngày càng trở nên sâu sắc

hơn. Trong bối cảnh đó, mỗi quốc gia đều đề cao tầm quan trọng của việc
phát triển nền kinh tế, bởi lẽ, một nền kinh tế phát triển là chìa khóa để mở ra
rất nhiều cơ hội với thế giới. Đó không chỉ là cơ hội để hợp tác, mà còn là cơ
hội để khẳng định vị thế của đất nước mình với bạn bè năm châu. Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu thế coi trọng việc thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế đó.
Một nền kinh tế muốn phát triển phải có sự đóng góp từ rất nhiều yếu tố,
bao gồm cả chủ quan và khách quan. Trong đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài là
một yếu tố khách quan hết sức quan trọng. Có thể nói, đầu tư trực tiếp nước
ngoài vừa là nguồn đóng góp cho sự phát triển kinh tế, vừa là một yếu tố có
thể tác động tích cực hoặc tiêu cực tới định hướng phát triển của quốc gia.
Riêng với Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp
từ Nhật Bản càng có một vai trò quan trọng không thể thiếu vì Nhật Bản là
một trong những quốc gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Luận văn này tập
trung nghiên cứu sâu đầu tư của Nhật Bản, giới hạn phạm vi trong lĩnh vực
đầu tư trực tiếp, tác động vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam như thế nào
trong khoảng thời gian từ năm 2000 tới nay. Điều nhấn mạnh ở đây là tác giả
sẽ phân tích những tác động của đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản tới các yếu tố
của sự phát triển kinh tế. Từ đó, luận văn chỉ ra những đóng góp thiết thực mà
nguồn đầu tư này đã góp phần cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Nghiên cứu những đóng góp thiết thực của đầu tư trực tiếp nước ngoài từ
Nhật Bản vào Việt Nam, tác giả muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của
2

nguồn vốn đầu tư này tác động tới sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Dựa
trên những đóng góp to lớn hiện tại của đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật
Bản, tác giả cũng đưa ra một số nhận định và kiến nghị chính sách cho Việt
Nam để phát huy hiệu quả, tăng cường sử dụng những tác động tích cực của
nguồn vốn đầu tư này, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực đang và sẽ có
thể xảy ra. Từ đó, Việt Nam có cơ hội để thu hút nhiều vốn đầu tư hơn nữa,

trở thành địa chỉ đầu tư hấp dẫn không chỉ đối với Nhật Bản và các nước
trong khu vực mà còn đối với các nước khác trên toàn thế giới, hướng tới mục
tiêu phát triển kinh tế trong tương lai mà Chính phủ đã đề ra.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan tới đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, cụ thể là nghiên
cứu về nguồn vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản, đã có rất nhiều những
nghiên cứu được thực hiện. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu đi theo
hướng phân tích thực trạng tình hình đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam bằng
phương pháp định tính hoặc định lượng, sau đó đưa ra một số giải pháp và
nhận định để thu hút đầu tư. Rất ít những nghiên cứu đi vào phân tích cụ thể
các tác động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các yếu tố tạo nên sự phát
triển kinh tế của Việt Nam.
“Foreign Direct Investment, Trade, and Vietnam’s Interdependence in
the APEC Region” do Mai Fujita (Trung tâm nghiên cứu APEC) viết năm
1999. Bài nghiên cứu tập trung vào những lợi ích mà đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đặc biệt là từ các nước trong APEC, trong đó có Nhật Bản, có thể đóng
góp cho nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra ý kiến để Việt
Nam có thể thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hiệu quả
hơn, bao gồm cả nguồn vốn từ các nước APEC. Do phạm vi phân tích bao
gồm nhiều nước trong APEC nên những số liệu và lý luận riêng về FDI của
Nhật Bản chưa được phong phú.
3

Nghiên cứu của Nguyễn Phi Lan, Centre for Regulation and Market
Analysis University of South Australia mang tên “Foreign direct investment
and its linkage to growth in Vietnam: A provincial level analysis” năm 2006.
Câu hỏi mà nghiên cứu này đặt ra là mối quan hệ tác động hai chiều giữa FDI
và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nghiên cứu phân tích dòng vốn FDI của
các nước đổ vào Việt Nam, đặc biệt là từ Nhật Bản và điều tra những ảnh
hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu khá chuyên sâu nhưng mới dừng ở

khía cạnh tăng trưởng, chưa phân tích liên quan tới quá trình phát triển.
“Foreign direct investment and exports: The experiences of Vietnam” do
Nguyen Thanh Xuan (The University of New South Wales) và Yuqing Xing
(University of Japan) đồng tác giả. Báo cáo đưa cái nhìn tổng quan về FDI
của nước ngoài dành cho Việt Nam và tình hình xuất khẩu, nhận định một số
chính sách và các nhân tố tác động tới FDI và xuất khẩu. Từ đó báo cáo cũng
đề xuất một số kiến nghị chính sách cho Chính phủ Việt Nam. Báo cáo cung
cấp những số liệu khá phong phú tập trung riêng về vấn đề xuất khẩu.
“Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản trong những năm 1990 và triển
vọng” xuất bản năm 2000 của TS.Vũ Văn Hà. Cuốn sách đưa cái nhìn tổng
quan về quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản trong bối cảnh hội nhập. Đặc
biệt cuốn sách phân tích sâu về đầu tư trực tiếp và hỗ trợ phát triển của Nhật
Bản vào Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách mang tính tổng quát chung,
chưa phân tích sâu riêng về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tác động tới sự phát
triển kinh tế Việt Nam.
Nghiên cứu “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam” của nhóm tác giả TS.Nguyễn Thị Tuệ Anh (Trưởng
nhóm), ThS.Vũ Xuân Nguyệt Hồng, ThS.Trần Toàn Thắng và TS.Nguyễn
Mạnh Hải nằm trong chương trình “Nâng cao năng lực nghiên cứu chính sách
để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001-
4

2010” của Dự án SIDA. Cuốn sách ra đời năm 2006 đề cập tới tác động của
đầu tư trực tiếp nước ngoài tới nền kinh tế Việt Nam, tập trung vào phân tích
tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế, về hai phương diện quan trọng nhất
là vốn đầu tư và các tác động tràn, không đi vào các tác động khác tới sự phát
triển kinh tế.
Đề tài “Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam: những vấn đề và một
số gợi ý” dưới sự chủ trì của TS.Nguyễn Xuân Thiên, Đại học Kinh tế, Đại
học Quốc Gia Hà Nội năm 2003. Đề tài đánh giá những nhân tố thúc đẩy đầu

tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam, đồng thời phân tích thực
trạng đầu tư và đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao
hiệu quả nguồn vốn này. Đề tài là nguồn tham khảo đáng chú ý, nhưng trên
phạm vi thực trạng đầu tư, không có nhiều mối liên quan tới phát triển kinh tế.
“Đặc điểm chủ yếu của FDI Nhật Bản vào Việt Nam trong những năm
gần đây” (2001) là tài liệu giảng dạy được công nhận của TS.Vũ Văn Hà (Đại
học Quốc Gia Hà Nội). Tài liệu phân tích FDI theo ngành của Nhật Bản dành
cho Việt Nam tập trung cao vào lĩnh vực công nghiệp. Về hình thức đầu tư,
Nhật Bản đầu tư dưới 3 hình thức: liên doanh, 100% vốn nước ngoài và hợp
đồng hợp tác kinh doanh. Tài liệu cung cấp cái nhìn tổng quan về phân loại
các hình thức đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam, không đi sâu về
vấn đề các tác động tích cực và tiêu cực.
Luận án Tiến sĩ Kinh tế “Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam”
của nghiên cứu sinh Phan Văn Tâm, chuyên ngành Quản lý kinh tế, mã số
62.34.01.01 (năm 2011). Luận án nghiên cứu về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản
vào Việt Nam trên khía cạnh các nhân tố tác động tới nguồn vốn đầu tư này.
Tác giả dùng phương pháp phân tích thực nghiệm để tìm ra những tác động
tích cực cũng như tác động tiêu cực của FDI Nhật Bản đối với nền kinh tế
Việt Nam nói chung, không đi sâu vào phạm vi liên quan tới phát triển kinh tế.
5

Trên đây là một số công trình nghiên cứu của các tác giả có liên quan tới
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm đầu tư của Nhật Bản. Có thể nói,
các công trình nghiên cứu này đều rất có giá trị, đặc biệt là về việc cung cấp
thực tiễn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam cũng như đưa ra những
gợi ý chính sách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn nhằm nghiên cứu phân tích những tác động của
đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản vào sự phát triển kinh tế Việt Nam từ

năm 2000 tới nay và đưa ra những giải pháp cụ thể để phát huy hiệu quả, tăng
cường sử dụng những tác động tích cực của nguồn vốn đầu tư này, đồng thời
hạn chế những mặt tiêu cực đang và sẽ có thể xảy ra. Từ đó, Việt Nam có cơ
sở thu hút thêm đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản trong tương lai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
+ Tổng hợp, phân tích các lý luận chung về sự phát triển kinh tế, các
yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế và tính tất yếu của đầu tư trực tiếp nước
ngoài cũng như những tác động của nó tới sự phát triển của một nền kinh tế.
+ Phân tích tác động tích cực và tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước
ngoài từ Nhật Bản đến sự phát triển kinh tế Việt Nam như tăng trưởng kinh
tế, thay đổi cơ cấu kinh tế, vấn đề việc làm, chất lượng nguồn lao động, vốn
đầu tư xã hội, chuyển giao công nghệ…
+ Đưa ra một số đề xuất, giải pháp để phát huy những tác động có hiệu
quả của nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản và hạn chế những tác động
tiêu cực trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
6

+ Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tác động của đầu tư trực tiếp
nước ngoài từ Nhật Bản vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
+ Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật
Bản tác động vào sự phát triển kinh tế Việt Nam từ năm 2000 tới nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
+ Phương pháp lịch sử: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài từ
Nhật Bản được phân tích theo trình tự liên tục từ năm 2000 tới nay, nhằm cho
thấy rõ ràng xu hướng và những tác động thay đổi tích cực của nó tới nền
kinh tế Việt Nam.

+ Phương pháp phân tích, thống kê và tổng hợp các số liệu, dữ liệu liên
quan tới tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế
theo ngành, theo thành phần, chất lượng nguồn nhân lực, v.v…
+ Phương pháp so sánh: Phương pháp này dựa trên cơ sở đánh giá so
sánh những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản giữa các
thời kỳ có sự thay đổi như thế nào đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ của đề tài, luận văn có những đóng góp:
+ Phân tích và làm sáng tỏ những lý luận về các yếu tố đo lường sự
phát triển kinh tế và tính tất yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như tác
động của nó tới sự phát triển của một nền kinh tế.
7

+ Đánh giá những tác động tích cực và mặt hạn chế của đầu tư trực tiếp
nước ngoài từ Nhật Bản đến sự phát triển kinh tế Việt Nam từ năm 2000 tới
nay.
+ Đưa ra một số gia
̉
i pha
́
p và gợi ý chính sách cho Việt Na m để phát
huy tính tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài từ Nhật Bản.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phát triển kinh tế và đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Chương 2: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản tới sự phát

triển kinh tế Việt Nam từ năm 2000 tới nay
Chương 3: Giải pháp phát huy những tác động tích cực và hạn chế tác động
tiêu cực của nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản vào Việt Nam

8

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VÀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI

1.1. Phát triển kinh tế
1.1.1. Khái niệm phát triển kinh tế
Nhiều tài liệu chuyên môn và các nghiên cứu khoa học kinh tế đã đưa
ra khái niệm “phát triển kinh tế” theo những cách diễn đạt và minh họa khác
nhau. Nhưng về cơ bản, có thể hiểu ngắn gọn “phát triển kinh tế” là “quá trình
tăng tiến toàn diện về mọi mặt trong nền kinh tế của một quốc gia hoặc một
địa phương”. Vì “phát triển kinh tế” là một quá trình do đó nó có sự tiến hóa
theo thời gian và do những nhân tố nội tại bên trong quyết định đến toàn bộ
quá trình phát triển đó.
Nội dung của phát triển kinh tế bao gồm:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế dài hạn. Đây là điều kiện tiên quyết để
tạo ra những tiến bộ về kinh tế - xã hội, nhất là ở các nước đang phát triển có
thu nhập thấp.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế - xã hội thay đổi theo hướng tiến bộ. Xu hướng
tiến bộ của quá trình thay đổi này ở những nước đang phát triển, đang hoặc
chưa trải qua quá trình công nghiệp hoá thể hiện ở quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và đô thị hoá. Đó không đơn thuần là
sự giă tăng về quy mô, mà còn bao hàm việc mở rộng chủng loại và nâng cao
chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra; hoạt động của nền
kinh tế ngày càng gia tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh, tạo cơ sở cho việc
đạt được những tiến bộ xã hội một cách sâu rộng.

Thứ ba, những tiến bộ kinh tế - xã hội chủ yếu phải xuất phát từ động
lực nội tại. Đến lượt mình kết quả của những tiến bộ kinh tế đạt được lại làm
9

gia tăng không ngừng năng lực nội sinh của nền kinh tế (thể hiện ở những tiến
bộ về công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nguồn vốn…).
Thứ tư, đạt được sự cải thiện sâu rộng chất lượng cuộc sống của mọi
thành viên trong xã hội là hàng đầu và là kết quả của sự phát triển. Đương
nhiên một kết quả như thế không chỉ là sự ra tăng thu nhập bình quân đầu
người, mà đằng sau nó còn cần khắc phục những sự phân phối bất bình đẳng,
nạn đói nghèo, thất nghiệp và những thụ hưởng khác về giáo dục, y tế, văn
hoá…
Cũng theo lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế của kinh tế học
phát triển: Phát triển kinh tế là khái niệm có nội dung phản ánh rộng hơn so
với khái niệm tăng trưởng kinh tế. Nếu như tăng trưởng kinh tế về cơ bản chỉ
là sự gia tăng thuần tuý về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: GNP,
GNP/đầu người hay GDP, GDP/đầu người… thì phát triển kinh tế ngoài việc
bao hàm quá trình gia tăng đó, còn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn,
sâu sắc hơn, đó là những biến đổi về mặt chất của nền kinh tế – xã hội, mà
trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và kèm theo đó là việc không ngừng nâng cao mức sống toàn dân,
trình độ phát triển văn minh xã hội thể hiện ở hàng loạt tiêu chí như: thu nhập
thực tế, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, trình độ dân trí, bảo vệ
môi trường, và khả năng áp dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật vào phát
triển kinh tế – xã hội…
Phát triển kinh tế theo chiều rộng là phát triển kinh tế bằng cách tăng số
lượng lao động, khai thác thêm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tăng thêm
tài sản cố định và tài sản lưu động trên cơ sở kĩ thuật có trước. Trong điều
kiện một nước kinh tế chậm phát triển, những tiềm năng kinh tế chưa được
khai thác và sử dụng hết, nhất là nhiều người lao động chưa có việc làm thì

phát triển kinh tế theo chiều rộng là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, nhưng
10

đồng thời phải coi trọng phát triển kinh tế theo chiều sâu. Nó thể hiện ở chỗ
mức tăng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân vừa dựa vào lực lượng lao
động và tài sản cố định, vừa dựa vào cải tiến thiết bị, kĩ thuật, công nghệ và
tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, phát triển kinh tế theo chiều rộng có
những giới hạn, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thấp. Vì vậy, phương
hướng cơ bản và lâu dài là phải chuyển sang phát triển kinh tế theo chiều sâu.
Phát triển kinh tế theo chiều sâu là phát triển kinh tế chủ yếu nhờ đổi
mới thiết bị, áp dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ kĩ thuật, cải tiến
tổ chức sản xuất và phân công lại lao động, sử dụng hợp lí và có hiệu quả các
nguồn nhân tài, vật lực hiện có. Trong điều kiện hiện nay, những nhân tố phát
triển theo chiều rộng đang cạn dần, cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật trên
thế giới ngày càng phát triển mạnh với những tiến bộ mới về điện tử và tin
học, công nghệ mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học đã thúc đẩy các nước
coi trọng chuyển sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Kết quả phát triển
kinh tế theo chiều sâu được biểu hiện ở các chỉ tiêu: tăng hiệu quả kinh tế,
tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, giảm hàm lượng vật tư và
tăng hàm lượng chất xám, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu suất của
đồng vốn, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đầu người. Ở
Việt Nam và một số nước chậm phát triển, do điều kiện khách quan có tính
chất đặc thù, kinh tế chậm phát triển, nên phát triển kinh tế theo chiều rộng
vẫn còn có vai trò quan trọng. Nhưng để mau chóng khắc phục sự lạc hậu,
đuổi kịp trình độ phát triển chung của các nước trên thế giới, trước hết là các
nước trong khu vực, thì phát triển kinh tế theo chiều sâu phải được coi trọng
và kết hợp chặt chẽ với phát triển theo chiều rộng trong phạm vi cần thiết và
điều kiện có cho phép.
Với nội hàm rộng lớn trên đây, về cơ bản khái niệm phát triển kinh tế
đã đáp ứng được các nhu cầu đặt ra cho sự phát triển toàn diện nhiều lĩnh vực

11

kinh tế, văn hoá, xã hội…Tuy nhiên như đã biết, trong khoảng hơn hai thập
niên vừa qua, do xu hứớng hội nhập, khu vực hoá, toàn cầu hoá phát triển
ngày càng mạnh mẽ hơn nên đã nảy sinh nhiều vấn đề dù là ở phạm vi từng
quốc gia, lãnh thổ riêng biệt, song lại có ảnh hưởng chung đến sự phát triển
của cả khu vực và toàn thế giới, trong đó có những vấn đề cực kỳ phức tạp,
nan giải đòi hỏi phải có sự chung sức của cả cộng đồng nhân loại, ví dụ như:
môi trường sống, thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng bố… Từ đó đòi hỏi
sự phát triển của mỗi quốc gia, lãnh thổ và cả thế giới phải được nâng lên tầm
cao mới cả về chiều rộng và chiều sâu của sự hợp tác, phát triển. Thực tiễn đó
đã thúc đẩy sự ra đời một khái niệm mới về phát triển mang nội hàm phản ánh
tổng hợp hơn, toàn diện hơn tất cả các khái niệm về tăng trưởng kinh tế, phát
triển kinh tế…, đó là khái niệm phát triển bền vững.
1.1.2. Các yếu tố đo lƣờng sự phát triển của một nền kinh tế
Phát triển kinh tế bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự
hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, và bảo đảm công bằng xã hội. Nội
dung của phát triển kinh tế bao gồm:
Sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc
dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Sự tăng trưởng
kinh tế hay gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế này phải diễn ra
trong một thời gian tương đối dài và ổn định. Đó là các chỉ tiêu phản ánh quy
mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm hay của một giai đoạn nhất định
như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân đầu
người. Các chỉ tiêu này có thể tính cho cả nền kinh tế hay theo bình quân đầu
người.
Sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, thể hiện ở tỷ trọng các
ngành dịch vụ và công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân tăng lên, còn tỷ
12


trọng nông nghiệp ngày càng giảm xuống. Tỷ trọng các vùng, miền, thành
phần kinh tế thay đổi. Trong đó tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tuơng đối
so với tỷ trọng của vùng thành thị. Nó là các chỉ tiêu phản ánh sự thay đổi về
chất, về trình độ phát triển kinh tế, bao gồm các chỉ tiêu phản ánh sự thay đổi
cơ cấu kinh tế (cơ cấu kinh tế theo ngành, cơ cấu thương mại quốc tế) và các
chỉ tiêu phản ánh sự biến đổi về cơ cấu xã hội, cơ cấu dân cư. Gắn với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa là quá trình biến
đổi cơ cấu dân cư theo vùng. Trong các chỉ tiêu này, chỉ tiêu cơ cấu dân số
nông thôn – đô thị có ý nghĩa quan trọng phản ánh quá trình đô thị hóa gắn
với quá trình công nghiệp hóa đất nước. Sự biến đổi cơ cấu dân cư còn thể
hiện qua các chỉ tiêu như: cơ cấu giới tính, cơ cấu độ tuổi, cơ cấu theo trình
độ đào tạo.
Các chỉ tiêu phản ánh năng lực nội sinh của nền kinh tế gồm các chỉ
tiêu như: tỷ lệ tiết kiệm (đầu tư) trên GDP, các chỉ tiêu phản ánh trình độ năng
lực công nghệ quốc gia, các chỉ tiêu phản ánh chất lượng của nguồn lao động.
Mức độ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội thể hiện bằng sự tăng
lên của thu nhập thực tế, chất lượng giáo dục, y tế… mà mỗi người dân được
hưởng. Cuộc sống của đại bộ phận dân số trong xã hội sẽ trở lên tươi đẹp hơn,
giáo dục, y tế, tinh thần của người dân được chăm lo nhiều hơn, môi trường
được đảm bảo. Trình độ tư duy, quan điểm của dân chúng thay đổi. Để có thể
thay đổi trình độ tư duy, một điều tất yếu là đòi hỏi phải mở cửa nền kinh tế.
Tuy nhiên, phát triển kinh tế cũng bao hàm các yêu cầu cụ thể khác.
Mức tăng trưởng kinh tế phải lớn hơn mức tăng dân số. Sự tăng trưởng kinh
tế phải dựa trên cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ để bảo đảm kinh tế bền vững.
Bản chất và vai trò của tăng trưởng trong phát triển là sự gia tăng (được đo
bằng mức và tỷ lệ) về thu nhập (mặt lượng của nền kinh tế). Tăng trưởng kinh
tế phải đi đôi với công bằng xã hội. Chất lượng sản phẩm ngày càng cao, phù
13

hợp với sự biến đổi nhu cầu của xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Hơn thế

nữa, khái niệm phát triển ngày nay được nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn
diện hơn. Ngoài chỉ số về tăng trưởng kinh tế và một vài chỉ số khác, phát
triển còn bao hàm nhiều chỉ số quan trọng khác về những giá trị văn hoá và
nhân văn, như chỉ số hạnh phúc chẳng hạn. Có các chỉ tiêu phản ánh sự phát
triển con người như mức sống, dân trí, giáo dục, tuổi thọ bình quân và chăm
sóc sức khỏe, dân số, việc làm, phát triển con người
Đối với nước ta, phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội,
nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ và cải
thiện môi trường; khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với xoá đói, giảm
nghèo…Những nhiệm vụ ấy phải được thực hiện ngay trong từng bước đi của
quá trình phát triển.
Các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế bao gồm:
Lực lượng sản xuất: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, công nghệ
hiện đại, trình độ con người càng cao thúc đẩy phát triển kinh tế càng nhanh.
Quan hệ sản xuất: sẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững khi quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
ngược lại sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Kiến trúc thượng tầng: mỗi yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có sự tác
động khác nhau đối với sự phát triển kinh tế. Như pháp luật tác động trực tiếp,
trong khi đó tư tưởng, đạo đức tác động gián tiếp. Ảnh hưởng sâu sắc nhất là
chính trị.
Giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế có mối quan hệ: tăng trưởng chưa
phải là phát triển, song tăng trưởng là cơ sở nền tảng của phát triển. Không
thể nói phát triển kinh tế mà trong đó không có tăng trưởng kinh tế.
14

1.2. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và tác động của đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài tới sự phát triển kinh tế
1.2.1. Khái niệm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được Tổ chức Thương mại Thế giới WTO

định nghĩa như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà
đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác
(nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý
là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường
hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở
kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là
"công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay còn gọi là "chi
nhánh công ty".
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, đầu tư trực tiếp nước ngoài được định
nghĩa là “một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức
trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một
doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác”. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp
là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh
tế khác đó.
Diễn đàn thương mại và phát triển Liên hiệp quốc UNCTAD cũng đưa
ra một khái niệm về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung
cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cổ
phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Các nhà nghiên cứu kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước
ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế
15

của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh
tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy
hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD đưa ra khái niệm: “Một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc
không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10%

cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực
tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất
cả các quốc gia nào cũng đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI.
Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp
của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý
doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc tỷ lệ này lớn hơn 10% nhưng vẫn chỉ là
người đầu tư gián tiếp.
Các nước đang phát triển lại sử dụng khái niệm đầu tư nước ngoài chỉ
với nội dung là đầu tư trực tiếp, như việc đưa bất động sản, vốn, thiết bị vào
xây dựng, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Điều này đã loại trừ hình thức đầu
tư gián tiếp. Đối với các nước này, đầu tư trực tiếp đem lại cho họ nguồn vốn,
kỹ thuật hiện đại thay thế kỹ thuật lạc hậu hiện có, nâng cao mức sống và tăng
thu nhập quốc dân. Với đầu tư gián tiếp, họ cũng tiếp nhận được vốn. Nhưng
một phần vì không có những kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả, bên cạnh đó
là khả năng quản lý kém và trình độ sản xuất kinh doanh lạc hậu nên khả năng
thành công, và thu được lợi nhuận từ nguồn vốn này không cao. Do đó, việc
tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là phù hợp với
hoàn cảnh và điều kiện của các nước đang phát triển. Chính sách này đã và
đang là hình thức phổ biến trong chính sách “mở cửa nền kinh tế” của nhiều
nước, trong đó có Việt Nam.
16

Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt
Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định
của luật này”.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là loại hình

chuyển dịch tư bản từ nước này sang nước khác nhằm thu doanh lợi. Nói cách
khác, đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham
gia quản lý hoạt động đầu tư. Tư bản chuyển dịch được gọi là vốn đầu tư quốc
tế. Vốn có nhiều dạng khác nhau như tiền, các tài sản hợp pháp khác như hiện
vật hữu hình, vô hình, phương tiện khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư
bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư. Các
khâu này đều phải nằm dưới những quy chế, luật pháp nhất định do nước
nhận đầu tư và cả nước đầu tư đưa ra. Bên cạnh các loại nguồn vốn đầu tư
khác như đầu tư gián tiếp, viện trợ không hoàn lại…, đầu tư trực tiếp nước
ngoài càng ngày càng khẳng định vai trò rất quan trọng của nó đối với sự phát
triển kinh tế của một quốc gia, kể cả quốc gia mang vốn đi đầu tư và quốc gia
được tiếp nhận vốn đầu tư.
Bản chất của đầu tư nước ngoài là nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích hay
tìm kiếm lợi nhuận thông qua di chuyển vốn (bằng tiền, tài sản, công nghệ và
trình độ quản lý của nhà đầu tư nước ngoài) từ nước đi đầu tư tới nước tiếp
nhận đầu tư. Đây cũng là đặc điểm cơ bản của FDI. Ngoài ra, FDI còn có các
đặc điểm sau đây:
17

- FDI mang tính lâu dài: Đầu tư trực tiếp các dòng vốn có thời gian
hoạt động dài, thời gian thu hồi vốn đầu tư ban đầu lâu.
- FDI có sự tham gia quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài: Nhà đầu
tư nước ngoài có quyền kiểm soát và tham gia các hoạt động quản lý của các
doanh nghiệp được tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài.
- Dự án FDI có 3 yếu tố đi kèm: hoạt động thương mại, chuyển giao
công nghệ, di cư lao động quốc tế.
- FDI gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa đầu
tư giữa các quốc gia. Chính sách về FDI của một quốc gia tiếp nhận đầu tư
thể hiện chính sách mở cửa và quan điểm hội nhập đầu tư quốc tế.

- FDI là sự gặp gỡ về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và bên kia là
nước tiếp nhận đầu tư.
Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài
có các hình thức:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp do chủ đầu tư
nước ngoài bỏ 100% vốn tại nước sở tại, và có quyền điều hành toàn bộ hoạt
động của doanh nghiệp theo quy định, pháp luật của nước sở tại.
- Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập do các chủ
đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp
đồng liên doanh. Các bên tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và
chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn điều lệ. Phần góp vốn của
bên nước ngoài không được ít hơn 30% vốn pháp định.
- Hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh: đây là một văn bản được kí
kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước để tiến
hành một hay nhiều hoạt động kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định
18

về trách nhiệm để thực hiện hợp đồng và xác định quyền lợi của mỗi bên,
nhưng không hình thành một pháp nhân mới.
- Các hình thức khác: ngoài các hình thức kể trên ở các nước và ở Việt
Nam, còn có các hình thức khác như hợp đồng xây dựng – kinh doanh –
chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO),
hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT) nhằm khuyến khích thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
1.2.2. Tác động của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tới sự phát triển kinh tế
của nƣớc tiếp nhận đầu tƣ
FDI có rất nhiều tác động tới sự phát triển kinh tế của nước tiếp nhận
đầu tư. Có thể nói, đó không chỉ là những tác động về mặt ngoại giao, về mặt
kinh tế, mà nó có thể có tác động vô cùng to lớn cả về mặt xã hội, con người,
môi trường. Những tác động ấy có thể mang tính tích cực, nhưng cũng không

ngoại trừ các tác động tiêu cực.
Trước hết, FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc
tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần
nạn thất nghiệp ở những nước này, khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài.
Theo sau FDI là máy móc, thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát
triển tiếp cận với khoa học kỹ thuật mới. Các tổ chức sản xuất trong nước có
cơ hội bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động
quen dần với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành dần đội
ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi. Ngoài ra, FDI cũng góp phần tăng thu cho
ngân sách Nhà nước.
- FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng
kinh tế, giúp cho nước tiếp nhận đầu tư huy động mọi nguồn lực sản xuất

×