Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trong khu vực Asean

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.18 KB, 31 trang )

A - LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu
thế chung. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra cơ hội cho các nền kinh tế,
vừa tăng sức ép cạnh tranh. Trong điều kiện đó, nỗ lực của một nền kinh tế về cải
cách, phát triển, tăng trưởng phải được so sánh với các nền kinh tế cạnh tranh khác
chứ không chỉ so với nền kinh tế của chính mình trong quá khứ. Những tiến bộ đạt
được trước đây rất đáng trân trọng, song mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp, mỗi
ngành nghề phải tiến nhanh hơn các đối thủ cạnh tranh của mình để không bị tụt
hậu và thua thiệt trong kinh doanh.
Nước ta đang đứng trước những bước phát triển mới về hội nhập đòi hỏi phải
nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngành dệt may là một ngành quan
trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là ngành dệt may Việt Nam cần
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong nền kinh tế thế giới. Để làm được
điều đó thì trước hết cần phải đánh giá được lợi thế cạnh tranh quốc gia của Việt
Nam ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam so với các
nước khác trong khu vực Asean như thế nào?
Nhận thấy sự cấp thiết của vấn đề này trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện
nay, tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của
ngành dệt may Việt Nam trong khu vực Asean”.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian hạn hẹp và hiểu biết còn
nhiều hạn chế, nên đề tài thảo luận không tránh khỏi các khuyết điểm. Rất mong
các ý kiến đóng góp của Quý thầy Cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn!
Xin chân thành cảm ơn!
1
B – NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm lợi thế cạnh tranh quốc gia
Lợi thế cạnh tranh quốc gia là lợi thế của một quốc gia trên thị trường quốc
tế đạt được nhờ nhiều điều kiện bên trong khác nhau.
1.2 Các nhân tố tác động đến lợi thế cạnh tranh quốc gia
Tại sao một quốc gia thành công trên thương trường quốc tế ở một ngành


nghề nào đó?
Câu trả lời nằm trong bốn đặc tính tổng quát của một quốc gia, hình thành
nên môi trường trong đó các doanh nghiệp trong nước khi cạnh tranh thì có thế làm
tăng hoặc giảm lợi thế cạnh tranh.
Có bốn khía cạnh liên quan đến biểu tượng quốc gia, có tác dụng đóng góp
hoặc làm giảm giá trị việc tạo ra lợi thế cạnh tranh của những hang, của những
quốc gia đó. Những biểu tượng này được xem như là “viên kim cương” quốc gia,
bao gồm : Các điều kiện về nhân tố nguồn lực; các điều kiện về cầu; các ngành
công nghiệp hỗ trợ và liên quan; cạnh tranh, cơ cấu và chiến lược của hãng; cơ hội
và chính phủ.
1.2.1 Các điều kiện về nhân tố nguồn lực
Có thể hiểu một cách đơn giản nhất, các điều kiện về nhân tố nguồn lực là :
lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn và cơ sở hạ tầng của một quốc gia.
Những nhân tố này có một tầm quan trọng rất đặc biệt trong một quốc gia, nó được
phân biệt với những thứ khác mà quốc gia đó thừa kế. Có năm loại nhân tố cơ bản,
đó là: nguồn nhân lực, nguồn vật chất, nguồn tri thức, nguồn vốn và cơ sở hạ tầng.
* Nguồn nhân lực:
Số lượng nhân viên làm việc, kỹ năng mà họ có được, mức lương và đạo đức
làm việc của lực lượng lao động, tất cả tạo thành nguồn nhân lực của một quốc gia.
Một đất nước với lượng cung lớn về nhân công, mức lương thấp có lợi thế rõ ràng
hơn trong ngành sản xuất đòi hỏi kỹ năng thấp, sản phẩm cần nhiều lao động. Mặt
2
khác, những quốc gia như vậy thường xuyên gặp phải bất lợi khi nó tiến hành sản
xuất những sản phẩm tinh vi đòi hỏi khả năng, kỹ năng nhân công cao mà không có
sự kiểm soát trên phạm vi rộng.
* Nguồn lực vật chất
Tính khả dụng, số lượng, chất lượng và giá trị đất đai, nước, khoáng sản và
các tài nguyên thiên nhiên khác thể hiện nguồn lực vật chất của một quốc gia. Quy
mô và vị trí của một quốc gia cũng được bao gồm trong phạm trù này bởi vì
khoảng cách gần thị trường và nguồn cung cấp cũng như chi phí vận chuyển được

xem là mối quan tâm chiến lược. Những nhân tố này rõ ràng là những lợi thế hoặc
bất lợi quan trọng đối với ngành công nghiệp phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên
nhiên.
* Nhân tố tri thức
Thể hiện sự hiểu biết của một lượng dân cư đáng kể liên quan đến thị
trường, khoa học, công nghệ của một quốc gia. Sự hiện diện của những nhân tố này
thường xuyên qua chức năng nghiên cứu của một số trường Đại học và viện nghiên
cứu của Chính phủ, tư nhân tại quốc gia đó. Những nhân tố này hết sức quan trọng
để đạt được thành công trong sản xuất sản phẩm và dịch vụ tinh vi, và được tiến
hành trong thị trường phức tạp.
* Nhân tố nguồn vốn
Các quốc gia thường thay đổi khả năng sử dụng, số lượng, chi phí và các
hình thức sử dụng vốn của các ngành công nghiệp quốc gia. Tỷ lệ tiết kiệm, lãi
suất, luật Thuế và thâm hụt ngân sách Chính Phủ của một quốc gia, tất cả đều tác
động đến khả năng sử dụng các nhân tố này. Lợi thế, đối với những ngành chi phí
vốn thấp thường tốt hơn những ngành khác ở những quốc gia với chi phí vốn tương
đối cao, đôi khi mang tính quyết định. Những hãng có chi phí vốn thấp có thể giữ
mức giá của họ thấp và buộc những hãng có chi phí vốn cao hoặc phải chấp nhận
lợi tức đầu tư thấp hoặc dời bỏ ngành kinh doanh.
* Nguồn lực về cơ sở hạ tầng
3
Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống Ngân hàng, hệ thống giao thông vận tải, hệ
thống thông tin liên lạc, hệ thống chăm sóc sức khỏe và khả năng sử dụng cũng như
chi phí sử dụng của hệ thống này của một quốc gia…Cơ sở hạ tầng cũng bao gồm
hệ thống nhà ở, các tổ chức văn hóa ảnh hưởng đến chất lượng của cuộc sống và
mức độ quốc gia đó thu hút người dân đến sinh sống và học tập.
Các nhân tố nhân lực, vật chất, vốn, tri thức có thể di chuyển giữa các quốc
gia. Những lao động tay nghề di chuyển giữa các nước, vì vậy kiến thức, kỹ thuật
và khoa học cũng di chuyển theo. Sự di chuyển này càng ngày càng gia tăng bởi thế
giới ngày càng kết nối nhiều hơn và việc di chuyển cũng dễ dàng hơn. Việc có sẵn

các nhân tố trong một quốc gia không phải là một lợi thế nếu như các nhân tố di
chuyển đi nước khác.
Lợi thế cạnh tranh quốc gia sẽ mang lại lợi ích cho ngành kinh doanh nếu
một loạt các nhân tố hỗn hợp được sử dụng thúc đẩy ngành đó theo đuổi một chiến
lược chung : Sản xuất với chi phí thấp hoặc tạo ra sự khác biệt. Lợi thế cạnh tranh
cũng có thể được các quốc gia tạo ra nếu những quốc gia này gặp bất lợi về những
nhân tố đã lực chọn.
1.2.2 Các điều kiện về cầu
Sự cấu thành nhu cầu nội địa giúp doanh nghiệp nắm bắt, hiểu và đáp ứng
nhu cầu của khách hàng. Bản chất của các điều kiện về cầu nội địa đối với những
sản phẩm hay dịch vụ của một hãng hoặc một ngành là rất quan trọng bởi chúng
xác định nên tỷ lệ và áp lực đối với việc cải tiến và đổi mới do các hãng thực hiện
trong một quốc gia. Đây cũng là nhân tố hoặc là giúp “đào tạo” các hãng có sức
cạnh tranh ở tầm cỡ thế giới hoặc là bị thất bại hoàn toàn trong việc chuẩn bị để có
thể tham gia cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Một số đặc điểm về cầu nội địa rất
quan trọng đối với lợi thế cạnh tranh, chẳng hạn như: kết cấu cầu nội địa, quy mô
và hình thức tăng trưởng cầu nội địa…
Kết cấu cầu nội địa được xác định bằng cách các hãng nhận thức, nắm rõ và
đáp ứng được những nhu cầu của người mua. Lợi thế cạnh tranh có thể đạt được
4
khi cầu nội địa mang lại cho các doanh nghiệp trong nước một bức tranh tốt hơn về
những nhu cầu của người mua vào thời gian đầu so với các đối thủ cạnh tranh nước
ngoài. Lợi thế này càng được thúc đẩy khi chính những người mua nội địa buộc các
doanh nghiệp quốc gia phải đổi mới một cách nhanh chóng và thường xuyên. Nền
tảng của lợi thế này bắt nguồn từ chỗ, khi các doanh nghiệp trở nên nhạy cảm hơn
và đáp ứng nhanh hơn nhu cầu nội địa và nếu nhu cầu ở thị trường nội địa phản ánh
hoặc mô phỏng trước nhu cầu thế giới thì các doanh nghiệp quốc gia có thể giữ vị
trí dẫn đầu trên thị trường.
Ba đặc tính cơ bản của nhu cầu nội địa ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh:
Phân khúc thị trường; Đặc tính khách hàng nội địa; Dự đoán nhu cầu.

- Phân khúc thị trường: Nếu có thị trường lớn thì có lợi thế về quy mô dẫn
đến có lợi thế cạnh tranh quốc gia. Nếu có sản phẩm đáp ứng thị phần lớn
trong nước tạo cho doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm để xâm nhập vào
thị trường thế giới… và ngược lại.
- Đặc tính khách hàng nội địa: Nếu khách hàng nội địa có đòi hỏi cao, có
những yêu cầu bất thường về sản phẩm…điều đó tạo ra những áp lực lớn
cho doanh nghiệp buộc họ phải luôn luôn cải tiến và đổi mới sản phẩm,
do đó tạo ra lợi thế cạnh tranh.
- Dự đoán nhu cầu: Dự đoán nhu cầu đem lại lợi ích về cạnh tranh cho
doanh nghiệp trong trường hợp: Thị trường trong nước, nhu cầu nội địa
dự báo nhu cầu thế giới.
Quy mô và mô hình tăng trưởng cầu nội địa càng trở nên quan trọng khi kết
cấu cầu nội địa là phức tạp và phản ánh trước được nhu cầu bên ngoài.
Sự phát triển của nhu cầu nội địa phụ thuộc vào: số lượng khách hàng độc
lập, mức tăng trưởng của nhu cầu nội địa, nhu cầu nội địa ban đầu và mức độ dự
báo của nhu cầu nội địa ban đầu với nhu cầu thế giới, bão hòa sớm thị trường nội
địa và tăng trưởng thị trường nước ngoài.
5
Sự tăng trưởng thị trường nội địa một cách nhanh chóng là một điều
khuyến khích khác nữa để đầu tư vào và chấp nhận những công nghệ mới một cách
nhanh hơn và để xây dựng nên các đơn vị sản xuât có hiệu quả và quy mô lớn. Một
cầu nội địa mới, đặc biệt là nếu nó mô phỏng trước được nhu cầu thế giới, sẽ mang
lại cho các doanh nghiệp trong nước lợi thế nhanh hơn so với các đối thủ cạnh
tranh khi tham gia vào nước ngoài. Một điều quan trọng hơn nữa là sự bão hòa thị
trường mong đợi, điều này sẽ đặt áp lực lên một công ty phải mở rộng những thị
trường quốc tế và tiếp tục đổi mới. Bão hòa thị trường đặc biệt quan trọng nếu nó
xảy ra đồng thời với sự tăng trưởng nhanh chóng của các thị trương nước ngoài.
Đây là tác động qua lại của các điều kiện về cầu, theo đó tạo ra lợi thế cạnh
tranh. Do tầm quan trọng đặc biệt của mình, những điều kiện này có thể dẫn đến
những khích lệ ban đầu và tiếp theo cho việc đầu tư, đổi mới và tiếp tục tăng cường

cạnh tranh trên những thị trường tinh vi.
1.2.3 Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có mối tương quan
Nếu các ngành bổ trợ (công nghiệp phụ trợ) ổn định và hoạt động có hiệu
quả, trao đổi thông tin thuận tiện, chi phí giao dịch giảm thì tạo ra lợi thế cạnh tranh
quốc gia lớn cho ngành đó. Và ngược lại.
Các ngành liên quan là những ngành các doanh nghiệp có thể hợp tác hoặc
chia sẻ hoạt động trong dây chuyền giá trị (sản phẩm bổ xung). Điều đó thúc đẩy sự
phát triển qua lại, tạo ra sức mạnh hoặc ngành mới.
Sự tồn tại của các ngành công nghiệp cạnh tranh quốc tế của một quốc gia
trên thị trường có mối liên quan hoặc hỗ trợ trực tiếp cho những ngành khác, có thể
đưa lại cho những ngành này một lợi thế cạnh tranh. Các ngành công nghiệp cung
ứng cạnh tranh ở tầm quốc tế cung cấp những sản phẩm đầu vào cho những ngành
sản xuất sản phẩm cuối cùng, đến lượt mình những ngành sản xuất sản phẩm cuối
cùng sẽ cạnh tranh ở tầm quốc tế về mặt giá cả và chất lượng. Những ngành sản
xuất sản phẩm cuối cùng sẽ dễ dàng tiếp cận với những sản phẩm đầu vào và với
6
những công nghệ để sản xuất ra chúng, với những co cấu quản lý và cơ cấu tổ chức
nhằm làm cho những ngành này trở nên mạnh hơn.
Thành công của một quốc gia trong một ngành nghề sẽ đạt được nếu nước đó
có lợi thế cạnh tranh trong nhiều ngành nghề có liên quan. Điểm nổi bật nhất là
những ngành quan trọng giúp đổi mới ngành nghề hoặc những ngành tạo nhiều cơ
hội để chia sẽ các hoạt động.
1.2.4 Cạnh tranh, cơ cấu và chiến lược của hãng
Đây là bối cảnh mà doanh nghiệp được tạo dựng, tổ chức và quản lý cũng
như tính chất của đối thủ cạnh tranh trong nước. Hệ thống quản trị của một quốc
gia thường có những nét đặc trưng riêng, phù hợp với một số ngành nghề nhất định.
Các khác biệt tập trung vào : Nền tảng và định hướng của các nhà lãnh đạo,
Phong cách lãnh đạo, sức mạnh cá nhân, công cụ để ra quyết định, bản chất mối
quan hệ với khách hàng, khả năng phối hợp và mối quan hệ giữa lao động với nhà
quản trị, quan điểm đối với các hoạt động quản trị. Các khía cạnh quốc gia có thể

ảnh hưởng đến bộ mặt quốc tế của doanh nghiệp.
Có lẽ tác động mạnh nhất đến lợi thế cạnh tranh là từ những cuộc cạnh tranh
khốc liệt trong nước. Cạnh tranh trong nước thúc đẩy tính năng động của ngành và
tạo ra áp lực tiếp theo cho việc cải tiến và đổi mới. Cạnh tranh khốc liệt khu vực
buộc các doanh nghiệp phải phát triển các sản phẩm mới, cải tiến các sản phẩm
hiện có, giảm chi phí và giá cả, phát triển công nghệ mới và cải tiến chất lượng và
dịch vụ. Cạnh tranh trong nước sẽ phải đấu tranh với nhau không chỉ vì thị phần mà
còn vì tài năng của nhân viên, vì những tiến bộ kỹ thuật mới của chương trình R&D
và uy tín trên thị trường nội địa. Cuối cùng, cạnh tranh nội địa mạnh mẽ sẽ đẩy các
hãng tới việc tìm kiếm thị trường quốc tế để hỗ trợ cho việc mở rộng quy mô và
đầu tư R&D. Việc thiếu vắng các cuộc cạnh tranh đáng kể sẽ tạo ra sự tự bằng lòng
với bản thân của các doanh nghiệp nội địa và cuối cùng gây hậu quả làm cho các
doanh nghiệp trở nên phi cạnh tranh trên thị trường thế giới.
7
Không phải số lượng các cuộc cạnh tranh mới là quan trọng mà thay vào đó
là cường độ của cạnh tranh và chất lượng của các đối thủ cạnh tranh, điều này tạo
ra sự khác biệt. Đồng thời, chúng cũng rất quan trọng bởi vì chúng tạo ra những đối
thủ cạnh tranh mới và bảo vệ họ chống lại những công ty lâu đời về mặt vị trí cũng
như về sản phẩm và dịch vụ thông qua một tỷ lệ phát triển các doanh nghiệp tương
đối cao.
1.1.2.5 Cơ hội
Cơ hội đóng vai trò trong việc phân loại môi trường cạnh tranh. Cơ hội
thường xuyên xuất hiện ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp, các ngành công
nghiệp và chính phủ. Liên quan đến vấn đề này là những mặt như chiến tranh và
thời kỳ hậu chiến, những phát minh, sáng chế mới quan trọng, những cuộc chuyển
đổi đột ngột nhân tố hay chi phí đầu vào như là khủng hoảng dầu lửa, thay đổi đột
ngột tỷ giá hối đoái…
Cơ hội quan trọng vì chúng tạo ra những sự gián đoạn lớn trong công nghệ
mà điều này cho phép các quốc gia và các doanh nghiệp không có khả năng cạnh
tranh lại có thể vượt qua nhiều đối thủ cạnh tranh lâu đời, thậm chí là cả những

người dẫn đầu ngành, trong lĩnh vực kinh doanh đã thay đổi.
Từ khung cảnh của toàn bộ hệ thống, thì vai trò của cơ hội dựa trên thực tế
theo đó họ thay đổi các điều kiện trong mô hình ô viên kim cương. Tuy nhiên, một
quốc gia với mô hình “viên kim cương” thuận lợi nhất sẽ chỉ là người duy nhất có
thể tận dụng được những sự kiện này và biến chúng thành lợi thế cạnh tranh.
1.1.2.6 Chính phủ
Sau khi điểm qua các nhân tố định hình vị thế cạnh tranh của một quốc gia,
ta đi đến nhân tố cuối cùng: Chính phủ. Chính phủ là một nhân tố quan trọng, cần
xem xét khi nói về tính cạnh tranh quốc tế. Nhiều người xem đây là yếu tố sống
còn, nếu không nói là quan trọng nhất, tác động đến cạnh tranh quốc tế thời nay.
Tuy nhiên, điều này không chính xác cũng như không phải là cách hữu hiệu để hiểu
8
vai trò của Chính phủ trong cạnh tranh quốc tế. Vai trò thực sự của Chính phủ trong
lợi thế cạnh tranh quốc gia nằm ở tác động của nó lên bốn nhân tố quyết định trên.
Chính phủ có thể tác động lên bốn nhân tố kia theo hướng tích cực hoặc tiêu
cực. Chính phủ tác động đến các điều kiện về cầu, vừa gián tiếp thông qua chính
sách tài chính và chính sách tiền tệ, lại trực tiếp thông qua vai trò vốn có của nó
như là người mua các sản phẩm và dịch vụ. Chính phủ tác động lên các nguồn lực
như là người ban hành các chính sách về lao động, giáo dục, phát triển vốn, các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và tiêu chuẩn sản phẩm. Chính phủ tác động tới cạnh
tranh và môi trường cạnh tranh bởi vai trò của nó như là người ban hành các quy
định về thương mại. Bằng cách tăng cường những yếu tố quyết định trong những
ngành mà tại đó một quốc gia có lợi thế cạnh tranh, chính phủ cải tiến khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp quốc gia. Mặt khác, chính phủ có thể cải tiến hoặc
làm yếu đi lợi thế cạnh tranh nhưng chính phủ không thể tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Chính phủ có tác động quan trọng lên lợi thế cạnh tranh quốc gia song hiển
nhiên vai trò này chỉ là một phần nào đó. Nếu chỉ có chính sách của chính phủ làm
nguồn lực duy nhất trong lợi thế cạnh tranh quốc gia thì chính sách sẽ thất bại.
Chính sách của chính phủ chỉ thành công trong những ngành nghề đã có sẵn những
nhân tố quyết định tiềm ẩn và lúc đó các chính sách chỉ làm nhiệm vụ cũng cố các

nhân tố đó. Có vẽ như Chính phủ chỉ có thể thúc đẩy lợi ích của việc giành được lợi
thế cạnh tranh nhưng thiếu khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh đó.
Những nghiên cứu về lợi thế cạnh tranh quốc gia cho phép mỗi một công ty,
trong những ngành nhất định sẽ tìm kiếm và xây dựng được lợi thế riêng biệt để
đảm bảo sự thành công trên thị trường quốc tế. Đó cũng là cơ sở để lựa chọn chiến
lược cạnh tranh mà công ty sẽ áp dụng trên thị trường quốc tế.
9
II. LỢI THẾ CẠNH TRANH QUỐC GIA TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÀNH DỆT
MAY VIỆT NAM
2.1 Sơ lược vài nét về Ngành dệt may Việt Nam
Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngành dệt may
Việt Nam hiện nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát
triển khá mạnh.
Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn
nhanh, tận dụng nguồn nhân lực dồi dào ở Việt Nam và có điều kiện thuận lợi để
mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh
tế khác nhau, dệt may Việt Nam đã có những bước tiến thần kì trong tăng trưởng
xuất khẩu với hàng loạt các mặt hàng khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 36/2008/QĐ-TTg ngày
10/3/2008 Phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt - May Việt Nam
đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Với mục tiêu phát triển ngành Dệt - May
trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu,
đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã
hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
Năm 2010, ngành dệt may dự kiến kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt khoảng 10,5
tỷ USD, tăng trưởng 12%.
Năm qua, mặc dù hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp,
ngành hàng gặp nhiều khó khăn bởi suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng vẫn là một
năm đầy thành công đối với ngành dệt may Việt Nam.

Kim ngạch cả năm 2009 đạt 9,2 tỷ USD, tăng 1% so với năm 2008, trong
điều kiện xuất khẩu của cả nước tăng trưởng “âm”, đưa dệt may nằm trong top dẫn
đầu những mặt hàng xuất khẩu của cả nước. Không những thế, thời trang Việt Nam
đã chính thức trở thành thành viên thứ 6 của Liên đoàn thời trang châu Á (AFF).
10
2.2 Lợi thế cạnh tranh quốc gia tác động đến ngành dệt may Việt Nam
Trong phần I tôi đã đề cập đến sáu nhóm nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế cạnh
tranh quốc gia. Nhưng trong bài thảo luận này, trên giác độ đánh giá lợi thế cạnh
tranh quốc gia ảnh hưởng đến ngành dệt may tôi chỉ đánh giá các nhóm nhân tố
sau:
+ Những lợi thế cạnh tranh quốc gia đã có:
- Nhân tố nguồn lực
- Tác động của Chính phủ
+ Những nhân tố đang yếu cần phát triển hơn nữa để trở thành lợi thế cạnh
tranh quốc gia:
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có mối tương quan
- Ảnh hưởng của các cơ hội
2.2.1 Những lọi thế cạnh tranh quốc gia đã có
2.2.1.1 Nhân tố nguồn lực
* Về nguồn nhân lực:
Tính đến 0 giờ ngày 1/4/2009, dân số Việt Nam là 85.789.573 người, tăng
9,47 triệu người so với năm 1999 (với sai số thuần là 0,3%). Tỷ lệ tăng dân số bình
quân năm trong giai đoạn 1999-2009 là 1,2%/năm, giảm 0,5%/năm so với 10 năm
trước và là tỷ lệ tăng thấp nhất trong vòng 50 năm qua. Như vậy, Việt Nam là nước
đông dân thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 13 trong tổng số các nước
đông dân nhất thế giới. Với quy mô lớn và tốc độ tăng tương đối cao về dân số Việt
Nam có lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực.
Theo dự báo của ILO, đến năm 2015 ASEAN sẽ có thêm 55 triệu lao động
mới (tăng 19,8% so với mức năm 2007), nhưng mức tăng mạnh nhất vẫn ở các
quốc gia kém phát triển hơn như Lào, Campuchia và Philippines… Trong khi đó,

lực lượng lao động của Thái Lan, Singgapore dự đoán chỉ tăng 1%/năm. Singapore
và Thái Lan tiếp tục phải đối diện với tình trạng thiếu lao động trầm trọng. Do đó,
11
Việt Nam có lợi thế cạnh tranh quốc gia về nguồn nhân lực dồi dào hơn so với
Singgapore và Thái Lan.
Tỷ lệ những người trong độ tuổi lao động tăng từ 51% lên 65%. Hiện nay,
Việt Nam đang có “Cơ cấu dân số vàng” đây là một lợi thế cạnh tranh quốc gia của
Việt Nam so với Singgapore, Thái Lan đang phải đối mặt với hậu quả kinh tế xã
hội của lực lượng lao động già hóa.
Theo báo cáo được tổ chức Business Monitor International (BMI) công bố,
Việt Nam vẫn có lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài do lực
lượng lao động dồi dào với chi phí thuê mướn rẻ.
Vào Tháng 10/2008, chính phủ Việt Nam đã quyết định nâng mức lương tối
thiểu cho lao động phổ thông làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài từ mức 1,000,000 VND/tháng lên 1,200,000 VND/tháng. Mức lương tối
thiểu tương ứng đối với lao động tại các nhà máy thuộc doanh nghiệp quốc nội
được điều chỉnh trong khoảng 650,000 VND/tháng đến 800,000 VND/tháng. Mức
lương tối thiểu mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Dù vậy, ngay cả khi áp dụng
chính sách này, giá nhân công ở Việt Nam vẫn còn rẻ tương đối so với các nước
trong khu vực Asean (mức lương trả cho lao động Việt Nam cao hơn Cămpuchia,
Lào, Mianma, bằng Indonesia, Philipines nhưng thấp hơn Thái Lan, Malaysia).
Ngành dệt may cũng không nằm ngoài ảnh hưởng của lợi thế này. Với đặc
thù riêng biệt của mình, ngành dệt may đã tận dụng triệt để lợi thế cạnh tranh này.
Đó là, nhân công dồi dào, cơ cấu dân số vàng, giá nhân công tương đối rẻ…
Tuy nhiên, mặc dù Việt Nam cũng như ngành dệt may đang tân dụng triệt để
lợi thế cạnh tranh quốc gia của mình về yếu tố nhân lực nhưng hiện nay Việt Nam
đang đứng trước nguy cơ mất dần lợi thế cạnh tranh này.
Theo dự kiến đến năm 2015 Việt Nam mới bước vào giai đoạn dân số già,
nhưng với tỷ lệ người trên 65 tuổi năm 2008 là 7,5% thì dân số nước ta đã già
hóa.“Như vậy, quá trình già hóa dân số của chúng ta đến sớm hơn dự kiến. Việt

Nam là một trong số ít nước trên thế giới dân số già khi chưa giàu, chưa tích lũy
12
được gì thì đã già”, ông Dương Quốc Trọng – quyền Tổng cục trưởng Tổng cục
dân số - kế hoạch hóa gia đình nhận định. Do đó, Việt Nam đang mất dần lợi thế
cạnh tranh do hiện đang có cơ cấu dân số vàng. Mặt khác, đối mặt với hiện tượng
già hóa dân số là kèm theo rất nhiều vấn đề về an sinh cho những người già trong
khi Việt Nam chưa giàu, đang tập trung phát triển kinh tế. Điều này không chỉ tác
động làm mất dần lợi thế cạnh tranh mà còn kìm hảm lợi thế khác.
Giá nhân công Việt Nam đang nhích dần lên đồng thời năng suất lao động và
sức cạnh tranh của Việt Nam cũng đang giảm dần: không thể cạnh tranh bằng nhân
công rẻ khi mức lương tối thiểu tăng nhanh hơn 20% trong hai năm gần đây -
không một nước nào trong vùng có mức tăng lương nhanh như thế. Năng suất lao
động của công nhân Việt Nam chỉ bằng 70 – 80% so với Trung Quốc. Thêm vào
đó, lực lượng lao động Việt Nam không tuân theo quy trình pháp lý khi muốn đàm
phán về phúc lợi và lương bổng với ban điều hành doanh nghiệp Điều này ảnh
hưởng không ít đến sản xuất của ngành dệt may nói riêng và Việt Nam nói chung.
Hiện Indonesia đang là đối thủ cạnh tranh rất lớn về nhân lực đối với Việt
Nam. Mặc dù giá nhân công cả hai nước gần như bằng nhau, nhưng điểm mạnh của
Indonesia là lực lượng lao động ổn định, năng suất cao và giá đất thấp hơn Việt
Nam. Ngoài ra, Indonesia còn có lực lượng doanh nghiệp địa phương hùng hậu sản
xuất các mặt hàng vải nguyên liệu, dệt kim rất dồi dào, bên cạnh thế mạnh là tay
nghề thành thạo của công nhân
* Về nguồn lực vật chất:
Nguồn lực vật chất ảnh hưởng nhiều mặt tới nguồn lực đầu vào của doanh
nghiệp và ảnh hưởng đến hoạt động Marketing trên thị trường. Đây là yếu tố vừa
tạo nên thuận lợi vừa đưa đến những khó khăn đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Việt Nam có sự đa dạng của tài nguyên thiên nhiên.Ở trình độ phát triển kinh
tế như hiện nay, tài nguyên đất giữ vị trí quan trọng. Việt Nam có khoảng 8,0 triệu
ha đất nông nghiệp, bao gồm đất ở đồng bằng, ở các bồn địa giữa núi, ở đồi núi

13
thấp và các cao nguyên. Nguồn nhiệt ẩm lớn, tiềm năng nước dồi dào, số lượng các
giống loài động, thực vật biển và trên cạn khá phong phú, nguồn khoáng sản đa
dạng v.v… là những thuận lợi mà thiên nhiên đã dành cho chúng ta.
Đối với ngành dệt may cũng vậy, việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên để làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất đang được quan tâm.
Trồng bông tập trung làm nguyên vật liệu cho sản xuất. Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu khoa học ở Nha Hố, Tập đoàn Dệt May Việt Nam đã cho áp dụng hai phương
thức trồng bông chủ yếu là: trang trại và trong nhân dân. Sau khi tích cực tìm kiếm
những vùng đất thích hợp với cây bông, được sự hỗ trợ tích cực của các địa phương
và các tổ chức liên quan, các công ty bông đã xây dựng được bảy dự án trồng bông
trang trại. Cho đến nay đã có ba dự án được triển khai gồm: 54 ha tại xã Phong
Phú, huyện Tuy Phong (Bình Thuận); 192,5 ha tại xã Ea Súp, huyện Ea Súp (Ðác
Lắc); 20 ha tại xã Lương Sơn, huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận). Các công ty bông
đang tiếp tục hoàn thiện và đưa vào khai thác ba dự án mới: trang trại 200 ha tại xã
Ðác Nông, huyện Cư Giút; trang trại 200 ha tại xã Ðác Gla, huyện Ðác Min (Ðác
Nông); trang trại 120 ha tại huyện Ðiện Bàn (Quảng Nam).
Có thể khẳng định, lĩnh vực sản xuất nguyên liệu cho dệt may trong nước
thời gian qua đã có những bước tiến, tỷ trọng nội địa hoá trong các sản phẩm dệt
may đã tăng trong năm 2009. Theo số liệu ước tính của các chuyên gia thì đến nay
nguyên liệu trong nước cho ngành dệt may như bông đã đáp ứng được 10%; xơ, sợi
tổng hợp đáp ứng khoảng 60%; sợi 70%; vải 50%; Tuy nhiên, để tạo thành lợi thế
cạnh tranh mạnh mẽ thì Việt Nam còn phải cố gắng rất nhiều. Hiện nay, nguyên
liệu trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu; sản lượng, diện tích trồng bông trong
nước còn ít; một số nguyên liệu khác trong nước đã sản xuất được thì giá thành lại
không thấp hơn sản phẩm nhập khẩu mà chất lượng lại không ổn định.
Việt Nam hiện đang phải cạnh tranh rất lớn về nguyên liệu với các nước
trong khu vực Asean, đặc biệt là Indonesia khi đây là nước có nguồn nguyên phụ
liệu dồi dào, các doanh nghiệp hiểu sâu về thị trường xuất khẩu.
14

Mục tiêu chiến lược của ngành Dệt may đặt ra đến năm 2010 là phải đạt sản
lượng 20.000 tấn bông xơ, năm 2015 đạt 40.000 tấn. Tuy nhiên hiện nay, diện tích
trồng bông tại Việt Nam lại trông không đồng đều, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên
(42%), vùng duyên hải miền Trung (33%), miền Bắc (20%) và Đông Nam bộ (5%).
Theo thống kê cho thấy trong niên vụ niên vụ 2007-2008 diện tích trồng bông trên
cả nước là 7.446ha cho sản lượng 2.709 tấn, đến niên vụ 2008-2009 diện tích trồng
bông giảm mạnh còn dưới 3.000 ha. Ngành dệt may đã khuyến khích và quy hoạch
tăng thêm diện tích trồng bông. Theo kết hoạch niên vụ 2009-2010 ước đạt khoảng
10.000 nghìn tấn. Tuy vậy con số này vẫn còn xa với mục tiêu 20.000 tấn ngành đã
đặt ra.
Mặc dù ngành Dệt may đã có kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu và có
chính sách hỗ trợ giá cho nông dân, nhưng vấn đề giá còn rất nan giải. Nếu giá thấp
hơn so với các cây trồng khác sẽ khó khuyến khích được nông dân tham gia trồng
bông, và mục tiêu 1 tỷ mét vải vào năm 2010 sẽ còn gặp nhiều khó khăn và thách
thức. Và như vậy, thách thức tiếp theo của ngành Dệt may là phải làm thế nào tạo
được vùng nguyên liệu ổn định, không bị phụ thuộc vào nước ngoài như hiện nay.
* Về nhân tố nguồn vốn và tri thức:
Với đặc thù kinh doang của mình ngành dệt may Việt Nam có vốn đầu tư
không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh. Mặt khác yêu cầu về trình độ tri thức của
lao động không cao nên điều này là một lợi thế cạnh tranh quốc gia rất lớn của
ngành may mặc Việt Nam.
*Về cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây đang dần được cải
thiện và nâng cao. Hệ thống Ngân hàng đã rộng khắp, phục vụ có chất lượng và uy
tín; hệ thống giao thông vận tải ngày một mở rộng, phục vụ tốt nhu cầu; hệ thống y
tế đâ mở rộng, các chi nhánh về tận tuyến huyện, xã, thôn; hệ thống thông tin liên
lạc hiện đại, rộng khắp đến tận vùng sâu vùng xa, hải đảo của Tổ quốc…
15
Trong những năm qua, hệ thống giao thông đường bộ đã được đầu tư và
nâng cấp tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống giao thông nông

thôn cũng đã rất phát triển, nhiều vùng sâu, vùng xa cũng đã có đường nhựa đến tận
trụ sở xã. Hệ thống đường sắt, đường thủy, đường hàng không ngày càng được
nâng cấp và phục vụ đắc lực nhu cầu sản xuất cũng như phân phối.
Như vậy, so với Lào có mạng lưới giao thông chưa phát triển : đường bộ vẫn
chưa rải nhựa nhiều, đường sắt không có, đường thủy thì kém phát triển, chủ yếu
lưu thông bằng ô tô và máy bay. Tuy nhiên hai mạng lưới giao thông này cũng
chưa phát triển, giá thành còn cao, chất lượng chưa tốt. Thì Việt Nam có mạng lưới
giao thông phát triển mạnh, phong phú, chất lượng phục vụ ngày càng tăng.
Với một cơ sở hạ tầng ngày một nâng cao là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn
đến lợi thế cạnh tranh quốc gia, nó nâng cao, cũng cố năng lực cạnh tranh quốc gia
đó. Ngành Dệt may Việt Nam cũng không thoát khỏi ảnh hưởng này. Nhờ có hệ
thống Ngân hàng mà ngành có thể huy động vốn một cách nhanh chóng và thuận
tiện hơn, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn trong kinh doanh. Nhờ có hệ thống giao
thông vận tải thuận lợi mà việc vận chuyển nguyên nhiên vật liệu cũng như sản
phẩm cũng dễ dàng hơn, tốn ít chi phí hơn.
Dệt may Việt Nam đã và đang tận dụng rất thành công những lợi thế cạnh
tranh quốc gia về nhân tố nhân lực, như nguồn nhân công dồi dào, ổn định; có tay
nghề, cẩn thận, tỉ mỉ; chi chí lao động giá rẻ Đây có thể coi là lợi thế cạnh tranh
lớn nhất và mạnh nhất của dệt may Việt Nam.
2.2.1.2 Ảnh hưởng của các cơ hội
Cùng với việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã
nhận được các ưu đãi thương mại dành cho thành viên cũng như khả năng tiếp cận
thị trường quốc tế một cách thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm thay đổi vị thế của nhiều nền kinh
tế, thậm chí có trường hợp đã đẩy một vài nền kinh tế xuống tình trạng trượt dốc.
Cămpuchia là một vị dụ đáng quan tâm. Trước khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế
16
Cămpuchia đã từng tăng trưởng 10% năm 2007, đến nay, theo dự báo của WB chỉ
còn 1%. Cămpuchia tăng trưởng mạnh nhờ 80% kim ngạch thu được từ xuất khẩu
quần áo giá rẻ sang Mỹ. Nhưng khi kinh tế Mỹ suy thoái, chỉ trong mấy tháng (từ

tháng 9/2008 đến đầu năm 2009), 50.000 công nhân may (tức 17% lao động) mất
việc làm. Tôi nêu ví dụ này để thấy, riêng trong ngành dệt may, tác động của cuộc
khủng hoảng là rất lớn. Tuy nhiên, đối với Việt Nam (Năm 2009, theo báo cáo của
Tập đoàn dệt may Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đứng
đầu cả nước với 9,1 tỷ USD. Đây được đánh giá là một hiện tượng đặc biệt trong
khi xuất khẩu hàng dệt may của các nước trên thế giới giảm trung bình 10%. Dệt
may Việt Nam dẫn đầu khu vực về tăng trưởng) thì đây lại là một cơ hội lớn và nếu
biết tận dụng đúng cách thì sẽ giúp ngành Dệt may nói chung và Việt Nam nói
riêng phát triển lên một tầm cao mới. Thời điểm nền kinh tế thế giới đang lâm vào
tình trạng suy giảm lại chính là cơ hội để chúng ta xác định rõ vị thế của mình
trong mạng lưới kinh tế toàn cầu, thực hiện chính sách tái cấu trúc nền kinh tế, bao
gồm tái cấu trúc nội bộ các ngành kinh tế, cơ sở hạ tầng, khu vực kinh tế, cơ cấu
đầu tư nhằm chuẩn bị điều kiện phát triển bền vững trong dài hạn. Chuyển mục
tiêu tăng trưởng kinh tế từ số lượng sang chất lượng.
Việt Nam có một nền chính trị ổn định, an ninh – quốc phòng vững mạnh,
không có các cuộc chiến tranh hay đảo chính. Đây chính là môi trường kinh doanh
thuận lợi cho các ngành nói chung và ngành dệt may nói riêng phát triển bền vững.
So với Thái Lan hiện đang có sự mất ổn định chính trị trong nước và thiếu các
chính sách để cải thiện lâu dài của kinh tế cơ bản thì việc giữ vững ổn định an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội là một thế mạnh, là một trong những lợi thế cạnh
tranh quốc gia của Việt Nam.
2.2.1.3 Tác động của Chính phủ
Phải nói rằng, ngành dệt may Việt Nam là ngành được Chính phủ rất quan
tâm. Điều này không chỉ do tốc độ tăng trưởng cao, tỷ trọng lớn trong kim ngạch
xuất khẩu mà quan trong hơn cả là đã tạo ra trên 2 triệu chỗ làm với 6 triệu người
17
ăn theo. Những đóng góp cho xã hội đó đã nâng cao vị thế của ngành dệt may trong
nền kinh tế đất nước.
Chính phủ Việt Nam có tác động rất mạnh mẽ và to lớn đến nghành dệt may.
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc đề ra chiến lược phát triển nhằm đối

phó có hiệu quả với áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, tăng lợi thế về nguồn lực thông
qua các chính sách giáo dục, lao động , giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nguyên
phụ liệu nhập khẩu.
Ngày 8-1-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 29/QÐ-TTg phê
duyệt chương trình phát triển cây bông vải Việt Nam đến năm 2015, định hướng
đến năm 2020. Theo đó, đến năm 2015, diện tích trồng bông đạt 30 nghìn ha, trong
đó có tưới nước chủ động là 9 nghìn ha, sản lượng 20 nghìn tấn bông xơ; đến năm
2020 là 76 nghìn ha, trong đó có tưới nước chủ động là 40 nghìn ha, đạt sản lượng
60 nghìn tấn bông xơ. Quyết định này cũng nêu rõ ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ
kinh phí để đầu tư xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng, các công trình thủy lợi, hệ
thống tưới tiêu tại các vùng được quy hoạch trồng bông tập trung cũng như các cơ
sở nghiên cứu, phòng thí nghiệm chuyên sâu công nghệ cao. Sẽ thành lập Quỹ bình
ổn giá thu mua bông hạt trong nước để ổn định giá, bảo đảm lợi ích cho người
trồng bông và phát triển ổn định ngành bông. Các đơn vị, tổ chức sản xuất bông
được vay vốn với mức lãi suất phù hợp để mua bông hạt sản xuất trong nước cho
người trồng bông phù hợp với mặt bằng giá thời vụ.
Những chính sách vừa được ban hành sẽ tạo động lực cho người trồng bông,
giúp ngành dệt ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào, tạo chủ động trong sản xuất từ
khâu bông, xơ, vải.
Với vai trò đặc biệt quan trọng của mình, chính phủ Việt Nam đã có tác động
mạnh mẽ và tích cực đối với các yếu tố thuộc nhân tố nguồn lực, các ngành công
nghiệp hỗ trợ và có liên quan, tạo ra rất nhiều cơ hội nhằm gia tăng và phát triển
hơn nữa lợi thế cạnh tranh quốc gia của Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói
riêng.
18
2.2.2 Những nhân tố đang yếu cần phát triển hơn nữa để trở thành lợi thế cạnh
tranh quốc gia
2.2.2.1 Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có mối tương quan
Ở Việt Nam, các xí nghiệp sản xuất phụ liệu cho ngành dệt may cũng phát
triển khá nhanh. Hàng loạt nhà máy sản xuất: chỉ, khóa kéo, khuy áo, tấm bông lót,

bao bì đáp ứng 60% nhu cầu cho ngành dệt may.
Một điều đáng nói với ngành Dệt may Việt Nam là đã có thể xuất khẩu được
nguyên phụ liệu. Kim ngạch xuất khẩu sợi các loại có tốc độ tăng trưởng rất lớn, tới
70% so với năm trước. Các loại phụ liệu như dây khóa kéo, cúc…, trước đây Việt
Nam phải nhập khẩu, giờ đã XK được ra thế giới.
Ngành Dệt may Việt Nam đã liên doanh với Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt
Nam đầu tư 320 triệu USD xây dựng nhà máy sản xuất xơ pô-li-ét-xte ở Ðình Vũ
(Hải Phòng), công suất 160 nghìn tấn/năm. Dự kiến, tháng 5-2011, nhà máy này sẽ
đi vào hoạt động, giải quyết được 40% nhu cầu của ngành dệt, giảm khoảng 300
triệu USD tiền nhập xơ từ nước ngoài, đồng thời tăng tỷ lệ nội địa hóa từ 3% đến
5%. Cùng với xây dựng Nhà máy sản xuất xơ Fomosa (Ðài Loan) tại KCN Nhơn
Trạch, công suất 60 nghìn tấn/năm, việc cung cấp xơ cho ngành dệt về cơ bản sẽ
đáp ứng đủ.
Ngành Dệt may cũng đã quan tâm chú trọng vào việc phát triển, “hồi sinh”
cây bông – một nguyên liệu chính cho quá trình sản xuất của ngành. Hiện nay, với
hỗ trợ của Chính phủ và nỗ lực to lớn của ngành, số diện tích trồng bông có chất
lượng đã ngày một tăng lên, dự kiến nâng tỷ lệ nội địa hóa lên 50% (năm 2012) và
70% (năm 2017).
Nhu cầu sử dụng nguyên phụ liệu trong nước của ngành dệt may là khá lớn.
Chính vì vậy, nhằm đẩy mạnh việc cung cấp nguyên liệu bông, xơ sản xuất trong
nước, từng bước đáp ứng nhu cầu bông, giảm nhập siêu, tạo điều kiện để ngành dệt
may tăng trưởng và phát triển ổn định, mới đây Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
“Chương trình Phát triển cây bông vải Việt Nam đến năm 2015”; Tập đoàn Dầu khí
19
quốc gia Việt Nam và Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cũng đang triển khai
xây dựng nhà máy sản xuất sợi tổng hợp ở Khu công nghiệp Đình Vũ (Hải Phòng),
dự kiến năm 2012 sẽ đi vào sản xuất đáp ứng 100% nhu cầu xơ, sợi tổng hợp cho
ngành dệt. Ngoài ra, Vinatex cũng đang xây dựng 4 khu công nghiệp dệt, nhuộm
tại các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Long An, Trà Vinh nhằm khuyến khích các DN
trong và ngoài nước đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành dệt may

Nếu làm được như trên thì trong tương lai ngành công nghiệp hỗ trợ và có
mối tương quan với ngành dệt may sẽ phát triển trở thành một lợi thế cạnh tranh
quốc gia mới. Với việc các ngành công nghiệp phụ trợ và hỗ trợ cho Dệt may phát
triển là một tiền đề vô cùng to lớn giúp Dệt may phối hợp và chia sẽ những hoạt
động của dây chuyền sản xuất, giúp cho hoạt động sản xuất cũng như kinh doanh
của ngành đạt hiệu quả cao hơn trên cả thị trường trong nước lẫn quốc tế.
Tuy nhiên, để ngành công nghiệp hỗ trợ này trở thành một lợi thế cạnh tranh
thì ngành dệt may nói riêng và Việt Nam nói chung cần phải cố gắng nỗ lực nhiều
hơn nữa.
Hiện nay, Việt Nam vẫn đang bất lợi về ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành
dệt may so với Thái Lan và Indonexia. Bởi các nước này có nguồn nguyên phụ liệu
dồi dào, có ngành công nghiệp hỗ trợ tương đối mạnh, có thể nói là mạnh nhất
trong khu vực Asean.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2009, Việt Nam đã nhập
khẩu lượng nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trị giá 9,63 tỉ đô la Mỹ, trong đó
bông chiếm 417 triệu đô la, sợi chiếm 723 triệu đô la, vải chiếm 4,1 tỉ đô la, các
loại phụ liệu chung cho dệt may và da giày chiếm 2,19 tỉ đô la, chất dẻo làm sợi
tổng hợp chiếm 2,2 tỉ đô la. Điều đáng nói là nhiều loại nguyên phụ liệu trong nước
sản xuất được nhưng vẫn nhập khẩu do hàng trong nước chưa đáp ứng được yêu
cầu về chất lượng, mẫu mã, sản lượng, diện tích trồng bông trong nước còn ít; một
số nguyên, phụ liệu trong nước khác đã sản xuất được thì giá thành lại không thấp
20
hơn sản phẩm nhập khẩu mà chất lượng lại không ổn định. Bên cạnh đó, còn do giá
thành của hàng trong nước cao hơn 5% so với hàng nhập khẩu cùng chủng loại, mà
nguồn hàng lại không ổn định
21
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO LỢI THẾ CẠNH TRANH QUỐC
GIA CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY TRÊN THỊ TRƯỜNG
QUỐC TẾ
Tuy xét về lợi thế cạnh tranh quốc gia Việt Nam có nhiều lợi thế so với các

nước trong khu vực ASEAN về ngành may mặc, nhưng những lợi thế đó cần phải
được khai thác một cách triệt để, cần phải có những kế hoạch và giải pháp cụ thể để
nâng cao, gia tăng hơn nữa lợi thế cạnh tranh của dệt may Việt Nam trong khu vực
ASEAN và trên toàn thế giới.
3.1 Định hướng phát triển ngành Dệt may Việt Nam
Với mục tiêu phát triển ngành Dệt - May trở thành một trong những ngành
công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu
tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh,
hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
3.2 Một số giải pháp cụ thể
3.2.1 Thu hút vốn đầu tư
Khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển
ngành Dệt - May để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên liệu
bông xơ và sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu, để kêu gọi các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài. Trong đó ưu tiên các dự án sản xuất vải dệt thoi phục vụ cho
sản xuất hàng may mặc xuất khẩu.
Xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành Dệt - May có đủ điều kiện hạ
tầng cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, đảm bảo các yêu cầu về môi trường
và lao động có khả năng đào tạo.
Phối hợp với các địa phương đầu tư phát triển cây bông, trong đó chú trọng
xây dựng vùng bông có tưới, từng bước đáp ứng nhu cầu bông cho ngành dệt, sợi.
22
3.2.2 Phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam không nên và không được phép trì hoãn việc nâng cao tính cạnh
tranh của nguồn nhân lực. Chính phủ và các bên liên quan cần hợp tác hơn nữa với
doanh nghiệp và các tổ chức giáo dục dạy nghề để có thể tạo dựng nguồn nhân lực
có kỹ năng phù hợp yêu cầu thực tế của công việc. Các cơ quan hữu quan cũng nên
sử dụng các biện pháp khuyến khích hơn nữa việc tự đào tạo để các nhà máy tự tổ
chức cho phù hợp với nhu cầu đặc thù của từng doanh nghiệp.

Cần đào tạo và phát triển nguồn nhân lực theo quan điểm: Đào tạo giữ vị trí
ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng nguồn nhân lực; Đào tạo nguồn nhân lực của
ngành Dệt May cần gắn với nhu cầu phát triển của đất nước, của ngành, gắn với
tiến bộ của khoa học - công nghệ; Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May là
công việc chung của chính quyền, của các cơ sở đào tạo, của doanh nghiệp và của
chính bản thân người lao động.
Do đó, Triển khai Chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt -
May Việt Nam theo các nội dung sau:
- Mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật, cán bộ pháp chế, cán
bộ bán hàng chuyên ngành Dệt - May, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề của
các dự án dệt, nhuộm trọng điểm.
- Mở các khoá đào tạo về thiết kế và phân tích vải, kỹ năng quản lý sản xuất,
kỹ năng bán hàng (gồm các kỹ năng thiết kế, làm mẫu, bán hàng, kiến thức về tiêu
chuẩn nguyên liệu, sản phẩm tiêu chuẩn môi trường và lao động).
- Liên kết với các tổ chức quốc tế để cử cán bộ, học sinh tham gia các khoá
đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ pháp chế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ bán hàng, đào tạo
công nhân kỹ thuật có tay nghề cao tại các cơ sở đào tạo ở nước ngoài.
- Kết hợp việc đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa đào tạo
chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước với việc cử cán bộ ra
nước ngoài để đào tạo.
23
- Củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt - May, xây dựng
Trường Đại học Dệt - May và Thời trang để tạo cơ sở vất chất cho việc triển khai
các lớp đào tạo.
- Duy trì thường xuyên các lớp đào tạo hệ cao đẳng, trung cấp, công nhân
thông qua hệ thống các trường chuyên nghiệp của ngành Dệt - May nhằm cung cấp
đủ nguồn nhân lực cho ngành. Hiệp hội Dệt - May Việt Nam và Tập đoàn Dệt -
May Việt Nam là đầu mối để phối hợp và liên kết với các cơ sở đào tạo trong và
ngoài nước triển khai Chương trình đạo tạo nguồn nhân lực cho ngành.
- Chính phủ cần sửa đổi Bộ luật Lao động sao cho phù hợp với việc ưu tiên

triển khai mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.
3.2.3 Giải pháp thị trường
Tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán mở rộng thị trường dệt - may
trên thị trường quốc tế. Cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải
quan, xuất nhập khẩu theo hướng thực hiện cơ chế một dấu, một cửa, đơn giản hoá
các thủ tục.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, trốn
thuế, gian lận thương mại.
Tăng cường công tác tư vấn pháp luật thương mại quốc tế. Chuẩn bị kỹ việc
chống các rào cản kỹ thuật mới của các nước nhập khẩu cho các doanh nghiệp xuất
khẩu.
Tổ chức mạng lưới bán lẻ trong nước, đổi mới phương thức tiếp thị xuất
khẩu, đồng thời quan tâm đến việc xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm, xây
dựng hình ảnh của ngành Dệt - May Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc
tế.
24
Bố trí đủ cán bộ pháp chế cho các doanh nghiệp trong ngành để tham gia
soạn thảo, đàm phán và giải quyết các tranh chấp hợp đồng, nhất là hợp đồng
thương mại quốc tế.
3.2.4 Giải pháp về phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan.
Xây dựng các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu tại Thành phố Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn để cung ứng kịp thời nguyên phụ
liệu cho các doanh nghiệp trong ngành. Xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh
nguyên phụ liệu tập trung nhằm đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu cho các
doanh nghiệp với chất lượng cao và giá nhập khẩu hợp lý.
Liên kết với các nước trong khu vực Asean, đặc biệt là Thái Lan, Indonexia
để cùng hợp tác. Các nước này sẽ cung cấp nguồn nguyên phụ liệu còn Việt Nam
sẽ triển khai may. Nhờ đó giúp cho Việt Nam tận dụng được nguồn nguyên phụ
liệu giá rẻ.
3.2.5 Giải pháp về tài chính – nguồn vốn

Vốn cho đầu tư phát triển: Để giải quyết vốn cho đầu tư phát triển, ngành Dệt -
May Việt Nam huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông
qua các hình thức hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần
hoá các doanh nghiệp, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến
khích các doanh nghiệp huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán (phát
hành trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu quốc tế), vay thương mại với điều kiện có hoặc
không có sự bảo lãnh của Chính phủ.
Vốn cho hoạt động nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực và xử tý môi trường:
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các Viện nghiên
cứu, các Trường đào tạo trong ngành Dệt - May Việt Nam để tăng cường cơ sở vật
25

×