ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG DẠI HỌC KHOA HỌC xñ HỘI vn NHÂN VĂN
• • • •
£)ầ TÀI
TÌM Hiếu Gltìo IV ĐHRCMH
V ỉ IỈỔN PHẬN ĐẠO nức NGƯỜI PHỤ NỮ nN ĐỘ
• • * •
ợun MỘT SỐ TÓC PHÀM VĂN HỌC nN ĐỘ Tiêu Biếu.
• • •
Mã số: QX. 98. 09
Người chủ trì: Phạm M inh Tâm
MỤC LỤC
% *
Trang
Lòi nói đầu. 4
Phần nội dung chính. *
Phẩn ịhứ_ nhất: M ột cái nhìn lổ n g Ihể về Ấ n Đ ộ . 7
Chương 1 : N hững cơ sở lịch sử và x ã hội. 8
1 . 1 .Tên nước. 8
1.2 .Đ iề u k iện tự nhiồn và địa lý khí hậu. 9
1 .3.Ch ủng tộc, ngôn ngữ, chữ viết. 15
1 .4 .Đ ẳ n g cấp, tôn giáo. 19
Chương 2 : K hái quát nền văn học Ấ n Đ ộ truyền Ihống. 23
Phấn thứ hai: Tìm hiổu khái n iệm giáo lý Đ h acm a. 28
C hương 1: N hững khái niệm chung về g iá o ỉý Đ h a cm . 28
1 .1. Đ h acm a xét v ề m ặl ngữ ngh ĩa. 28
1.2. R ita - khái niệm tiền Đ hacm a. 29
1.3. Đ h acm a - m ột g iá o lý của đ ạo H inđu. 33
1.4. N h ận d iện Đ hacm a từ góc độ N h o giáo . 4 0
1.5. B .Ghita diền g iả n g về Đ hacm a. 45
C hương 2 : G iáo lý Đ hacm a về bổn phân đạo đức
ngư ời phụ nữ Ân Đ ộ . 47
2 .1. N h ữ ng q uy định của Đ h a cm a về bổn phận
d ạ o đức phụ nữ Ấ n Đ ộ . 4 7
2 .2 . N hữ n g thay đổi trong quan niệm Đ h acm a về
bổn phận đạo đức. 5 0
2 .3 . V ai trò ch ín h phủ Ấn Đ ộ trong v iệc cải th iện
đời sốn g phụ nữ Â n . 5 3
2
Phấn thứ ba: G iáo lý Đ h a cm a về bổn phận đạo đức phụ nữ Ấn
qua m ộ t số lác phẩm văn h ọ c A n Đ ộ tiêu biểu . 57
Chương
1 : H ình m ẫu người phụ nữ Ấ n trong văn h ọ c
 n Đ ộ cổ đại. * 58
1.1. Phụ nữ Ấ n U ong irường ca - sử thi Ấ n Đ ộ c ổ đại. 60
1.2. Phụ nừ Â n trong tác phẩm kịch - ihơ cổ Â n Đ ộ . 70
Ch ươn Ü 2 : H ình m ẫu người phụ nữ Ấ n Irong văn h ọc Ấ n Đ ộ
cận hiện đại và hiên đ ại. 77
2 .1 . Phụ nữ Ấ n trong sáng tác của R .T agor. 79
2 .2. Phụ nữ Ấ n trong sáng lá c của P.Trânđơ. 86
2 .3 . Phụ nừ Ấ n Irong sán g tác của Iasơpal. 97
2 .4 . B ảng hộ thống tóm tắt 108
Kết luận. 110
Tài liệu tham khảo. 114
3
LỜI NÓI ĐẦU.
1. N ằm ở khu vực N am Á , Ấ n Đ ộ là m ột nước lớn ở Châu Á và
V *
n g ày càn g thu húl sự quan tâm chú ý của thế giớ i. A n Đ ộ c ó n h iều
ảnh hưởng rất lớn tới các vùng xu ng quanh từ xa xưa, đ ặc biệt là vùng
Đ ô n g N a m Á , Irong đ ó có V iệt N am . Â n Đ ộ là m ột đất nước m à từ
lâu, trong tâm trí m ọi ngư ời, là “xứ sở của m uôn điểu k ỳ d iệu ”, là quô
hương của nhữ ng pho thẩn thoại, cổ tích, truyền thuyếl h o an g đường
kỳ Ihú, là m ột Uong bốn nồi văn m inh đầu tiên của nhân loại.
2. M ỗi m ột dân lộc trên th ế giớ i đều có quyền tự h ào về nền văn
hoá của m ình và những nền văn h oá ấy đều m ang bản sắc truyền
thốn g dân tộc đ ộc đáo. Đ ố i với m ỗi quốc gia, m ỗ i dân tộ c, d iện m ạo
văn hoá được xcm như là tiêu chí để đánh giá sự tiến bộ, sự bền vữ ng,
trường tổn của qu ốc g ia và dân tộ c ấy. M ỗi q u ốc g ia hay m ỗi dân tộc
khác nhau ở lịch sử hình thành và phát triển, điều kiện đất đai, khí
hậu, dấu ấn m ỗi thời đại đi qua để lại trong cu ộ c đấu tranh sinh tồn
củ a co n người. M ỗi quốc gia hay m ỗi dân tộc đều tự hun đúc, chắt
lọ c và tiếp nhận những kinh nghiệm m ới làm phon g phú thêm g ia tài
vật chất và tinh thần củ a cả cộn g đ ồng, những giá trị ấy là văn hoá.
N ó luôn là đ iểm tựa, là định hướng cho toàn xã hội phát triển. N ó là
nền tảng, là cội rễ củ a m ộ t nền văn hoá, tạo nên diện m ạo và bản sắc
riêng k h ông trộn lẫn giữa cá c dân tộc tiên th ế giới.
3. N ền văn hoá Ân Đ ộ đã có lịch sử hình thành và phát triển
5 0 0 0 năm . Đ ó là m ộl q uãng ihời gian tương đối dài đủ để tạo nên
“m ộ t bản sắc Ấ n Đ ộ ”, “m ột tính cách Ấ n Đ ộ ”, “m ột tâm hồn Ấ n
Đ ộ ”, m à m ột Irong những cội rễ sâu xa làm nên cái h ồn, cái c ốt Ấn
Đ ộ rất riêng ấy chính là g iáo lý Đ h acm a về bổn phân đạo đức - m ộ l
g iáo lý quan trọng của đạo H indu.
4
Từ buổi bình m inh của lịch sử loài ngư ời, trong cá i th ế g iớ i bao la
hùng v ĩ của thiên nh iên h oang sơ, khi dân tộc  n Đ ộ bắt đẩu biêl suy
ngảm vổ cu ộ c sô n g và cộ i nguồn của nó, giáo lý Đ h acm a đã c ó m ầm
m ố n g hình ihành từ những cảm nhận ban đầu về sự vận đ ộ n g luẩn
hoàn có quy luật của vũ trụ. N hững quy luật vận đ ộ n g n ày đ ư ợc phát
triển và m ở rộng ra thành những quy luật về nhân sin h quan trong đời
sống xã hội phức tạp của con người.
Có thể nói g iáo lý Đ h acm a về bổn phân đ ạo đức dã c ó ảnh hư ởng
rất lớn và chi phối loàn bộ đời sống xã hội Ấ n Đ ộ . N ó là cái cốt lõi cư
bản tạo nên nền luân lý đạo đức truyền thống Ấ n Đ ộ , là kim chỉ nam
ch o m ọi hành động của m ỗi người dân Ấn Đ ộ từ xưa ch o đ ến lân bây
giờ.
4. Ấ n Đ ộ có m ột nền văn h ọc lớn rất p h o n g phú và đa dạ ng bửi
đ ó là sự lổ n g hợp hài hòa thống nhất các nền vãn h ọ c địa phương.
C ác sán g tác văn h ọ c từ Ihời cổ đại đến nay (văn h ọ c truyền m iông và
văn h ọ c viết) đều đã ih ể hiện rất rõ giá o lý Đ h acm a về bổn phạn đạo
đức đ ặc biệt qua những hình ảnh người phụ nữ rất phổ biến trong các
tác phẩm văn h ọ c Ấ n Đ ộ. C ông cu ộ c đấu tranh g iả i phón g dân tộ c Ấn
Đ ộ đã làm thay đổi hoàn toàn s ố phận người phụ n ữ Ấ n và cùng với
nó là sự Ihay đổi có tính ch ấ l cách m ạng trong quan n iệm - nhìn nhận
g iáo lý Đ h acm a vệ bổn phận đạo đức. Đ ó là sự thay đ ổi từ cam ch ịu ,
nhẫn n hục, thụ động tiến tới thái độ chấp nhận, nhẫn nhịn m ộ t cách
ch ủ đ ộng c ó ý thức, có bản lĩnh. C hỉ những ai Ihấu hiểu sự tủi hờn c ơ
cực của c u ộ c đời ngưừi phụ nữ Ấ n thời xưa cũ lạ c hậu m ứ i thấy hốl
được cái v ĩ đại, cái ý n ghĩa lớn lao của cu ộ c đời n gười phụ nữ Ấ n
h ô m nay. H ọ đă có những đóng góp đ áng k ể trong cô n g cu ộc xây
dựng đất nước  n Đ ộ mới và giành được vị trí xứ ng đáng Irong p h ong
Irào phụ nữ quốc tế. Đ ó cũng ỉà k ếl quả, thành lựu đ á n g Irân trọng và
5
đầy lự hào củ a 53 nãm xây dựng nước C ộn g h oà A n Đ ộ v ĩ đại m à sự
đ ó n g gó p to lớn của g iớ i phụ nữ Â n Đ ộ là k h ông thể phủ nhận.
' .
.
■
.
-
PHẨN THỨ NHẤT
M ột cái nhìn tổng thể về Ân Độ.
Ấ n Đ ộ là đất nước có nền văn h iến lâu đời và là m ột trong bốn
nôi văn m inh đầu tiên củ a nhân loại. “N ế u có m ột nơi nào trên b ề m ặt
trái đất m à ở đó tất cả những giấ c m ơ của con người đã tìm được m ột
quô hương n gay từ ihời k ỳ nguyên sơ khi con người bát đầu m ơ ước
về sự tồn tại củ a m ình, Ihì đ ó là Ấ n Đ ộ ”(R om a in R o lland ). C ũ ng
chín h nơi đ ây từ lâu đã thu hút sự quan lâm đặc b iệt củ a th ế giớ i, nhất
là lẩng lớp trí thức và cá c nhà khoa h ọc. Đ ã và đa ng c ó rất n h iều cồ n g
trình n g h iên cứu, nhiều vấn đ ề, nhiều câu hỏi đ ược đặl ra để tìm hiổu,
đ ể khám phá, phát hiện cũng như đ ể k iểm chứng, đối ch iếu , so sánh
đ ố i với vùng đất này. Song, với bất cứ ai khi m uốn quan tâm tìm hiổu
m ộ l vấn đề n ào đó về đất nước, con ngư ời, n ền văn h oá và dân tộc Ấ n
Đ ộ , đ iều đầu tiên và cũng rất cần thiết là cần phải có m ột cái nhìn
tổng thể, cơ bản v ề đất nước này , n ghĩa là phải hiểu Ấ n Đ ộ dưới dạng
lổng quái ch u ng nhất về cá c m ặl tự nhiên , vãn h oá, xã h ội và các m ối
liên hệ biện chứng giữa ch úng đ ể rồi từ đó m ới c ó thổ đi sâu n g h iên
cứu m ộl vấn đề cụ thể nào đó m à la đang quan tâm . Đ ó cũ n g chính là
lý do giải ihích tại sa o chúng tồi dùn g m ộ t số trang đẩu tiên củ a đề tài
đ ể giớ i thiệu Ấ n Đ ộ dưới m ộ t cái nhìn tổng thể và khái q u ái nhấl
những cơ sử lịch sử, xã h ội và nền văn hoá Â n Đ ộ truyền thống trước
khi đi sâu v ào phần trọng lâm của đề tài là tìm h iểu g iáo lý Đ h aem a
về bổn phận đạo đức phụ nữ Ấ n qua m ột s ố tác phẩm văn h ọ c Ấ n Đ ộ
liêu biểu.
7
Chương 1. Những cơ sở lịch sử - xã hội.
7.7. Tên nước:
Trong lịch sử hình thành và phát triển, Ấ n Đ ộ đã từng có nhiều
lổn g ọi. Tôn gọi c ổ nhấl là Arya Varta (h oặc A rya ĐCsha) c ó n ghĩa là
vùng đất của người A ryan. Đ iều này khẳng định: tên g ọ i này của A n
Đ ộ c ó từ k hoản g thiên niên kỷ II trước C ôn g n gu y ê n , thời kỳ người
A ryan xâm nhập và định cư Irên vùng đất Nam Á . A ryan - liến g
Phạn (là tiếng Sanscrit - tiêng c ổ Ấ n Đ ộ ) c ó n ghĩa g ố c là trồng Irọl,
làm nông n ghiệp, m à Ihời đó nông n ghiệp được coi là m ột nghề cao
q u ý, nôn người Aryan còn c ó nghĩa là ngư ời làm nông n ghiệp người
có phẩm chấl (giá trị) cao quý và sau này m ới được hiổu là “ngườ i có
d ò n g dõi cao qu ý ” .
 n Đ ộ còn có m ội tên g ọ i khác nữa là Bharat V arsha. V arsha hay
VarLa h o ặc Đ ê sh a đều có ngh7a là đấl nước, vùng đất. Bharal V arsha
c ó n ghĩa là đất nước của d òng h ọ Bharat. Bharal được nhân dân Ấ n
Đ ộ lừ ngàn xưa suy tôn là ô n g lổ. T h eo Ihẩn Ihoại  n Đ ộ Bharat là
con trai của vua Đ usanta và cồng ch úa Sơkuntơla (n guyên là con g a í
yêu củ a Thánh sư V isv a M itra và tiên nữ apsara M ênaka).
M ộl lên g ọ i khác nữa của Ấ n Đ ộ là H industan - c ó n g u ồn g ố c lừ
tên m ộ l con sô n g lớn ở ấn Đ ộ là sô ng Inđ (b iến âm từ tên cổ Sindhu,
người Ba T ư gọ i là H inđu, người H y Lạp g ọ i là Indus). Stan n ghĩa là
đấl nước - H industan c ó nghía là đất nước b ên sôn g Inđ. Inđia dịch là
 n Đ ộ là do bắt n guồn lừ tên sồ n g Inđ này.
H iện nay, quốc hiệu duy nhất “ Bharat” là q u ố c h iệu củ a nước
C ộng hoà Ấn Đ ộ (n g ày đ ộ c lập: 15 - 8 - 1 9 4 7 và n g à y q u ố c khánh: 2 6
- 1 - 1 9 5 0 ).
8
R ấl nhiều người con của dân tộc Ấn Đ ộ vẫn tự h à o g ọ i lên củ a lổ
q u ố c m ình là Bharat M ata n gh ĩa là M ẹ Â n Đ ộ. Đ ó là n gư òi M ẹ “ vô
lư, tin tưởng và tự hào về những truyền thốn g của m ìn h , luôn đi tìm
điều b í ẩn, luôn đặt ra những càu hỏi về thiên n h iên và nhân sin h , trân
írọng những chuẩn m ự c sống ihoải m á i, vui tươi và đương đẩu với
cái chết m à không m ấy bận tâm ”((51*Tl,tr251).
1 2. £>iềư hiện tự nhiên về địa lý kh í hậu.
C on người sinh ra trong tự nhiên và sá n g tạo nên m ộ t thiên nhiên
thứ hai là văn hoá. C on người với tự nhiên gắn bó và lác độ n g qua lại
chặt chẽ với nhau. “Đ iể u kiện tự nhiên , m ô i trường tự nhiên của m ột
khu vực chắc chắn có m ột ảnh hưởng nhất định đến đời sốn g vãn hoá
cuả những con người sống trong khu vực đ ó ”(6 ,lr l5 ).
V ì vây m à khôn g Ihể k h ông n ói đến đ iều k iện tự n h iên v ề địa lý,
k h í hậu của Ấ n Đ ô trước khi đi sâu vào bấl cứ lĩnh vực nào của đời
sốn g văn hoá Ấ n Đ ộ .
Ấ n Đ ộ là m ột bán đảo lớn rộng m ênh m ôn g , gần như là m ộ t tiểu
lục địa, chiếm gần hết trung tâm khu vực N am Á , phía Bắc giáp
Trung Q uốc, N êpan, Butan; phía Đ ô n g giáp M ian m a, B ănglađét; phía
T ây giáp A p ganistan , Pakislan; phía N am đ ư ợc bao b ọc bởi biển Ân
Đ ộ Dương, biển Ảrập và vịnh B ăn ggan . Ấ n Đ ộ c ó diện tích hơn 3
triệu km vu ông (đứng hàn g Ihứ 7 trên th ế g iớ i), với s ố dân lính đốn
n g à y 11 - 5 - 2 0 0 0 là tròn 1 tỉ người (theo báo T h ể thao h àng ngày, 11
- 5 - 2 0 0 0 ), đứng thứ hai trên th ế giới sau Trung Q uốc.
N hìn Irên bản đồ th ế giới, Ấn Đ ộ c ó hình dáng như m ộ i tứ g iác
kh ôn g đ ều và d ố c dần vồ phía v ề phía đỉnh ở hướng N a m là m ũi
C ôm ari. Phía bắc là bức lường Ihành vành đai núi v ĩ đại H y m a la ya .
K éo dài lừ 8 độ 6 đến 3 7 độ 6 v ĩ đ ộ Bắc và trải rộng từ 6 8 đ ộ 7 đ ến
9
9 7 cjô 2 kinh độ Đ ô n g , Ấ n Đ ộ hầu như được bao b ọ c'b ở i núi c a o và
đại d ư ơng và chính điều kiện tự nhiên n ày cũng đã được J.Nôru nhận
x é l trong cuốn “Phát h iện  n Đ ộ ” của ông: “H ình ihái sồn g núi về
địa lý c ó m ột ảnh hưửng m ạnh m ẽ đến việc quyết định tính cách và
lịc h sử m ộ l đân lộc. Ấ n Đ ộ bị ngăn cá ch bởi rặng núi H ym alaya cao
ngất và biổn cả, việc đó đã sản sinh ra m ột ý ihức thống nhấl trong
lãnh thổ rộng lớn này và đồng thời n u ối dưỡng m ột tinh thần cách
biệt. Trên lãnh thổ m ênh m ôn g đ ó, m ộ t n ền văn m inh số n g đ ộn g và
thuần nhất đã xuất h iện và có phạm vi rộng rãi để bành trướng và phát
triển, tiếp tục duy trì m ột tính thống n h ấl m ạnh m ẽ v ề văn hoá. Tuy
n hiên , bên Irong sự Ihống nhất đ ó, địa lý cũng lại tạo ra sự đa
d ạ n g ”(61,T 3,lr9 5). “ Sự đa d ạng của Ấ n Đ ộ thật là lớn, thật rõ rệt,
n ó hiện lén bề m ặt và bấl kỳ ai cũng c ó thể thấy. N ó b iểu lộ trôn dáng
vẻ bồ n goấi cũng như trong m ột s ố thói quen và tính cách về trí
tuô.”(6 1 ,T l,tr 114).
V ề địa lý tự n h iên, Ấ n Đ ộ được chia làm ba m iền k h ác nhau rõ
rệt:
V ành đai núi H ym alaya và rừng rậm phía B ắc  n Đ ộ .
V ù n g đồng bằng Ấ n - H ằng Irung tâm Ấ n Đ ộ .
V ù n g cao ngu y ên Đ ê c ă n g phía N am Ấ n Đ ộ .
1.2.1. Vàn h đai H vm alava : nghĩa Liếng Phạn c ổ là “xứ sở của
tu y ết trắng”, được th ế giới m ệnh danh là “ b ông h o a tuyết v ĩ đ ạ i” .
R ặng H y m a laya “mái nhà của thế g iớ i” n ày có hình v ò n g cun g dài
k h oảng 2 .6 0 0 km gồm n h iều dãy núi trùng đ iệp son g so n g nối liếp
nhau tạo Ihành biên giới lự nhiên giữa T rung Q u ố c, N êp a n với Ấ n
Đ ộ . V ùng núi này có tới hơn 40 đỉnh ca o 7 - 8 .0 0 0 m q uanh nãm
tu yết phủ. T rong trí tưởng lượng của n gười Ấ n xưa, d ã y H ym a laya
hùng v ĩ với n gọn M êru thần Ihánh ca o ngất (dưực c o i là “ c ộ t trụ
trời”) là nơi trú ngụ của cá c vị thần linh (đứng đầu là vị thẩn Inđra).
Lâu n ay, đ â y thường là nơi loạ thiền tu hành đ ắc đ ạo củ a các đạo sĩ
khổ hạnh.
N ơi đây cũn g c ó nhiều ihung lũ n g rộng dài, nổi tiến g nhấl là
Ihung lũng C asơm ia thơ m ộ n g và tráng lệ với m ùa xuân ngậ p Iràn hoa
m à từ ngày xưa đã được g ọ i là “ihiên đàng của hạ g iớ i”, hàn g năm
thu h ú l rất n hiều khách du lịch b ốn phương. C ó lẽ chính p h ong cảnh
thiôn nhiên đa dạng: núi ca o hùng vĩ, rừng rậm hu y ề n b í âm u và
những thung lũng hiền dịu tươi sáng nên thơ đã k ích thích trí iưửng
s 'S
lượng phong phú của con người. N hững trang thẩn Ihoại A n Đ ộ đâm
chấl Iriếl lý và trữ tình đã được hình thành với đ ầy đủ m àu sắc, âm
thanh, hương vị, Irử ihành niềm lự hào của dân tộc Ấ n Đ ộ và u ường
tồn ch o đ ến tận bây giờ . .
N h ờ bức tường thành H ym a laya, Ấ n Đ ộ tránh được ảnh hư ởng
khắc nghiệt của những luồn g k h í lạnh, v ù n g kh í hậu lục đ ịa p hía B ắc
thổi x u ố n g, lại đồng thời lận dụng được g ió m ù a từ đại dưưng Ihổi
vào trong m ùa hạ, bị núi chặn lại ihành những trận m ưa rào trong
lành mát m ỏ lưới đẫm vùng đ ồng bằng  n H àng rộng lớn phì n hiêu.
R ừ n g rậm vùn g chân núi ch iếm 4 /5 diện tích h ệ Ihống núi H y m alaya.
R ừ n g lâ m n g u yên thủy bạt ngàn đã tạo nên thảm đ ộng thực vật vỏ
cùng p h ong phú và đa dạn g, lừ ngàn xưa đã ch iếm vị trí cực kỳ quan
trọng Irong đời sốn g kinh tế cũng như đời sốn g văn hoá, xã hội củ a cư
dân Ân Đ ộ .
1.2.2. V ùng đ ốn g bằn g Ẩ n - H ằn g: vùn g này được giới hạn từ
phía N am H y m alaya đ ến d ãy núi V in đ hya phía bắc c a o nguyên
Đ ô căn g . Đ ó là m ội trong những đổng bằng lớn nhất th ế giới với c h iều
rộng k hoản g 6 0 0 km và ch iều dài gần 3 .6 0 0 km , phẩn lớn dư ợ c lạo
nôn bởi phù sa m àu m ỡ của hai con sổn g lớn bắl n g u ồn lừ rặng
H y m alaya: sô n g Ấn và sôn g H ằng Đ ã c ó m ộ t thoi gian d ài, nưi đây
11
lừng là rừng rậm và đầm lầy, mãi đến gần thiốn niên kỷ I trước C ổng
n g u y ê n mới tạm hoàn ch ỉnh Ihành đồng bằng trù phú và ngày cà n g
m ở rộng thành d iện lích lớn như bây giờ, P h ong thổ vùng đất n ày với
khí hâu nhiệt đới g ió m ùa rất thuận lợi cho v iệc Lrong lúa nước. C hính
nơi đây là irung tâm kinh tế, văn hoá, chín h trị và đã chứng kiến m ọi
diễn biến thăng trầm của lịch sử phát triển Ấ n Đ ộ .
Sông Ấn: n guyên g ọ i là Inđus và tên sôn g cũn g là tên đất nước:
Inđia - Ấ n Đ ộ. Sông Ấn gắn liền với nền văn m inh Ấ n cổ xưa, sản
phẩm văn hoá của những cư dân đến Irú n gụ sớm nhất ử bán đảo  n
Đ ộ . Sổng Ấn dài khoản g 2 .9 0 0 km trải rộng phía T â y Ấ n với 5 nhánh
chảy qua vùng P enjap (phía nam ihun g lũ ng C asơ m ia), dịch ngh ĩa là
5 sổng, còn g ọ i là vùng N g ũ hà, rồi đ ổ 1'a biển Ảrập phía Tây A n.
Sông Ấ n có lưu lượng nước rất lớn, khoảng 2 7 4 lỉ m khối nướ c m ỗi
nãm (gấp 2 lần sông N in và g ấp 3 lần hai sôn g T igơrơ và ơ p h rá l của
T iểu Á cộng lại) và n ổi tiến g bởi nhữ n g trận lũ lụt k hủng k h iếp làm
ngập và cuốn đi các thành ph ố và làng m ạc. Cũng ch ính tại d ây lừ
5.0 00 năm Irước đã hình ihành và nuôi dưỡng m ộ t n ền văn m inh đô
Lhị rực rỡ của loài ngư ời: n ền văn h o á sôn g A n - M ô h enjô Đ arô và
Harappa, khởi nguồn của nền văn h oá truyền th ố ng Ấ n Đ ộ với
“những di lích gây ấn.tượng sâu sắc v ề m ột bức tranh c ổ xưa nhất mà
chúng ta có được về quá khứ Ấ n Đ ộ ”(6 1 ,T l,tiT 3 2 ).
Tất cả những gì được phát h iệ n ở n ền văn m inh n ày đã ch ứ ng tỏ
rằng: “Vào buổi bình m inh củ a lịch sử Ấ n Đ ộ , đất nước n ày đã k h ô n g
có vẻ là m ột dứa trẻ q uậl q u ẹo m à đã Irưởng Ihành v ề nhiều m ặl. N ó
không xa rời cu ộ c sốn g , k h ô ng ch ìm đắm trong m ư m ộ n g v ề m ộ t thố
giới siêu nhiên m ơ h ồ kh ôn g Ihực tế m à n ó đã đạt dược những lien bộ
kỹ thuật quan trọng trong n gh ệ thuật và nhữ n g lạ c thú của cu ộ c đ ời,
sáng tạo nên không chỉ những đ ồ m ỹ n gh ệ m à cả nh ữ ng b iểu lượng
hữu dụng và điển hình hơn của nền vãn m inh hiện đại: đ ó là những
nhà lắm và những hộ ứiống thoát nước lố l”(6 1 ,T l,tii4 1 ) .
Sông H àng: nguyên dịch lừ tên g ọ i “G a n ga”. Đ ó là con sôn g
th iêng, là hình ảnh tượng trưng của nữ thần G an g a - con gái
H y m a la ya - là vị Ihẩn bảo h ộ, là M ẹ v ĩ đại của Ấn Đ ộ . T h eo truyền
Ihuyốl dân gian  n Đ ộ , đổ cứu nạn hạn hán khô cằn dưới Irẩn gian,
thần hu ỷ diệt Siva đã k éo m ột dòng của sông H àn g kiCu hãnh lừ trôn
trời cao ch o chảy uốn é o qua đầu tóc m ình hàng n gàn năm rồi m ới
ch o d ổ xuống trần thế qua 7 nguồn lừ sườn phía Đ ô n g H ym a la y a .
C òn hai d òng khác của sồn g H ằng là sô n g N gân H à (trên Irời) và m ội
d òng dưới địa ngục.
Sông H ằng rất gần sôn g Ấn nơi phát ngu yên, nhưng khi đổ ra
vịnh Bengan phía Đ ổn g Ấn thì cách xa nhau tới hơn 2 .0 0 0 km . Dài
hơn 3 .000 km (cùng với c ác nhánh con uốn khúc chằng ch ịt), sông
H ằng là m ột trong 5 sông c ó lưu lượng nước lớn n h ấl th ế giớ i, cung
cấp nước cho cả m ột vùng châu thổ rộng hơn 2 triệu km vuông.
Bên bờ sông H ằng có thành cổ B ena res là nơi hành hương linh
thiêng của nhân dân Ấ n Đ ộ . H àng năm , h àng n gàn, hàng vạn người
lũ lượt chen nhau lặn lộ i k éo lên nơi ihượng n g u ồ n sô ng H à n g , đến
Benarcs dâng hương dù chỉ m ột lần trong đời, tắm gộ i lẩy trần, ỉấy
nước thánh ở Thánh ỉễ “A sva m eđ Y ajna” và điều cầu m on g hạnh
phúc nhất của m ỗi người là được ch ố i bên bờ sôn g H àn g h oặc ÍI ra
cũng phải dưựe gửi Lro xác x u ốn g d ò n g sô n g M ẹ linh ih iên g thì m ới
là loại nguyện.
1.2.3. VCintz cao nguyên Đ ê c ă n g : là v ù n g đất phía N am  n , có
hình lam giác và là vùng đ ấl c ổ nhất củ a bán đ ảo Ấ n Đ ộ , chiếm 1/2
diện tích và dân số Ấ n Đ ộ . Đ ất đai vốn cằn c ỏ i n g h èo nàn nên nền
kinh tế và văn hoá nưi đ ây nói ch u n g lạc h ậu, k ém phát triển, íl xáo
13
trộn hơn nhiều so với vùng B ắc Ấ n . C ó thể v í vùng này như nhà bảo
tàng g ìn g iữ nền văn hoá n g u y ên sơ với những tập lụ c c ổ hủ xa xưa
nhấl của ấn Đ ộ . N ơi đ ây hiện vẫn c ò n tồn tại những bộ lạc gẩn như
n g uyên thuỷ với những thổ ngữ cổ. Đ iều n ày có thể g iả i thích bửi vị
trí đ ịa lý tự nhicn của vùng đất này: nó được n găn cách b iệ t lạp với
xung quanh và tránh m ọi sự xâm nhập của th ế giới bên n goài bởi ba
bề là núi cao: dãy V in đ h ya chạy ngang qua án n gữ phia Bắc và hai
dãy núi Gát Đ ỏ n g và Gát T ây ch ạy d ọc v en b iển phía N a m , viền bao
quanh tiểu lụ c địa n ày như hình chữ V (G át tiếng Phạn cổ c ó n ghĩa là
bậc thang). V ù n g đất này k h ông có g iá trị tự nhiên v ề nông nghiệp ,
son g đưới lòng đất nó lại chứa những khoán g sản q u ý với trữ lượn g
lớn như: sắt, ihan đ á Bên cạnh đ ó lại có nhữn g loài thú quý h iếm
có giá trị kinh tế ca o như: v oi, hổ, tê g iá c
V ề khí hậu: Bởi Ấ n Đ ộ có địa hình rộng lớn và đa d ạng trải dài từ
vùng nhiệt đới tới tận vùng ôn đới, nghĩa là từ g ần xích đạo tới lân
vùng trung tâm lạnh lẽo của châu Á , nên nhìn chung thiên n hiên và
k h í hậu nơi đây khá phức lạp và k h ắ c nghiệt. Phần lớn k h í hậu Ấ n Đ ộ
là nhiệt đới g ió m ùa tuy giữ a các vùng c ó sự k h ác nhau rõ rệt: khí hậu
ôn đới phía B ắc, khí hậu nhiệt đới ở phía N a m và k h í hâu đại dưưng ử
phía Đ ô n g và T ây Ấn Đ ộ . v ề đại thể kh í hâu Ấ n Đ ộ cũ ng có bốn
m ùa xuân, hạ, thu, đông, nhưng nhân dân  n Đ ộ vẫn quen với hai
m ùa khô và m ùa mưa: m ù a hanh k h ô (từ cu ố i tháng 8 đến h ết Iháng
1 2 ), có n h iệt độ trung bình k h oảng 2 0 đ ộ do khôn g k h í khò lạnh lục
t / ^ , A/ '
,
địa lừ phía băc thói x u ố n g A n Đ ộ đ ư ọ c dãy H ym a la y a chc chăn bớt.
M ùa mưa kcm nắng n ó n g như thiêu như đốt, hay có bão cát rang
cháy cả c ỏ cây và con n gười. Thời liế t n à y ch iếm phần lớn thời gian
trong năm . n hiệt đ ộ Uong bón g râm n h iều khi lên tới 45 - 50 độ c.
Thời gian này cũ ng thường c ó những đợt m ư a lớn dữ dội k c o dài g â y
lũ lụt nặng nề.
14
N hư vậy là trong cùng m ột ihời gian , trên cù n g m ộ i lụ c địa, nơi
quanh nám bãng giá lạnh lẽo tuyết phủ, nơi khô khát hạn hán, nưi lù
lụl dẩm dề và cũng c ó nơi ư ời cao xanh trong, m ál m ẻ, thư ih ái, hiền
h o à . Đ ó chính là sự khác biệt đối nghịch lớn thường x u y ê n về khí hậu
m à thiên rihiên đặc b iệ l ban lặng cho vùng đất này. Từ n gàn xưa, con
người nơi đ â y đã từng phải đấu tranh rất g a y g o và g ia n kh ổ ch ố n g
chọi với thiên nhiên đổ tồn tại. Có lẽ chính điều ấy đã làm con người
ihOm sức ch ịu đựng bền bỉ, d ẻo dai, nhẫn nại và qu y ết liột song
k h ôn g kém lạc quan yêu đời trước những thử thách gh ê gớm củ a Ihiên
nhiên khắc nghiệt. Tất cả hẳn đã đổ lại dấu ấn sâu sắc trong cá c Irang
thẩn thoai, các bản anh hùng ca Ấ n cổ oanh liệt hào hùng và đầy chất
trữ lình vô cùng hấp dẫn với “sức sốn g và sự khẳn g định c u ộ c số n g
thổ hiện tràn ngập trong đ ó thật là kỳ lạ”(6 1 ,T l,tr l5 5 ).
1.3. Chủng tộc, ngôn ngữ, chữ viết.
V ào quãng những năm 3.0 0 0 trước C ôn g n gu y ê n , trên lưu vực
sôn g Inđ của lục địa  n Đ ộ đã có giố n g người thuộc chủ n g tộc
Sum erian và Đ raviđian sinh số ng (h ọ có vó c người n h ỏ, da đen - nũu,
ló c xoãn đen, m ặl nhỏ). T h eo sử liệu khảo cổ thì họ chính là chủ nhân
của nền văn m inh Ấn cổ M ôh en jô Đ arô và H arappa.
K hoảng năm 1.600 - 1.700 năm trước C ông n g uyên có m ột cu ộ c
thiên di lớn của g iốn g người A rian là dân du m ục lừ đ ồ n g cỏ Trung
Á , vùng núi C apca, tràn qua v ù n g A fga n istan và Iran n g ày nay ch ia
làm ba nhánh, m ột nhánh vượt qua c á c hẻm núi h iổm trử củ a dãy
H ym alaya m à vào Ấ n Đ ộ , m ột nhánh x ụ ốn g vùng thượng lưu sôn g
M ôz.ôpôlami và m ột nhánh x u ống vù n g Iran bây giờ . Tron g sá ch cổ,
tiếng Phạn gọi người A ryan là “người lừ phư ơng xa đếrì” và còn g ọ i là
“varvara” nghĩa là: kẻ Lhù, quân xâm lược.
15
G iố n g người Aryan (mà Ă n gghcn gọi là “dân du m ụ c liền liến ”)
da sáng, m át xanh, m ũi lliẳng, lóc ho c vàng, v ó c cao lớn đã xâm nlụip
và đ ổ n g hoá cư dân bản địa (gọi là tiền A ry an) định cư ử vù ng đ ồn g
bằn g ấn H àng màu m ỡ và dẩy lùi m ộl phần lớn số dân bản đ ịa xu ố n g
phía N am Ấ n. (N g à y nay dân cư N am Ấn còn lưu g iữ khá n hiều net
đ iển hình củ a giố n g người Đraviđian).
(Q uá trình người A ryan xâm nhập, đ ồn g hoá và định cư Irên đấl
Ấ n Đ ộ là quá trình hình thành nền văn h ọ c Ấ n Đ ộ c ổ đại cũng như
ngồn ngữ Ấn Đ ộ rất phức tạp và phong phú.)
T iếp sau sự xâm nhập A n Đ ộ của người A ryan là người Batư (Iran
cổ đại) vào khoản g th ế kỷ 6 trước C ôn g nguycn . N ă m 327 trước
C ồn g nguyên, A lê ch x ăng Đại đ ế là vua xứ M akêđo an nước H y lạp
đánh chiếm Ấ n Đ ô sau khi ch inh phục đ ế q u ố c Baiư. Đ ến th ế kỷ 6
sau C ồng nguycn , các bộ tộc H ung n ô E p lalit (còn g ọ i là ngưừi H ung
trắng) từ Trung Á - Iran tràn xuống xâm lược vùng Ấ n Đ ộ . Đ ến thế
kỷ 11, các bộ tộc H ồ i g iáo gồm các bộ tộc người Ảrập, c á c bộ lộ c
T h ổ và A p h -gan đã có nhiều đợt xâm nhập Ấ n Đ ộ . Đ ặ c b iệt ỉà vương
triều H ồi giáo Đ êli (cuối th ế k ỷ 13) đã trụ lại Ấ n Đ ộ lâu dài với 33
q u ốc vương (su ltan). Đ ó là thời kỳ đạo H ồi du nhập vào Ấ n Đ ộ và có
sự hỗn dung giữa văn h oá H ồ i g iáo và vãn h oá H inđu bản địa.
N ăm 139 8, cá c tộc M ô n g cổ tràn vào Ân Đ ộ m à m ử đầu là thủ
lĩnh T im ulcn g và sau đó là B aber cù n g nhữn g người k ế lụ c của ô n g ta
đã lập nôn đ ế q u ốc M ôgôl (trong s ố đó c ó vua Shall - Jahan, chủ nhân
của lâu đài - nhà m ồ Taj M ahal nổi tiến g bởi kiên trúc của n ó và câu
chuyện tình lãn g m ạn). T ừ thế kỷ 15 , bắt đầu sự xâm nhập Ấ n Đ ộ
của phương T ây như B ồ Đ à o N ha, H à lan, A n h, Pháp. Cuối c ù ng chỉ
còn A nh thắng th ế trụ lại và lạp ách thố ng trị đ ô h ộ Ấ n Đ ộ ch o đốn
16
nãm 1 9 4 7, Ấ n Đ ộ giành độc lập và từ đây thực sự kết thúc quá trình
xâm nhập của ngoại bang.
N hư vây là sau m ột thời gian dài hoàn toàn b iệt lập với xung
quan h, Â n Đ ộ đã liên tục liếp nhận sự xâm nhập ồ ạt từ bên n goài
(m à đa phần là những cu ộc xâm lược). Đ ó cũng ch ính là quá trình
pha Irộn đ ồng hóa, g iao lưu v ề kinh tế, văn h o á , xã hội vô c ù n g đa
dạng và phứ c tạp. Đ iều này m ang lại sự phong phú đ ộ c d áo ch o nền
văn hóa Ấ n Đ ộ truyền Ihống vốn giàu bản sắ c dân tộ c. Chính J. Nêru
cũn g phải thốt lên: “Thật lạ lùng khi n g h ĩ rằng Ấ n Đ ộ với hệ thống
đẳn g cấp và tính đặc q u yền của nó lại có tiềm năng kỳ lạ thu hút
những chủng tộc và n ền văn m inh nước n goài. C ó lẽ nhờ thê' m à nó
duy trì được sức sống củ a m ình và từng thời k ỳ lại lự trỏ hoá
m ình .”(61 ,T1 ,trl 44).
N hìn ch u ng v ề đại thể, dân tộc Ấ n Đ ộ được hình thành và tạm ổn
định lừ khoản g ih ế kỷ 15 Irước C ông n g u y ên , còn sự pha trộn sau này
về chủn g tộc là không đáng kể. Sự phức tạp về chủng tộc  n Đ ộ đã
dẫn đến sự phức lạp và v ô cùng phong phú về ngồ n ngữ trên vùn g đấl
này. A n Đ ộ là m ộ t trong s ố ít q u ốc gia trên th ế giới c ó nhiều ngôn
ngữ c ù n g tồn tại. T h eo số liệu Ihống k ê không đ ầ y đủ, tại Ấ n Đ ộ có
tới 1 .6 5 0 ngôn ngữ và thổ n gữ đang được sử d ụng, lại c ó tới k hoản g
60 thổ n g ữ chỉ có gần 100 người sử dụng. Đ ó là chưa k ể những ngôn
ngữ đã chết. Trên tờ g iấy 10 đồng R upi h iện nay c ó ghi tới 12 ngôn
ngữ khác nhau. Sơ qua như vậy đ ể ih ấy n g ô n ngữ ử Ấ n Đ ộ phức lạp
đốn như ờ ng nào. T ừ th ế kỷ 10 hệ thống n gôn n gữ Ấ n Đ ộ tạm ổn đ ịnh.
H iện n ay nhà nước Ấ n Đ ộ c ô n g nhận chính Ihức 15 n gồn n gữ và
chúng đang được đông đ ảo nhân dân  n Đ ộ sử d ụ n g, d ó là: H ind i,
A sam ain, B engali, Guljarati, K anara, K asm iri, M arati, M a laiam ,
£>AI HCC c u ố c GIA HA MỌI
TRUNGĨÂMTHÕNGTĨN THƯVĨN
17
ô r ig a , P enjabi, Sau skil, Sinđhi, Tam un, T elugu, Urdu. 15 ngôn ngữ
này đểu có n guồn g ố c từ tiến g Sanskrit cổ (cò n gọ i là tiếng Phạn).
T iếng Phạn là ngôn ngữ c ổ nhất của Ấ n Đ ộ c ó n g u ồ n g ố c lừ ngừ
1 a ’ ä ' »
hô A n - A u , có nhiều liên quan với cá c n g ôn ngữ ở Batư và Trung cận
Đ ồ n g . T iế n g Phạn đ ược dùng nhiều trong các sách kinh c ổ , trong các
buổi tố lỗ xa xưa và được coi là n gồn ngữ M ẹ, ngổn ngữ củ a llián
linh. Đ ỏ là “m ột n g ô n ngữ phong phú lạ lùn g, như m ang đủ hoa rực
rỡ, đủ các thứ lá xum xu ê, thế nhưng n ó chính xác và n g h iêm ngặt
nằm trong các khung ngữ pháp m à Panini đã đặt ra cách đ ây 2 .6 0 0
n ă m T iếng Phạn đầy những lừ k h ông chỉ c ó cái đẹp thơ m ộng m à
còn có ý n ghĩa sâu sắc, m ột loạt những ỷ n iệm liên kết m à không thổ
dịch ra liến g nước ngoài đúng tinh Ihần và cách nhìn. T hậm ch í ngữ
pháp của nó, tính triết h ọc của n ó c ó m ột nội dung m ang tính thơ
m ạn h m ẽ N ó thuộc về hình thức thơ c a ” .(61 ,T l,tr 3 5 9 ).
Từ năm 1965, tiếng H inđi được H iến pháp Ấ n Đ ộ qu y đ ịnh là
q u ốc ngừ (có khoản g 140 Iriộu người sử dụn g). C ùng với tiến g A nh,
H inđi là Ihứ tiếng Irên thực tế được dùng rộng rãi và phổ biến khắp
Ấ n Đ ộ .
Sự phức lạp và đa dạng về ngôn n gữ tấl sẽ dẫn đ ến sự phong phú
về bản sắc văn hóa giữa các dân tộc ở Ấn Đ ộ. M ặt khác, từ đ ó cũng
sẽ n ảy sin h những khó khăn về giao lưu kinh tế, vãn h oá m à ch ính
phủ Â n Đ ộ đang c ố gắng kh ắc phục dần.
V ề chữ viết, các nhà khảo cổ dã phát hiện thấy trên các di vật
bằn g đất nung tìm đưực ử nền văn m inh A n cổ c ó dấu ấn của nét chữ
lượng hình (m à đốn n ay chưa được giải m ã h ếl) và c o i đ ó là thứ chữ
cổ n hấl m à nhân loại được bict den (Ih eo c ô n g bố của tiến s ĩ R ichars
M cadav - Đ ại h ọ c H avard, giám d ốc Trung tâm n gh iên cứu k h ảo c ổ
H arappa). C ó hai loại chữ viết cù ng m ột hệ th ống ngữ pháp: K harôsli
18
và Brahm i. Chữ K harôsti chịu ảnh hưởng chữ v iết Ảrập: viết từ phải
san g trái, gồm 2 52 k ý hiôu (chữ Ur idu v iết Lheo kiổu ch ữ này). Chữ
Brahm i được co i là chữ của thẩn Brahm a, v iết từ trái sa n g phải (là
k iểu chữ của H inđi và đa s ố các loại chữ k hác ở Ấ n Đ ộ).
1.4. Đẳng cấp, tôn giáo.
C h ế đ ộ đảng cấp và lồn g iáo với nhữ ng luật lệ tập tục lạ c hâu dã
m an (hiện vẫn còn tồn tại íl n hiều tại c á c vùng h ẻo lánh xa xôi phía
N am Ấ n ) là những nét nổi bật và gâ y ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc
nhất lới đời sống văn hoá xã hội Ấ n Đ ộ .
Chê' đ ộ đẳng cấp ở Ấn Đ ộ bắl đầu hình thành lừ khi người A ryan
1 ? *
xâm nhập và định cư trên bán đ ảo A n Đ ộ . Sự phân chia đ ẳ n g cấp lúc
nguyên sơ ban đầu chỉ đơn giản ỉà sự phân biệl m àu da (giữa ngư ời
A ryan da trắng và người dân g ố c bản đ ịa Đ raviđian da đ cn). C h ính vì
vậy m à n g u y ên n g h ĩa g ố c ban đầu của đẳng cấp là “m àu d a ” dịch lừ
tiếng Phạn cổ là: V a m a, về sau “đẳng cấp ” m ới có n ghĩa như chúng
la vẫn hiểu và lất nhiên “trong bối cảnh xã hội ngày nay c h ế độ đ ẳng
cấp và phần lớn những cái k èm theo n ó là hoàn toàn k h ông phù hựp,
là phản đ ộ n g, là kìm hãm , là những hàng là o ngăn cản sự tiến b ộ ” .
(6 1 ,T 2,tr80).
Từ sự phân b iệl m àu da ban dầu, xã hội Ấ n Đ ộ cổ đại dẩn phíìn
chia thành 4 đẳng cấp chính:
Brahm an (còn g ọ i là B à lam ôn).
C ơsat-ria.
V a isia. *
Sụđra.
- Brahman: lúc đầu chỉ là m ột n hóm người chăm lo v iệ c cúng tế,
Irông nom đền chùa, sau mứi phát triổn lliành m ộl d ẳng cấp c ó q u y ền
19
hành c a o nhất và được hưởng nhiều quyền lợi nhất Lrong xã h ội. H ọ là
nhừ ng ngưừi nắm giữ đời sốn g linh ihần trong c á c làn g x ã , g ồ m
nhữ n g tu sĩ, giá o chủ, lăng lữ, đ ạo sĩ, những nhà tư tưửng hướng dẫn
chính sách, bảo vê và duy trì những lý tưởng của đân tộc.
- Cơsat-ria: là vua quan, quân lính, võ sĩ.
- V aisia: ch iếm đa phẩn trong xã hội, g ồ m những dân cày , thợ thủ
cô n g, thương nhân.
- Suđra: là thành phần tiện dân, tôi tớ chuyên phục vụ người khác,
làm những viộc k h ông có kỹ thuật hay những nghề như: đ ào huyệt,
q u él rác
G iữa bốn đẳng cấp lại c ó sự phân biệt khắt k h e, đặc biệt là giữa
ba đẳng cấp trên với đẳng cấp cuối cùn g, nhấl là trong quan hệ giao
tiếp, h ôn nhân, ăn u ố ng
N goà i bốn đẳng cấp Irên cò n có hai loại người ih u ộ c d iện n goài
đẳn g cấp là Paria (người cù n g khổ, cùng đinh, ăn xin ) và H arijan (co n
h oang, sinh ra từ những cuộ c hôn nhân trái luật lệ ). Cả hai loại này
liến g Phạn g ọ i là “chanđala - nghĩa là: n g oài đẳng cấp, bị xã hội
khinh rẻ cách biệt.
Song dù sao, “và o thời kỳ m à theo lệ thường, những người di
chinh p hục tiêu d iệt h oặc bắt làm nô lệ nhữ ng chủng lộ c bị chinh
phục, thì đẳn g cấp vẫn là m ột giải pháp hoà bình phù hợp với sự phái
triển của v iệc chuyên m ôn hoá các chức năng, là m ộ t sự h ợp lý hoá
những thực tế tồn tại lúc đ ó ” .(6 1 ,T l,liT 7 2 ).
T h eo thời gian và trong quá trình phát triển của xã hội, hệ thống
đẳng cấp ngày càn g trử nôn xấu xa, đán g n guyền rủa với nhữ ng
n g u y ê n lắc v ô cù ng n g h iệt ngã m à m ỏi người dân Ấ n Đ ộ có bổn
phận và n g h ĩa vHphải tuân iheo . Tẩng lớp thống trị ử Ấ n Đ ộ đã dùng
n h iều biện pháp để d uy trì sự bền vững và triệt đ ể lợi d ụ n g hệ Ihống
đẳng cấp hòn g x o a dịu, ru ngủ quần ch ú n g. T rong lịc h sử ấn Đ ộ dã
20
lừng c ó n h iều p hong trào cải cách tiến bộ nhằm lẩy ch a y c h ế độ đ ảng
cấp . L uâl pháp Ấ n Đ ộ lừ lâu cũng đã côn g b ố hu ỷ bỏ c h ế đ ộ đ ẳng cấp
nặng n ề , so n g thực tế d iệt Irừ tận g ố c những quan n iộm lề thói c ổ hủ
là m ột côn g việ c vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài.
C ù ng với hệ ihống đắng cấp, lôn giáo A n Đ ộ cũng luôn đ ỏ n g vai
trò quan trọng trong m ọi hoạt đ ộng đời sống văn hoá, x ã h ộ i, cộng
đ ồ n g Ấ n Đ ộ , ch i phối hết Ihảy tới cuộc sống tâm linh của lừng cá
nhân co n ngư ờ i, tới những lư iưửng chính trị, nghi lễ, phong lục, quan
n iệ m triết học, văn hoá , ngh ệ th u ật
C ó thể nói Ấ n Đ ộ là xứ sở của các tôn g iá o . Tôn g iáo Ấ n Đ ộ rất
đa dạng và phức lạp, bao gồ m cả trong đó nhữ ng g iáo lý , nhừ n g quan
n iệ m , những phạm trù, những tư tưởng trường phái triết h ọ c Từ
những tôn g iáo có đông tín đổ như đạo H indu, đ ạo Phật, đ ến nhữn g
tôn g iá o có ảnh hưởng hẹp hơn như đạo Jaina, đạo Sikh, đ ạo H ổi, đ ạo
Cơ đ ố c tất cả đều khoan dung và cùng “ch u n g số n g hoà bìn h ” dưới
m ái nhà ch ung Ấn Đ ộ trong SUỐI quá trình hỗn dung uydn ch u y ổn
đ ổ n g h oá lẫn nhau. Bởi lẽ, luy m ỗi lôn giá o đều m ang sắ c thái biổu
hiện cũng như những tôn chỉ học thuyết khác nhau, so n g giữa chúng
đ ều nổi bật lên m ột cốt lõi chung, m ột tiếng n ói ch u ng, dưa đến sự
thống nhất - m ột sự Ihống nhấl trong đa d ạng. C hính đặc đ iểm này là
m ột trong những y ếu tố cơ bản hun đúc n ên m ộ t lâm h ồn Ấ n Đ ộ , m ộl
tinh thẩn Ấ n Đ ộ truyền Ihống, m ang bản sắ c riêng biệt.
N hìn chung, tôn g iá o Ấ n Đ ộ cũng thấm dẫm m ột tư tưởng cư bản
m an g ý n g h ĩa tích cự c, đặc biệt về d ạo đức, lối sống con ngườ i. Đ ỏ là
tình thương yêu đ ổn g loại, là tư tưởng h oà bình, hoà hợp, bình đản g,
bác ái, là chữ T H IỆN viết hoa. C hính điều này là c ộ i rễ, là nền tảng
c ơ bản hun đ ú c nên “linh thần Ấn Đ ộ ”, “bản sắ c Ấ n Đ ộ ” . Bản sắc ấy
m ãi Loả sáng như năm n g u y cn tắc chung số n g h oà bình “ panch si la”
21
nổi liế n g của phon g Irào không liên k ế l d o c ố ihủ iướng G . N ôru sán g
lập (1 9 5 4 ).
H àng m ấy ngàn năm qua, lôn giá o  n Đ ộ đã lổn tại và trỏ lliành
m ột thứ không thể thiếu như hơi thử, nước u ống trong đừi số n g lùm
linh con người Ấ n Đ ộ. N ó đã được nâng lên thành đức tin thiêng
liông thấm sâu trong m áu thịt của hơn 1 tỉ người dân  n Đ ộ . S ong
đ iề u m à không ai có thể phủ nhận là: Lồn g iá o Ấ n Đ ộ lại như m ột
chấl thuốc giảm đau, như liều thuốc an thần, như m ột thứ thuốc mô
đối với người đờ i. M ác cũn g đã gọi đó là m ột thứ Ihuốc p hiện . N ó an
ủi, x oa dịu nỗi đau trần th ế bàng đạo lý Đ h a cm a, n ó độn g v iên , k hích
lô con người vượt qua m ọi é o lc, khổ hạnh Irong c u ộ c sốn g bàng quan
niệm ngh iộp báo - luân hồi, nó m ang lại cho con ngư ời n iềm tin
tưởng, hy vọn g ở kiếp sau bằng khái niệm giải Ihoát vĩnh hàng.
N hững g iá o lý những quan niệm ấy iheo thời gian đã dần Lạo nên bản
chất cam chịu, chấp nhận, nhân nhụ c, không đấu tranh, thái đ ộ thụ
đ ộn g , lầm lì, phục tùng và qụy lụ y ở co n ngư ờ i. Đ ó cũng ch ín h là m ột
yếu Lố cơ bản trong quá trình hình thành bản chấl, tính cá ch dân tộc
Ấn Đ ộ nó i ch u n g và phụ nữ Ấ n Đ ộ nói riêng
22
Chương 2: Khái quát nền văn hoá Ân Độ
truyền thống.
Hẳn ai cũng hiểu rằng văn h oá là m ột phạm Irù rất rộng. V ăn hoá
là tất cả những gì do con người tạo ra, là lự n h iên thứ hai lừ tự nhiên
nhằm phục vụ con ngư ờ i, là toàn bộ những thành lựu m à con người
sán g lạo nên do trí lực, khả năng con ngư ời. V ăn h oá là “ man m a d e”
- đ ó là định nghĩa cồ đọn g và ngắn nhất của G iáo sư Trần Q uốc
V ượng về văn hoá.
C ó xã hội con người là c ó văn hoá. M ột Irong những biểu h iện cụ
thổ của văn h oá là văn h ọc, và đó cũng ch ính là điều quan lâm chủ
y ế u của đề tài.
Lịch sử Ấ n Đ ộ được tính từ thiên n iên kỷ 3 trước C ông n g u yên,
là thời kỳ của nền văn m inh sông Ấn và ch ính n gay từ thời k ỳ này,
các Ihần Ihoại và truyền Ihuyếl dần hình thành và là cơ sở nền m óng
đầu tiên của n ền văn h ọc Ấ n Đ ộ phong phú và đồ sộ.
Đ ã từ ỉâu Ân Đ ộ đư ợc m ện h danh ỉà sứ sở của m uôn điều kỳ
diệu , là “đất nước của sự trái n g ư ợc”(61,T 3,tr 2 0 0 ), là q u ê hương của
thẩn thoại, truyền thuyết, c ổ tíc h T ruyền thống văn h ọc m ang lính
thẩn ca phát triển liên tục đ ến tận thế k ỷ 17 - 18 (khi thực dân A nh
xâm lược Ấ n Đ ộ ), trong đ ó truyền Ihống truyền m iện g đ ó n g vai trò
quan trọng n gay cả khi đã có chữ v iết (khoảng thế kỷ 5 trước C ông
n g u yên). K hác với đa s ố các nước phương T ây: khi triết học xu ất h iện
và phái triển, thẩn loại bị d ẩy lùi xuốn g hàn g thứ yếu thì ử Ấ n Đ ộ ,
thần th oại'vẫn phát Iriển so n g son g với triết h ọc và cả hai h ỗ ư ợ nhau
cùn g phát triển.
 n Đ ộ rộng lớn đa dân tộc, đa ngồn n gữ. Bửi vậy, vãn h ọ c Ấ n Đ ộ
là lổ n g hợp các n ền văn h ục đ ịa phương, được th ố n g nhất lừ m ộ t cái
23
n én m ó n g cơ sở chung ban đầu là k ho làng Lhần thoại đ ặc sác và trên
hết là “m ột tinh Ihần Ấ n Đ ộ ”, “m ột lâm h ổn  n Đ ộ ” (như dã n ói đốn
ở ch ưưng 1 của đề tài), và đ iều đó đư ợc in dấu khá rõ n él và sâu đâm
Irong hẩu h ếl các tác phấm văn họ c An Đ ộ .
T heo quá trình phát triổn lịch sử Ấ n Đ ộ , văn h ọc Ấ n Đ ồ lạm chia
hai Lhời kỳ lớn với nội d ung và đặc đidm khác nhau m à cái m ố c giữa
là sự xâm nhâp của thực dân A nh. Ở thời kỳ đầu , nền văn h ọ c Ấ n Đ ộ
cổ trung đại m ang tính thần ca, nghĩa là cá c nhân vật Irong c ác tác
phẩm đều là thần hoặc bán thẩn. T ác phẩm nổi bật đáng lưu ý là bộ
K inh Vêđ a (nhất là bộ R ig V êđa), hai bản trường ca - sử thi
M ahabharata và R am ayana và kịch thơ Sơkuntơla của K aliđasa.
R ig V êđ a là “ những thổ lộ đầu tiên của trí ó c con n gười, sự rực
rỡ của thơ ca, sự sa y m ê trước vẻ đẹp và tính h u y ền bí củ a ihiên
n h iên Từ đây, A n Đ ộ băl đâu m ộ t c u ộ c tìm k iếm m à nó ch ưa bao
g iờ ngừng theo đ u ổi”.(6 1 ,T l,liT 5 7 ). T ác phẩm R ig V ê đ a đ ổy sức
sống và sự khẳng định c u ộc sống ấy là đặc trưng cho “m ộ i dân tộc
với sức sáng tạo m ạnh m ẽ và chất phác ở n g a y buổi bình m inh của
nền văn m inh đã có được ý thức lý giải cá c bí ẩn vô tận ẩn tàng trong
c u ộ c số n g ” (6 1 ,T l,tiT 5 8 ).
K inh V êđa (n ghĩa tiến g Phạn là: h iểu b iế l) ra đời k h o ả n g nửa sau
thiên n iên k ỷ 2 trước C ôn g ngu y ên và về sau được gh i lại bằng tiên g
Phan cổ, gồm 4 bộ:
R ig V ê đ a.
Iajur V êđa.
Sôm a V êđa.
A t harva V êđa.
C ó Ihể nói K inh V êđa là khởi đẩu của m ọi quan niệm về vũ trụ,
của m ọi h ệ Ihống tư tưởng triết h ọc (gồm 6 ư ường phái) và tôn g iáo
Ấ n Đ ộ . Bao gồm trong 1028 sukta (bài Ihư), lập 1 R ig V êd a đã phản
24
ánh “thời đại ấu trĩ m ột đi không trở lại củ a xã hội loài ngư ừi”(C.
M ác) với những khát vọng chinh phục và h oà đổn g với thiên n h iên.
Đ ó là cả m ộ i thế giới thần linh k ỳ ảo đ ầy hấp dẫn bửi trí tưởng tưựng
vô cùng sinh độn g , p h ong phú và đầy sức sộng m ãnh liệt cú a dân lộc
Ấ n Đ ộ .
N ộ i dung Ihẩn thoại ấy bao trùm loàn bộ n ền vãn h ọc Ấ n Đ ộ cổ
đại m à nổi bạt ở thời kỳ này là hai bộ Iníờng ca - sử thi nổi liổn g
M ahabharata và R am ayana và vở kịch thơ S ơkunlơ la củ a K al^đ asa.
T ấ l cả đã xứng đáng góp phần làm nên bộ đại bách k h oa loàn thư về
những quan niệm , lư duy trong đời sốn g chính trị, văn hoá, xã h ội của
Ấ n Đ ộ cổ đại. (C húng tôi xin phép được đ ề cập trở lại k ỹ hơn ỏ phần
sau).
Sang đến Ihời k ỳ sau với những biến động lịch sử lớn lao, nền văn
h ọ c Ấ n Đ ộ m ất dần tính thẩn ca và thay vào đó là tính hiện ihực rõ
rôt. D ùng thẩn thoại làm đề tài và phương tiên m iêu lả, hầu hết cá c
tác phẩm văn học thời k ỳ này đều tập trung phản ánh thực tại: phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào ch ốn g tàn dư lạc hậu cũ
củ a tôn g iá o , đảng cấp, h ôn n h ân trong c ô n g cu ộ c xây d ự ng c u ộc
sống m ới.
N ổi bạt thời kỳ này có “G ồ đ an ” (con bò tế thẩn) của p . Trânđơ,
có nhà Ihơ - giải thưởng N ôben (19 1 3 ) R . Tagor, c ó nhà v iế l tiổu
thuyết Iasơpal với bộ tiểu thu yết 2 tạp “Sự thật giả d ố i” L u ôn giữ
gìn và phát huy giá trị truyền thống dân tộ c, họ đ ều là nhữ ng nhà văn
từ nhân dân, của nhân dân, là gạch nôi giữa quá khứ và c u ộ c sống
h iện thực đ ầy cam g o phức lạp củ a nhân dân A n Đ ộ những năm đẩu
th ế kỷ 2 0 . (X in được nói kỹ hơn về những tác phẩm này ử phẩn thứ ba
của đề tài).
N goài ra, trong đời sốn g văn h oá Ấ n Đ ộ , c á c lĩnh vực k h ác như:
d ieu k h ấc, k iến Irúc, nghệ Ihuâl biểu d iễ n và đ ặc biệt là lễ hội cũ ng
25