VIỆN KHOA HỌC BẢO HIỂM XÃ HỘI
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
XÂY DỰNG QUI TRÌNH THAM GIA TỐ TỤNG
VÀ CHẾ TÀI XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ
VÀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
CNĐT : LÊ QUYẾT THẮNG
9451
HÀ NỘI – 2009
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án:
Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực từ
1/1/2007. Theo đó, đã quy định các hành vi vi phạm trong thực hiện chính
sách bảo hiểm xã hội (BHXH). Ngày 16/8/2007, Chính phủ ban hành Nghị
định số 135/2007/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực BHXH. Ngày 18/2/2008, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hộ
i, Bộ Tài
chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có Thông tư liên tịch
03/2008/TTLT-BLĐTBXH-BTC-NHNN hướng dẫn thủ tục buộc trích tiền từ
tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp tiền BHXH chưa đóng,
chậm đóng và tiền lãi phát sinh.
Như vậy, về lĩnh vực BHXH, chế tài xử lý vi phạm hành chính đã
tương đối đầy đủ, tuy nhiên quy định xử phạt vi phạm hành chính m
ức còn
thấp, chưa đủ sức răn đe, tính khả thi của biện pháp buộc trích tiền nộp chậm
và tiền lãi phát sinh không cao. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trốn tránh và nợ đọng BHXH tại các doanh nghiệp không giảm. Việc nợ đọng
BHXH với số tiền lớn đã gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động,
tới việc bảo toàn, tăng trưởng quỹ BHXH và th
ực hiện kế hoạch Nhà nước
giao.
BHXH một số địa phương sau khi kiểm tra, phát hiện các đơn vị nợ
đọng tiền BHXH đã tiến hành đốc thu, nhắc nhở, đề nghị các cơ quan có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng không có kết quả nên đã đứng đơn
khởi kiện các doanh nghiệp. Thực tế theo dõi tình hình tranh tụng trong thời
gian vừa qua cho thấy với tư cách nguyên đơn, Tổ ch
ức BHXH gặp nhiều
vướng mắc về xác định thời hiệu khởi kiện, xác định hình thức sở hữu của
quỹ bảo hiểm xã hội bị xâm hại… Đã có vụ kiện bị Toà án trả lại không thụ lý
với lý do hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của Bộ Luật Lao động.
2
Trong quá trình thực hiện chính sách BHXH, BHXH một số địa
phương thực hiện không đúng, bị các đơn vị sử dụng lao động, đối tượng
tham gia, hưởng chế độ BHXH khiếu nại, khởi kiện ra Toà. Với tư cách bị
đơn, Tổ chức BHXH một số địa phương tham gia tố tụng tại Toà còn gặp
vướng mắc trong việc thu thập tài liệu, hồ sơ, chứng cứ đảm bả
o tính pháp lý
để chứng minh và đã từng bị “thua kiện”. Bên cạnh đó, hiệu lực pháp luật của
các quyết định xử phạt hành chính và bản án chưa được đảm bảo thực hiện;
việc thi hành án gặp rất nhiều khó khăn.
Đối với lĩnh vực BHYT, các hành vi vi phạm pháp luật trong công tác
quản lý, sử dụng thẻ BHYT dẫn đến quỹ BHYT bị lạm dụng và quyền lợi của
người có th
ẻ BHYT bị ảnh hưởng. Đối tượng thực hiện hành vi vi phạm đa
dạng, không chỉ từ phía cơ sở khám chữa bệnh, tổ chức BHXH, người tham
gia BHYT mà còn từ phía những cá nhân, tổ chức khác. Mặc dù Luật BHYT
đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/7/2009, song hiện nay chúng ta
vẫn đang chờ các Nghị định hướng dẫn trong đó có hướng dẫn về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHYT.
Đối vớ
i bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), theo Luật BHXH, có hiệu lực từ
01/01/2009. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 127/2008/NĐ-CP
(12/12/2008) về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
BHXH về BHTN và Thông tư số 04/2009/TT-BLĐTBXH (21/01/2009) của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về hướng dẫn thực hiện một số điều
của Nghị định số
127/2008/NĐ-CP. Tuy nhiên, với những quy định của pháp
luật về BHTN và tình hình lao động, việc làm ở Việt Nam như hiện nay đã
cho thấy khả năng tiềm ẩn những vi phạm đối với việc thu, chi BHTN trong
tương lai.
Vì vậy, việc nghiên cứu và ứng dụng đề án: "Xây dựng quy trình tham
gia tố tụng và chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bả
o hiểm thất nghiệp" là cần thiết.
2.Mục tiêu của đề án:
3
Sau khi đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH,
BHYT và những dự báo về vi phạm pháp luật BHTN, xác định nguyên nhân
của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH, BHYT, mục tiêu
chính mà đề án hướng tới là nghiên cứu nhằm hoàn thiện chế tài xử phạt vi
phạm pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN và xây dựng quy trình tham gia
khởi kiện của Tổ chức BHXH đối với các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
BHXH, BHYT và BHTN. Đề án sau khi được nghiệm thu là m
ột tài liệu hữu
ích nhằm nâng cao nhận thức cho các cán bộ trong Ngành trong việc tiến
hành kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về lĩnh vực BHXH, BHYT,
BHTN; đồng thời trang bị những kiến thức cơ bản khi tham gia tố tụng tại
Toà án.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng vi phạm pháp luật và thực tiễn xử
lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH, BHYT đối với vi ph
ạm do các đối
tượng sau thực hiện:
+Người sử dụng lao động
+Cơ sở khám, chữa bệnh
+Tổ chức BHXH
+Người tham gia, người hưởng BHXH, BHYT, BHTN
+Các đối tượng khác
- Phạm vi nghiên cứu :
Đề án được triển khai nghiên cứu có hệ thống các vấn đề liên quan đến
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH, BHYT từ năm 2004 đến năm 2008
và dự báo vi phạm về BHTN trên cơ sở pháp luậ
t về BHXH, BHYT và
BHTN; pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, pháp luật tố tụng và một số
luật khác.
Tuy nhiên, do trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án
về tranh chấp dân sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự và chế tài
xử phạt vi phạm pháp luật về BHXH được quy định tại Nghị định số
4
135/2007/NĐ-CP (16/8/2007) của Chính phủ nên trong phạm vi nghiên cứu,
đề án tập trung chủ yếu vào giải pháp nhằm hoàn thiện chế tài xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH, kiến nghị về chế tài xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BHYT và BHTN; đồng thời xây dựng quy trình
tham gia tố tụng các vụ án về tranh chấp dân sự trong lĩnh vực BHXH,
BHYT, BHTN, trong đó tập trung chủ yếu vào việc xác lập hồ sơ, tài liệu,
chứ
ng cứ để tiến hành khởi kiện đối với một số hành vi vi phạm về lĩnh vực
BHXH.
4.Phương pháp nghiên cứu:
Đề án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để làm sáng tỏ các vấn đề cần
nghiên cứu trong mối liên hệ giữa pháp luật và vi phạm pháp luật trong lĩnh
v
ực này.
Ngoài ra, để đạt được mục đích nghiên cứu, đề án còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu truyền thống như:
+Khảo sát thực tế (tại 4 địa phương)
+Hồi cứu số liệu
+Tổng hợp, phân tích
5. Nội dung nghiên cứu:
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, chữ viết tắt,
phụ lục đính kèm, đề án được kết cấu gồ
m 3 chương như sau:
Chương I: Một số vấn đề chung về vi phạm pháp luật, chế tài xử phạt
vi phạm hành chính và trình tự, thủ tục khởi kiện
Chương II: Thực trạng hành vi vi phạm pháp luật và xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN ở Việt Nam
Chương III: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế tài xử
phạt VPPL và xây dựng trình tự, thủ tục khởi kiện
để Toà án giải quyết các vụ
án trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN
5
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT, CHẾ TÀI XỬ
PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC KHỞI KIỆN
1.1. Một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật
1.1.1. Khái niệm, phân loại vi phạm pháp luật
1.1.1.1. Định nghĩa vi phạm hành chính
Vi phạm pháp luật là loại vi phạm xảy ra khá phổ biến trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó vi phạm hành chính và vi phạm ở mức
độ bị coi là tội phạm là những loại vi phạm chủ yếu và cần phải điều ch
ỉnh
bằng những chế tài xử phạt từ thấp đến cao. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã
hội của vi phạm hành chính thấp hơn so với tội phạm nhưng vi phạm hành
chính cũng là hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể
cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm t
ội nảy sinh trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội nếu như không được ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Tiếp cận từ định nghĩa vi phạm hành chính nói chung lần đầu tiên
được nêu ra trong Điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày
30/11/1989
1
, trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và hiện nay
là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Giáo trình Luật hành chính
Việt Nam năm 2008 đã đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính như sau: “Vi
1
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy
tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính
6
phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc
vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải
là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử phạt hành chính”.
Hiện nay chưa có định nghĩa chính thức về vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BHXH. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, phạm vi của hành vi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH được quy định phải bị xử
phạt hành
chính, dựa vào định nghĩa chung về vi phạm hành chính như đã nêu trên và
quy định của pháp luật BHXH, có thể định nghĩa như sau: Vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BHXH là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi
cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật liên quan đến BHXH mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử phạt hành chính.
- Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính
Muốn áp d
ụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi
phạm pháp luật về BHXH, trước hết phải xác định một hành vi xảy ra có phải
là vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH hay không. Việc xác định phải
căn cứ vào các dấu hiệu pháp lý của các yếu tố cấu thành loại vi phạm pháp
luật này. Những dấu hiệu này được mô tả trong các văn bản pháp luật quy
định về vi phạm hành chính, hình thức và biện pháp xử lý vi phạ
m hành
chính. Giống như bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào, vi phạm hành chính nói
chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH nói riêng đều được cấu
thành bởi bốn yếu tố, đó là: mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan, khách
thể.
Dấu hiệu mặt khách quan:
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BHXH là hành vi vi phạm hành chính được quy định trong văn bản
pháp luật về xử phạ
t hành chính có liên quan. Hay nói cách khác, hành vi mà
tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước
và đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm. Việc bị ngăn cấm được thể hiện rõ
ràng trong văn bản pháp luật quy định về xử phạt hành chính liên quan đến
7
BHXH, theo đó, pháp luật quy định những hành vi này sẽ bị xử phạt bằng các
hình thức, biện pháp xử phạt hành chính. Khi xem xét, đánh giá hành vi của
cá nhân hay tổ chức có phải là vi phạm hành chính hay không, bao giờ cũng
phải có căn cứ pháp lý rõ ràng xác định hành vi đó bị pháp luật quy định sẽ
phải áp dụng biện pháp xử phạt hành chính. Tránh tình trạng áp dụng “nguyên
tắc suy đoán” hoặc “áp dụng tương tự pháp luật” trong việc xác định vi phạm
hành chính
đối với các tổ chức và cá nhân.
Đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH, dấu hiệu trong mặt
khách quan có tính chất phức tạp riêng bởi vì BHXH liên quan đến nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực, đặc biệt liên quan đến pháp luật về lao động. Chẳng
hạn như hợp đồng lao động làm căn cứ đóng BHXH đối với người lao động
hay các xác nhận của chính quyền địa phương, của người sử d
ụng lao động để
người lao động được hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN.
Dấu hiệu mặt chủ quan:
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính nói
chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH nói riêng là dấu hiệu lỗi
của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH phải là hành
vi có lỗi thể hiện dưới dạng hành vi cố ý hoặc vô ý. Nói cách khác người thực
hiện hành vi này phải trong trạng thái có
đầy đủ khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận
thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc nhận
thức được điều đó những vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Khi có đủ căn cứ để
cho rằng chủ thể thực hiện hành vi trong tình trạng không có khả năng nhậ
n
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, chúng ta có thể kết luận rằng đã
không có vi phạm hành chính xảy ra.
Ngoài lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BHXH, ở một số trường hợp cụ thể, pháp luật còn xác
định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc của một số loại vi phạm hành
chính trong lĩ
nh vực BHXH. Ví dụ như trong Nghị định số 38/CP ngày
8
25/6/1996 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính về hành vi vi phạm
pháp luật về lao động, Khoản 8 Điều 10 quy định hành vi gian lận, lừa dối để
hưởng chế độ BHXH. Hành vi gian lận, lừa dối ở đây phải nhằm mục đích
hưởng các chế độ BHXH chứ không phải để hưởng chế độ khác.
Dấu hiệu chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH:
Chủ
thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH có
thể là cá nhân, tổ chức có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định
của pháp luật hành chính.
Trong lĩnh vực BHXH, cá nhân có hành vi lừa dối để hưởng BHXH có
thể là người lao động, người sử dụng lao động đang tham gia quan hệ lao
động và thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc hoặc tự nguyện. Bên cạnh đó
còn các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc cấ
p các loại giấy chứng
nhận về các điều kiện để làm căn cứ xác định cho người lao động hưởng các
chế độ BHXH theo quy định.
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BHXH trong mọi trường hợp khi có tham gia BHXH bắt buộc
hoặc dưới hình thức tự nguyện.
Như vậy, cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng có thể là ch
ủ thể của vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH theo pháp luật Việt Nam (trừ trường
hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác).
+ Tổ chức là chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH
(bao gồm cả BHYT, BHTN) là đối tượng được quy định tại Điều 2 Luật
BHXH bao gồm: cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ
trang nhân
dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ
chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh
nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân
có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động và các cơ
quan, tổ
chức khác có liên quan đến BHXH.
9
Dấu hiệu khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH:
Vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BHXH nói riêng cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều xâm hại đến các
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH là hành vi vi phạm đã xâm hại đến
quan hệ BHXH, được pháp luật hành chính và pháp luật BHXH bảo vệ. Nói
cách khác, vi phạm hành chính trong lĩnh v
ực BHXH là hành vi trái với các
quy định của pháp luật về BHXH, được quy định phải bị xử phạt hành chính
trong văn bản pháp luật, cụ thể là Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH hoặc các văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan khác.
1.1.1.2. Phân loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH có thể được phân loại theo
nhiều tiêu chí khác nhau như:
- Căn cứ vào quan hệ
đóng hưởng và phương thức thực hiện BHXH, có
thể phân loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH thành ba loại như sau:
+ Hành vi vi phạm về nghĩa vụ đóng BHXH
+ Hành vi vi phạm về điều kiện hưởng BHXH
+ Hành vi vi phạm trong quản lý hoạt động BHXH
- Căn cứ vào nội dung các chế độ BHXH, có thể phân loại vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BHXH thành các loại sau:
+ Hành vi vi phạm chế độ ốm đau
+ Hành vi vi phạm chế
độ thai sản
+ Hành vi vi phạm chế độ TNLĐ-BNN
+ Hành vi vi phạm chế độ hưu trí
+ Hành vi vi phạm chế độ tử tuất
+ Hành vi vi phạm chế độ BHTN
+ Hành vi vi phạm chế độ BHYT
10
- Căn cứ vào địa vị pháp lý của chủ thể vi phạm có thể chia vi phạm
hành chính thành ba loại:
+ Hành vi vi phạm do người sử dụng lao động thực hiện
+ Hành vi vi phạm do người lao động thực hiện
+ Hành vi vi phạm do tổ chức BHXH và các tổ chức khác vi phạm
- Căn cứ vào chủ thể thực hiện vi phạm có thể chia vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BHXH thành hai loại:
+ Hành vi vi phạm do cá nhân thực hiện
+ Hành vi vi phạm do pháp nhân thực hi
ện.
1.1.2. Phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm về BHXH
Vi phạm hành chính là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì thế, khi xử lý các vi phạm hành
chính, cần đặc biệt lưu ý đến nhận biết các dấu hiệu để phân biệt vi phạm
hành chính với tội phạm hình sự. Trong nhiều trường hợp trên thực tế, ranh
giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm hình sự r
ất khó xác định. Vì vậy,
nếu không giải quyết đúng đắn vấn đề này rất dễ xảy ra tình trạng “để lọt tội
phạm” hoặc “xử lý oan người vi phạm chưa đến mức phạm tội”.
Dấu hiệu căn bản để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm hình
sự là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Hành vi vi phạm
hành chính có mức độ nguy hiểm th
ấp hơn so với tội phạm hình sự. Mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật về BHXH ở mức độ tội
phạm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và đánh giá.
Ngoài mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, vi phạm hành chính
và tội phạm còn phân biệt với nhau ở một số dấu hiệu pháp lý khác. Tội phạm
là loại vi phạm được quy định trong Bộ luật Hình s
ự và chỉ Quốc hội mới có
quyền đặt ra các quy định về tội phạm và hình phạt. Vi phạm hành chính được
quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền như luật, pháp lệnh và nghị định.
11
Vi phạm hành chính và tội phạm còn phân biệt với nhau ở yếu tố chủ
thể. Trong khi chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức,
chủ thể của tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự nước ta chỉ có thể là
cá nhân.
Chính vì vậy, với quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành chưa có quy
định về tội phạm cụ thể trong lĩnh vực BHXH mà chỉ quy
định chung trong
nhóm tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tội phạm về chức vụ
nên, có nhiều hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, gây hậu quả nguy hại cho
xã hội hiện nay khó áp dụng được chế tài hình sự để truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với chủ thể vi phạm.
1.2. Chế tài xử phạt hành chính trong lĩnh vực BHXH, BHYT,
BHTN
Nói đến chế tài xử phạt hành chính là nói đến trách nhiệm hành chính
củ
a chủ thể vi phạm, khi tổ chức hay cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật, về nguyên tắc Nhà nước sẽ buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi
nhất định. Việc làm này nhằm khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm hại
đồng thời giáo dục tổ chức, cá nhân vi phạm cũng như toàn thể cộng đồng ý
thức tuân thủ pháp luật. Hậ
u quả pháp lý bất lợi mà tổ chức, cá nhân vi phạm
phải gánh chịu thể hiện ở việc họ bị buộc phải thực hiện các biện pháp chế tài
đã được quy định trong pháp luật. Tương ứng với mỗi loại vi phạm pháp luật
là một hình thức trách nhiệm pháp lý nhất định. Chủ thể bị truy cứu trách
nhiệm hành chính buộc phải thực hiện các biện pháp chế tài hành chính do
người có th
ẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính, đó là những biện pháp
buộc những đối tượng này phải chịu những hạn chế về quyền, tài sản hoặc tự
do.
Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH nói riêng thể hiện ở quyết định xử
phạt vi phạm hành chính ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt áp dụng
đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH. Việc
12
quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt đó thể hiện sự trừng phạt của Nhà
nước đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH. Tuy
nhiên, không chỉ dừng lại ở mục đích trừng phạt, việc xử phạt vi phạm hành
chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH nói
riêng còn hướng tới mục đích giáo dục cho mọi người ý thức tuân thủ pháp
luậ
t nói chung và pháp luật về BHXH nói riêng.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các hình thức xử lý kỷ
luật đối với công chức vi phạm kỷ luật và các trừng phạt cũng như quy định
đối với công chức phạm hình luật đã được quy định trong Chương V Sắc lệnh
số 76-SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về
quy chế công chức Việt Nam. Đối với lực l
ượng lao động là công nhân trong
các xí nghiệp của nhà nước và giúp việc Chính phủ cũng được quy định về
ngạch bậc, lương bổng, phụ cấp trong Sắc lệnh số 77-SL ngày 22/5/1950 của
Chủ tịch nước trong đó điều khoản về kỷ luật đối với các vi phạm được quy
định tại chương VI của Sắc lệnh.
Sau khi đất nước được hoàn toàn thống nhất, để phòng ngừa và xử
lý vi
phạm hành chính, một vấn đề được đặt ra là việc ban hành các văn bản pháp
luật quy định về vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý đối với loại vi
phạm này, ngày 27/5/1997, Chính phủ ban hành Nghị định 143/CP về Điều lệ
xử phạt vi cảnh. Tiếp đó, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính được ban
hành ngày 6/7/1995 và văn bản đang có hiệu lực pháp lý thi hành là Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính ngày 2/7/2002, được sửa đổi, b
ổ sung theo Pháp
lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2007 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/8/2008. Điều này cho
thấy pháp luật về xử lý vi phạm hành chính luôn có những sự điều chỉnh, bổ
sung và hoàn thiện.
Khi Bộ Luật Lao động đượ
c ban hành, lần đầu tiên chế định BHXH đã
được chính thức ghi nhận trong luật, tạo ra một hành lang pháp lý mới cho
13
việc thực hiện BHXH. Từ những quy định này, Chính phủ đã ban hành Điều
lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 25/01/1995, trong đó có quy
định việc xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự khi vi phạm
pháp luật về BHXH. Sau hơn một năm triển khai thực hiện Bộ Luật Lao động,
ngày 25/6/1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 38/CP quy định về xử phạt
hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao
động trong đó đã cụ thể hoá một
số hành vi vi phạm và mức xử phạt vi phạm hành chính về BHXH. Tại khoản
8 Điều 10 và các khoản 7, khoản 8 Điều 11 Mục I Chương II đã quy định mức
phạt tiền đối với hành vi gian lận, lừa dối để hưởng các chế độ BHXH, hành
vi không đóng BHXH và hành vi chậm đóng BHXH đối với các tổ chức, cá
nhân có hành vi vi phạm pháp luật lao động mà chưa
đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Lao động được
ban hành, ngày 16/4 2004 Chính phủ ban hành Nghị định số 113/2004NĐ-CP
quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động thay thế
Nghị định số 38/CP ngày 25/6/1996 nêu trên.
Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006 và có hi
ệu lực từ 1/1/2007,
từ điều 134 đến 137 đã quy định các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.
Ngày 16/8/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 135/2007/NĐ-CP quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH. Ngày 18/2/2008,
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã có Thông tư liên tịch 03/2008/TTLT-BLĐTBXH-BTC-NHNN
hướng dẫn thủ tục buộc trích tiền từ tài khoản tiền gửi của người sử d
ụng lao
động để nộp tiền BHXH chưa đóng, chậm đóng và tiền lãi phát sinh.
Nghị định số 135/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/8/2007 là văn
bản đang có hiệu lực pháp lý thi hành về xử phạt hành chính trong lĩnh vực
BHXH. Đối tượng áp dụng quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BHXH là cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam có hành vi cố ý hoặc
14
vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về BHXH mà không phải là tội
phạm thì có thể bị áp dụng hình thức xử phạt, mức phạt theo quyết định của
cơ quan có thẩm quyền đồng thời có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả theo thủ tục xử phạt được quy định trong Nghị định 135/2007/NĐ-
CP. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm
hành chính về pháp luật BHXH trong phạm vi nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cũng bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định này,
trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác thì áp dụng theo quy định tại Điều ước quốc tế
đó. Đối với những hành vi vi phạm về lĩnh vực BHXH của cán bộ
, công chức
trong khi thi hành nhiệm vụ mà không phải là tội phạm thì bị xử lý kỷ luật
theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức.
Về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính:
Thời hiệu xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành
chính về pháp luật BHXH là 12 tháng kể từ ngày có hành vi vi phạm hành
chính, nếu quá thời hạn nêu trên thì không xử phạt nhưng vẫn bị áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả
được quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 7
Nghị định 135/2007/NĐ-CP. Trong thời hạn 12 tháng mà cơ quan, tổ chức, cá
nhân có hành vi vi phạm hành chính mới trong lĩnh vực BHXH hoặc cố tình
trốn tránh, trì hoãn việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu nêu trên; thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm thực hiện vi
phạm hành chính mới hoặc thời điể
m chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn
việc xử phạt.
Đối với cá nhân bị khởi tố, truy tố hoặc có quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo thủ tục tố tụng hình sự mà có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình
chỉ vụ án thì bị xử phạt hành chính nếu hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm
hành chính, trong trường hợp này, thời hiệu xử phạt là 3 tháng, kể
từ ngày có
quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án.
15
Cơ quan, tổ chức, cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính về pháp luật
BHXH nếu sau 12 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt mà
không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực BHXH.
Đối với BHYT, Chính phủ ban hành Nghị định số 46/CP ngày 6/8/1996
quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước
về y tế, tại điều 12 quy đị
nh mức xử phạt vi phạm các quy định về BHYT.
Sau đó, ngày 6/4/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/2005/NĐ-CP
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế thay thế Nghị
định số 46/CP kể trên. Tại văn bản này không còn quy định xử phạt vi phạm
về BHYT nữa. Kể từ khi có Luật BHYT số 25/2008/QH 12 đến nay vẫn chưa
có Nghị định hướng dẫn xử phạt vi phạm hành chính v
ề BHYT.
Đối với BHTN cũng chưa có quy định cụ thể về hành vi và mức xử
phạt cụ thể nên về nguyên tắc phải áp dụng theo quy định chung của pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính. Sự không cụ thể này dẫn đến những khó
khăn nhất định trong quá trình thực thi pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực BHYT, BHTN.
1.3. Trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các v
ụ án dân
sự (áp dụng trong trường hợp Tổ chức BHXH tham gia với tư cách nguyên
đơn)
1.3.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án cấp sơ thẩm
1.3.1.1. Những vấn đề chung
* Quyền khởi kiện vụ án:
Điều 161 Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2004 quy định: “Cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi
kiện vụ án dân sự t
ại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình”.
Khởi kiện vụ án dân sự là một trong những phương thức để các chủ thể
yêu cầu Toà án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khi có tranh chấp xảy ra.
16
Quyền khởi kiện là quyền đầu tiên của chủ thể làm phát sinh vụ án dân sự tại
Toà án. Người khởi kiện có thể tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp thực hiện việc khởi kiện. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một
hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc
nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau. Ngược l
ại, nhiều cá nhân, cơ
quan, tổ chức cũng có thể khởi kiện một cá nhân hoặc một cơ quan, tổ chức
về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau
để cùng giải quyết trong một vụ án. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, có
thể khẳng định rằng quyền khởi kiện chủ yếu là do cá nhân, cơ quan, tổ chức
thực hiện làm phát sinh vụ
án dân sự tại Toà án. Việc các chủ thể có thực hiện
quyền khởi kiện hay không dựa trên sự cân nhắc mọi mặt của họ để đi đến
quyết định nên có can thiệp của các cơ quan tư pháp vào việc thực hiện quyền
khởi kiện sẽ làm ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của các đương sự.
Việc thực hiện quyền kh
ởi kiện vụ án dân sự được thực hiện chủ yếu
bởi các chủ thể có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ một số trường
hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng,
lợi ích Nhà nước. Chẳng hạn, Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có
quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hơ
p cần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định. Ngoài ra, cơ quan
và tổ chức trong phạm vi quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân
sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước thuộc lĩnh
vực mình phụ trách.
Tóm lại, khởi kiện vụ án dân sự là quyền yêu cầu Toà án có thẩm
quyền giải quy
ết một vụ án dân sự do cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ
thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thực hiện nhằm bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, ta xác định tư cách, quyền khởi
kiện của tổ chức BHXH đối với các đơn vị sử dụng lao động nợ tiề
n BHXH.
Thực tế pháp luật quy định việc tham gia BHXH cho người lao động là hành
17
vi bắt buộc của người sử dụng lao động. Hành vi không tham gia BHXH là
xâm phạm lợi ích hợp pháp của người lao động, đi ngược lại chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước về đảm bảo an sinh xã hội. Hành vi không
tham gia, tham gia không đúng mức quy định, tham gia không đủ số lao động
thuộc diện bắt buộc, chậm đóng là hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, ảnh
hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ của BHXH Vi
ệt Nam được giao hàng
năm, ảnh hưởng đến việc bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH.
Mặt khác, theo quy định tại điều 19 Luật BHXH quy định về quyền của
tổ chức BHXH:
+ Tổ chức quản lý nhân sự, tài chính và tài sản theo quy định của pháp
luật.
+ Từ chối yêu cầu trả BHXH không đúng quy định;
+ Kiểm tra việc đóng BHXH và trả các chế độ BHXH
+ Kiến nghị với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, sửa
đổi, bổ sung chế độ, chính sách pháp luật về BHXH và quản lý quỹ BHXH.
+ Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp
luật về BHXH.
+ Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Điều 20 Luật BHXH quy định về trách nhiệm của tổ chức BHXH:
“+ Thực hiện việc thu BHXH theo quy định của Luật này.
+ Thực hiện các biện pháp bảo toàn và tă
ng trưởng quỹ BHXH”
Với những căn cứ như trên, tổ chức BHXH đủ điều kiện là nguyên đơn
khởi kiện doanh nghiệp vi phạm pháp luật về BHXH ra Toà án để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người lao động cũng như lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước trong việc thực hiện an sinh xã hội.
* Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn
Chủ th
ể tố tụng dân sự là những người tham gia vào quá trình giải
quyết vụ, việc dân sự tại Toà án trên cơ sở có đơn khởi kiện hoặc yêu cầu của
cá nhân, tổ chức và được Toà án chấp nhận thụ lý theo quy định của pháp
18
luật, để bảo vệ quyền, lợi ích của mình hoặc của người khác. Điều kiện chung
để trở thành chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng dân sự với cá nhân, tổ chức, cơ
quan và các chủ thể đó phải có năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật
và năng lực hành vi tố tụng dân sự
2
.
Đối với đương sự là người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham
gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng
của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan
hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Toà án có quyền triệu tập người đại diện
hợp pháp của họ tham gia tố tụng.
Đối với những việc khác, việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại Toà án do người đại diện hợp pháp của
họ thực hiện.
Đương sự là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp tham gia tố
tụng (Điều 57K7 Bộ Luật Tố tụng Dân sự).
Tham gia tố tụng dân sự, các chủ thể có 2 nhóm gồm cơ quan tiến hành
tố t
ụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Người tham gia tố
tụng gồm:
- Đương sự: trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Những người tham gia tố tụng khác.
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ Luật Tố tụng Dân sự
quy định khởi kiện
để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định
2
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của một người là khả năng của người đó được mang quyền và gánh chịu nghĩa vụ tố
tụng dân sự theo luật định. Chỉ đối với cá nhân mới có sự xác định riêng biệt năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố
tụng dân sự. Còn đối với các tổ chức, cơ quan thì hai yếu tố đó phát sinh đồng thời.
Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng của chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự một cách trực tiếp
bằng chính hành vi của chủ thể đó hoặc uỷ quyền cho người khác.
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân phát sinh từ thời điểm người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.
Còn nă
ng lực hành vi tố tụng của cá nhân phát sinh khi người đó đạt 18 tuổi. Việc bảo vệ tại Toà án quyền và lợi ích hợp
pháp của người chưa đủ mười lăm tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự do người đại diện hợp pháp của họ thực
hiện.
19
khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.
Là một trong các bên đương sự, nguyên đơn có đầy đủ các quyền,
nghĩa vụ của đương sự khi tham gia tố tụng. Cụ thể:
- Cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình;
- Yêu cầu cá nhân, c
ơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ
cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Toà án;
- Đề nghị Toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình
không thể thực hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng,
trưng cầu giám định, định giá, khiếu nại với Viện Kiểm sát về những chứng
cứ mà Toà án đã xác minh, thu th
ập do đương sự khác yêu cầu;
- Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự
khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập;
- Đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hoà giải do
Toà án tiến hành;
- Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình;
- Tự b
ảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình;
- Tham gia phiên toà;
- Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo
quy định của Bộ luật này;
- Đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất
với nhau hoặc với nhân chứng;
- Tranh luận tại phiên toà;
- Được cấp trích lục bản án, quyết đị
nh của Toà án theo quy định của
Bộ Luật này;
20
- Phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ
để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật;
- Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án và chấp hành các quyết
định của Toà án trong thời gian giải quyết vụ án;
- Tôn trọng Toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà;
- Nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật;
- Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật;
- Các quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.
Ngoài ra, theo quy định của điều 59 Bộ Luật Tố tụng dân sự, nguyên
đơn còn có các quyền và nghĩa vụ sau:
- Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu
cầu khởi kiện;
- Đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa v
ụ liên quan tham gia
tố tụng;
- Đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Nguyên đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện.
* Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân
Để thực hiện chức năng xét xử, Toà án được giao một khối lượng
thẩm quyền nhất đị
nh. Ở mỗi nước, thẩm quyền của Toà án được xây dựng
theo những nguyên tắc phù hợp với hình thức tổ chức hệ thống toà án và đảm
bảo đáp ứng các mục tiêu của pháp luật quốc gia. Song theo cách hiểu chung,
thẩm quyền của Toà án đều bao gồm quyền xem xét giải quyết các vụ việc
thuộc phạm vi pháp luật quy định và quyền ra quyết định khi giải quyết các
vụ việc đ
ó.Thẩm quyền dân sự của Toà án được hiểu là quyền xem xét giải
quyết các vụ việc và quyền ra quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc
đó theo thủ tục tố tụng dân sự của Toà án.
21
Theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, thẩm quyền dân sự của Toà án
được căn cứ vào ba tiêu chí: thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp
xét xử và theo lãnh thổ
3
.
Các tranh chấp lao động cá nhân thường chỉ do Toà án giải quyết sau
khi các cơ quan quản lý hay các tổ chức hoà giải thực hiện không thành hoặc
không giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Riêng đối với một số
tranh chấp về BHXH là một trong những tranh chấp mà Toà án có thẩm
quyền giải quyết ngay không nhất thiết phải qua hoà giải tại cơ sở.
Về thẩm quyền theo cấp xét xử, việc phân định th
ẩm quyền dân sự của
Toà án theo cấp xét xử là phù hợp với yêu cầu khách quan của công tác tố
tụng nhằm mục tiêu giải quyết vụ việc nhanh chóng, hiệu quả. Có thể dựa trên
nhiều tiêu chí khác nhau để phân định thẩm quyền giữa các cấp Toà án, như
giá trị tài sản tranh chấp, tính chất vụ việc, quốc tịch của đương sự.
Hệ thống Toà án ở nước ta được tổ chức theo
đơn vị hành chính-lãnh
thổ. Trong đó, thẩm quyền giải quyết sơ thẩm giao cho các Toà án cấp huyện
và cấp tỉnh. Hiện nay, việc phân định thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm các vụ việc dân sự được thực hiện theo hướng mở rộng thẩm quyền cho
Toà án cấp huyện. Theo đó, việc phân định thẩm quyền giữa Toà án cấp
huyện với Toà án cấp t
ỉnh trong việc giải quyết các vụ việc dân sự căn cứ vào
tính chất vụ việc. Theo đó:
- Thẩm quyền của Toà án cấp huyện: Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
tất cả những tranh chấp về BHXH. Tuy nhiên, Toà án cấp huyện không có
3
Những loại việc thuộc thẩm quyền dân sự của Toà án theo pháp luật Việt Nam có thể chia làm bốn nhóm:
vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự; vụ việc về hôn nhân và gia đình; vụ việc về kinh doanh,
thương mại và các vụ việc về lao động. Đi sâu xem xét thẩm quyền dân sự của Toà án trong xét xử các vụ
việc về lao động gồm: các tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể và các yêu cầ
u về lao
động trừ các yêu cầu về giải quyết đình công.
22
thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các yêu cầu về kinh doanh, thương mại và lao
động (trong đó có BHXH) (Điều 30, 32 Bộ Luật Tố tụng Dân sự)
4
.
Thẩm quyền dân sự của Toà án cấp tỉnh:
Theo quy định tại Điều 34 Bộ Luật Tố tụng dân sự, Toà án cấp tỉnh có
thẩm quyền giải quyết đối với:
- Tất cả các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, trừ những
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án c
ấp huyện.
- Các yêu cầu về lao động;
Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ:
Thẩm quyền dân sự của Toà án theo lãnh thổ là thẩm quyền của Toà
án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự trên địa bàn. Về thực chất đây là
sự phân định thẩm quyền giữa các Toà án cùng cấp trong việc giải quyết vụ
việc theo thủ tục sơ thẩm.
Để tạo điề
u kiện cho nguyên đơn, người yêu cầu được thuận lợi tham
gia tố tụng, Điều 36 Bộ Luật Tố tụng Dân sự quy định trong trường hợp có
nhiều Toà án đều có điều kiện giải quyết một vụ việc dân sự thì nguyên đơn,
người yêu cầu có quyền lựa chọn một trong các Toà án có điều kiện để giải
quyết vụ việc.
1.3.1.2. Tiến hành khởi kiệ
n
- Gửi đơn khởi kiện đến Toà án:
Đơn khởi kiện là hình thức biểu đạt yêu cầu của người khởi kiện đến
Toà án nhằm giải quyết các vụ án dân sự. Đơn khởi kiện phải thể hiện rõ nội
dung và yêu cầu của người khởi kiện. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Toà
án xem xét quyết định thụ lý vụ án dân sự, đồng thời quyết định ph
ạm vi tố
tụng ban đầu trên cơ sở yêu cầu trong đơn.
4
Toà án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết đối với những tranh chấp, yêu cầu của Toà án cấp huyện mà có
đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần có uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước
ngoài, cho Toà án nước ngoài(Điều 33k3 và Điều 34k1c Bộ Luật Tố tụng Dân sự).
23
Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có thể tự mình hoặc
nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án và ở phần cuối đơn, cá nhân đó
phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện xác định ý chí của mình về việc
yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự.
Đối với cơ quan, tổ chức tự mình khởi kiện nghĩa là ngườ
i đại diện hợp
pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn
khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ
cơ quan, tổ chức và họ tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan,
tổ chức đó. Người đại diện h
ợp pháp là người đại diện theo pháp luật theo
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc theo điều lệ của tổ
chức. Người đại diện theo pháp luật cũng có thể uỷ quyền bằng văn bản cho
các thành viên của cơ quan, tổ chức đó khởi kiện. Đơn khởi kiện của cơ quan,
tổ chức có ký tên của người đại diện hợ
p pháp và đóng dấu.
Việc ủy quyền hợp pháp cho người khác khởi kiện vụ án dân sự tại Toà
có được chấp nhận. Người đại diện hợp pháp được cơ quan, tổ chức uỷ quyền
có thể là những cá nhân hoặc tổ chức khác có khả năng thực hiện việc khởi
kiện như luật sư, trung tâm tư vấn pháp luật hay những tổ chức khác có đủ
khả
năng thực hiện việc khởi kiện. Theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Dân
sự và Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán thì hình
thức đơn khởi kiện vụ án như sau: nếu người khởi kiện là cá nhân phải ký tên
hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ ch
ức đó phải ký tên, đóng dấu (Điều 163k2 Bộ Luật Tố tụng Dân sự).
Các nội dung trong đơn khởi kiện được quy định tại Điều 164 Bộ Luật
Tố tụng Dân sự, cụ thể:
- Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện
- Tên Toà án nhận đơn khởi kiện
- Tên, địa chỉ của người khởi kiện và của người bị kiện
- Tên, địa chỉ
của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của người làm chứng (nếu có)
24
- Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan;
- Liệt kê các tài liệu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là
ó căn cứ và hợp pháp, cũng như các thông tin cần thiết khác.
Kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu
cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Các chứng cứ hay tài liệu đượ
c gửi
đến Toà án gắn với nội dung của yêu cầu trong từng vụ việc cụ thể. Việc gửi
đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo đến Toà án có thẩm quyền
thông qua hai phương thức:
Trực tiếp nộp tại Toà án thì được người có trách nhiệm ghi ngày, tháng,
năm người khởi kiện nộp đơn khởi kiện vào sổ nhận đơn.
Gửi qua đường bưu điện thì Toà án ghi ngày, tháng, n
ăm nhận đơn do
bưu điện chuyển đến và ngày, tháng, năm có dấu bưu điện nơi gửi đơn. Ngày
khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn hợp lệ tại Toà án có thẩm
quyền hoặc ngày có dấu của bưu điện nơi gửi. Khi nhận được đơn khởi kiện
qua đường bưu điện, người có trách nhiệm nhậ
n đơn của Toà án phải đính
kèm phong bì người gửi, đây là căn cứ pháp lý để xác định việc khởi kiện khi
còn thời hiệu hay đã hết thời hiệu khởi kiện. Nếu không xác định được ngày,
tháng, năm theo dấu của bưu điện thì ghi chú trong sổ nhận đơn “không xác
định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện” và ngày khởi kiện được xác
định là ngày Toà án nhận được đơn khở
i kiện do bưu điện chuyển tới.
Toà án phải ghi (hoặc đóng dấu nhận đơn có ghi) ngày, tháng, năm
nhận đơn vào góc bên trái của đơn khởi kiện và cấp giấy báo nhận đơn khởi
kiện cho người khởi kiện. Nếu đơn khởi kiện gửi qua bưu điện thì Toà án gửi
giấy báo nhận đơn khởi kiện để thông báo cho người khởi kiện biết.
- Trườ
ng hợp Toà án thụ lý vụ án
Để tiến hành thụ lý vụ án, Toà án phải xem xét đơn khởi kiện và các tài
liệu, chứng cứ kèm theo. Theo đó, thụ lý vụ án dân sự là việc Toà án chấp
nhận đơn khởi kiện, vào sổ thụ lý để giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng dân