BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐOÀN TIẾN DŨNG
KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
HÀ NỘI, 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐOÀN TIẾN DŨNG
KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. TRẦN ĐĂNG XUYỀN
HÀ NỘI, 2010
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này ñược hoàn thành tại khoa Văn, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, dưới sự hướng dẫn tận tình chu ñáo của GS.TS. Trần Đăng
Xuyền. Tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới thầy hướng dẫn, người
ñã dành cho tác giả những gợi dẫn khoa học quan trọng trong quá trình
nghiên cứu, hoàn thành luận văn. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới quí
thầy cô giáo bộ môn Văn học Việt Nam 2 trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Viện văn học, ñã ñóng góp nhiều ý kiến cho tác giả trong quá trình soạn
thảo. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới Phòng Quản
lí khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội ñã tạo ñiều kiện thuận lợi cho
tác giả trong quá trình học tập nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2010
Tác giả
Đoàn Tiến Dũng
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 01
1. Lí do chọn ñề tài 01
2. Lịch sử vấn ñề 03
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 11
4. Phương pháp nghiên cứu. 11
5. Đóng góp của luận văn 12
6. Cấu trúc luận văn
12
CHƯƠNG 1. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP 13
1.1. Không gian bối cảnh xã hội
. 14
1.1.1. Không gian “láo nháo, thản nhiên rất ñời và ô trọc” 14
1.1.2. Không gian tù ñọng quẩn quanh bế tắc 21
1.2. Không gian bối cảnh thiên nhiên 26
1.2.1. Không gian dòng sông 26
1.2.2. Không gian biển cả 31
1.2.3. Không gian rừng núi 33
1.2.4. Không gian ñồng quê 36
1.3. Không gian tâm trạng 38
1.3.1. Không gian tâm tưởng tâm linh vô thức . 38
1.3.2. Không gian huyền thoại thực-ảo 42
2
CHƯƠNG 2. THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN HUY THIỆP 48
2.1. Thời gian trần thuật 48
2.1.1. Đảo lộn thời gian sự kiện 50
2.1.2. Tự sự dòng ý thức và ñồng hiện thời gian 59
2.2. Thời gian tâm trạng 64
2.2.1. Cái nhìn hồi cố 65
2.2.2. Cái nhìn trải nghiệm . 70
2.3. Nhịp ñiệu thời gian 74
2.3.1. Nhịp ñiệu thời gian nhanh gấp 75
2.3.2. Nhịp ñiệu thời gian lặp lại 80
CHƯƠNG 3. MỐI QUAN HỆ GIỮA KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
NGHỆ THUẬT . 86
3.1.Tổ chức không gian trong sự kết hợp với thời gian . 86
3.2. Sự luân chuyển không gian, thời gian nghệ thuật 89
3.3. Không gian ñược tổ chức theo nguyên tắc tương phản 100
3.4.Thời gian nhân vật và trình tự thời gian trần thuật ñược hiện ñại hoá.111
KẾT LUẬN 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO 119
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn ñề tài
1.1. Với nhà văn có thể anh ta sáng tác rất nhiều, nhưng ñể có ñược tác
phẩm neo bám vào lòng người ñọc là ñiều không dễ, thậm chí rất hiếm hoi.
Văn chương như một trò bập bênh nghệ thuật với những luật chơi ngoắt
ngoéo vô hình, ñã thách thức tất cả những ai lao vào con ñường cầm bút. Nó
chẳng loại trừ ai, sẵn sàng hê tung nếu như anh ta không ñủ bản lĩnh và lượng
sức mình trong cuộc ñua chen choán ñầy ảo tưởng. Trên bước ñường gập
ghềnh làm nghệ thuật, Nguyễn Huy Thiệp ñã tự lựa cho mình một lối ñi riêng,
ñể khẳng ñịnh tên tuổi mình và khuấy ñộng làn sóng phê bình văn học.
Nguyễn Huy Thiệp không phải là người ñầu tiên mở ñầu cho sự nghiệp Đổi
mới Văn học Việt Nam sau 1975, nhưng chắc chắn nhắc ñến sự nghiệp Đổi
mới văn học, không thể không có tên ông.
Nguyễn Huy Thiệp, trước hết, ñược biết tới như là một “hiện tượng lạ”
trong cao trào ñổi mới văn học Việt Nam từ sau 1986. Truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp vừa kế thừa, bảo lưu những yếu tố thuộc về tâm thức truyền thống,
mặt khác lại vừa “ñối thoại về tư tưởng giữa các nhân vật và trở thành cuộc
ñối thoại với chính bạn ñọc” [77; 251]. Bên cạnh ñó, do thấm ñượm cảm quan
hiện ñại, Nguyễn Huy Thiệp ñã phơi bày một thế giới xáo trộn, ngổn ngang
với những mảnh vỡ hiện thực phi lý của thời hậu chiến khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường. Nhiều nhân vật trong truyện ngắn của ông mang dáng dấp
của truyện truyền kì, cổ tích, hay những nhân vật lịch sử… ñều ñược soi chiếu
dưới cái nhìn “lạ hóa”, “giải thiêng”, gợi lên cảm giác lo âu, bất an, và hơn
hết là tinh thần “tự phê”, “tự nghiệm” ñã giúp ñộc giả có cái nhìn “phản tỉnh”.
Có thể nói không quá rằng, một mình Nguyễn Huy Thiệp không làm nên
ñược diện mạo của nền văn học Việt Nam sau 1975 ñến nay, nhưng một mình
2
Nguyễn lại có thể ñào xới lên nhiều vấn ñề thuộc về bản chất văn học: “hạt
nhân các sáng tác của anh vẫn không ñi ra ngoài vấn ñề con người” [77; 545],
chính ñiều này ñã làm ñiểm tựa ñể truyện ngắn của ông tạo nên sức bật khỏi
ảnh hưởng văn học trước 1975.
1.2. Ngay từ những sáng tác ñầu tay, tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp
ñã “có một sức hấp dẫn khó cưỡng lại ñược” [77; 458], và ñược các nhà
nghiên cứu, các nhà văn trong nước và ở nước ngoài ñánh giá cao về nghệ
thuật. Nhiều tác phẩm của ông thực sự “gây hấn” với quan ñiểm văn chương
truyền thống, nó trượt khỏi khung khổ truyện ngắn trước kia và tích cực ñẩy
xa hơn nữa quá trình dân chủ hóa ñời sống văn học. Có thể nói, Nguyễn Huy
Thiệp là nhà văn có ý thức cách tân truyện ngắn từ rất sớm, ñồng thời cũng là
người cầm bút có ý thức triệt ñể về vấn ñề không gian và thời gian. Tính ña
chiều không gian và nhiều lớp thời gian trong truyện ngắn của ông ñặc biệt
thú vị, nhưng cũng hết sức phức tạp, khó khăn khi nghiên cứu. Thú vị ở chỗ
nó mở ra một cái nhìn mới vào thế giới, vào con người; phức tạp và khó khăn
bởi sự chằng chịt ña tầng không chỉ trên nội dung văn bản mà còn nằm ở
chiều sâu ngôn ngữ, không phải ai cũng cảm nhận hết. Việc xử lí không gian
và thời gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ñã ñược các nhà nghiên
cứu ñặt thành vấn ñề quan trọng. Mới nhìn qua, có vẻ hai khái niệm này
không phải là hiện tượng phổ biến trong sáng tác của ông. Thế nhưng, thực tế
cho thấy, trong nhiều tác phẩm, không gian và thời gian là nơi thể hiện rõ nhất
cảm quan ñời sống của Nguyễn Huy Thiệp. Nó chính là mạch ngầm liên kết
các hình tượng văn bản nghệ thuật mà ông sáng tạo ra, ñầy sắc thái riêng.
Từ những lí do trên, Luận văn hi vọng sẽ góp thêm một tiếng nói vào
việc nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, cụ thể là
vấn ñề không gian, thời gian nghệ thuật. Qua việc giới thiệu một vấn ñề phức
tạp như vậy, luận văn cũng giúp cho việc giảng dạy, nghiên cứu văn học Việt
3
Nam hiện ñại nói chung và truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nói riêng. Như
vậy, với ñề tài: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp vừa có ý nghĩa lí luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, nó ñáp ứng ñược
những tiêu chí cần thiết ñối với ñề tài một luận văn cao học.
2. Lịch sử vấn ñề
Việc nghiên cứu không gian - thời gian nghệ thuật một cách có ý thức
chỉ xuất hiện từ sau lí thuyết thi pháp học hiện ñại ñược các nhà nghiên cứu
giới thiệu và vận dụng phổ biến ở Việt Nam. Trong khuôn khổ của một luận
văn cao học, dưới ñây chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu những ý kiến của các nhà
nghiên cứu về vấn ñề không gian, thời gian nghệ thuật nói chung. Sau ñó
chúng tôi xin ñiểm qua tình hình nghiên cứu về không gian thời gian nghệ
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
2.1. Tình hình nghiên cứu về không gian - thời gian nghệ thuật
Sau ñây là những bài viết hoặc công trình của các nhà nghiên cứu có ñề
cập trực tiếp hoặc gián tiếp ñến vấn ñề không gian và thời gian ở các tác giả
khác có liên quan ñến ñề tài mà luận án ñang thực hiện. Dẫn theo thời gian
xuất bản:
1. Trần Đình Sử, (1982), Thời gian nghệ thuật trong “Truyện Kiều” và
cảm quan hiện thực của Nguyễn Du, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 05.
Trong bài viết này, nhà nghiên cứu ñã nhìn nhận thời gian và không
gian từ phía khát vọng, hành ñộng của nhân vật, tính chất phũ phàng
của các thế lực.
2. Phan Ngọc, (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong “Truyện
Kiều”, Nxb KHXH. Toàn bộ công trình không bàn nhiều và trực tiếp
ñến vấn ñề không gian và thời gian, nhưng ñáng chú ý ở chương IV có
tiêu ñề: Cách bố cục “Truyện Kiều” theo yêu cầu của kịch. Tác giả
4
công trình ñã phân tích “những lời ñoán trước”, “những giấc mộng”,
tức những yếu tố liên quan ñến thời gian.
3. Đặng Thị Hạnh, (1987), Tiểu thuyết Huy-gô, Nxb ĐH&THCN. Ngoài
công trình này, bà còn rất nhiều bài nghiên cứu trên Tạp chí Nghiên
cứu văn học viết về Thâm Tâm, Xuân Diệu… trong ñó ñề cập nhiều
ñến vấn ñề thời gian ẩn.
4. Trần Đình Sử, (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm Mới.
Trong cuốn chuyên luận này có 2 chương về: Không gian nghệ thuật;
Thời gian nghệ thuật, tác giả trình bày từ lí luận ñến thực tiễn sáng tác
của các nhà văn lớn trên thế giới và trong nước, chủ yếu là thơ Tố Hữu.
5. Phùng Văn Tửu, (1990), Tiểu thuyết Pháp hiện ñại, Những tìm tòi ñổi
mới, Nxb KHXH và Mũi Cà Mau. Cuốn sách ñược chia là 4 chương.
Trong chương 4 với tiêu ñề: Người kể chuyện và các ñiểm nhìn, trong
ñó có phần Di chuyển ñiểm nhìn trên trục thời gian nói về sự xáo trộn
không gian và thời gian trên cùng một sự kiện mà có nhiều ñiểm nhìn,
cách kể lại vào những thời ñiểm khác nhau.
6. Trần Đăng Suyền, (1991), Thời gian và không gian trong thế giới nghệ
thuật của Nam Cao, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 05. Trong bài viết
này, tác giả nhận ñịnh: “Cảm quan về thời gian và không gian gắn liền
với cảm quan về con người và cuộc ñời, với mơ ước và lí tưởng của
nhà văn” [85; 243].
7. Nguyễn Xuân Kính, (1992), Thi pháp ca dao, Nxb KHHXH. Trong
công trình này, tác giả nghiên cứu về thời gian trong ca dao và cho
rằng thời gian trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng…
8. A. JA Guervich, (1996), Các phạm trù văn hoá trung cổ (Người dịch:
Hoàng Ngọc Hiến), Nxb GD. Trong mục Những biểu tượng không gian
5
– thời gian thời Trung cổ, tác giả cho rằng: “Thời gian và không gian là
những thông số quyết ñịnh sự tồn tại của thế giới” [34; 30].
9. Nguyễn Thị Bình (1996), Những ñổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau 1975 (khảo sát trên những nét lớn), LA. PTSKH Ngữ văn, ĐH
Sư phạm Hà Nội. Nhà nghiên cứu cho rằng: “Văn xuôi sau 1975, không
gian nghệ thuật phổ biến là không gian sinh hoạt ñời thường, không
gian mang tính chất cá nhân riêng tư” [15; 136].
10. Bùi Văn Tiếng (1997), Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng, Nxb Văn hóa. Ở công trình này, tác giả nghiên cứu thời gian và
không gian trong những tiểu thuyết tiêu biểu của Vũ Trọng Phụng.
11. Trần Đình Sử, (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb GD. Trong cuốn
sách này tác giả ñã dành 2 chương IV và V ñể nói về thời gian và
không gian nghệ thuật.
12. Nguyễn Thái Hòa, (2000), Những vấn ñề thi pháp của truyện, Nxb GD.
Mục ñích của công trình nhằm “miêu tả những khái niệm cơ sở của Thi
pháp học thể loại truyện ở góc nhìn ngôn ngữ học” [40; 03].
13. Đặng Anh Đào, (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây
hiện ñại, Nxb Đại học Quốc gia, H. Trong mục VIII của cuốn sách, tác
giả cho rằng: “Thời gian là một vấn ñề lưu ý ñặc biệt trong nghệ thuật
kể chuyện…Riêng ñối với lý luận phương Tây, sự quan tâm ñặc biệt lại
nghiêng hẳn về trục thời gian hơn không gian” [26; 85].
14. Đào Duy Hiệp, (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết hiện ñại, Nxb GD.
Trong công trình này, tác giả ñã vận dụng một số lí thuyết phê bình
hiện ñại ñể tiếp cận sáng tác văn học từ các cấp ñộ thời gian. Tác giả ñã
ứng dụng lí thuyết vào phân tích một số sáng tác của Cervantes,
Maupassant, Proust…
6
15. Nguyễn Mạnh Quỳnh (2008), Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nhìn từ lí
thuyết thời gian tự sự của G. Genette, Luận án Tiến sỹ Ngữ văn,
Trường ĐHSP Hà Nội. Trong công trình này, tác giả ñã xác ñịnh ñược
mô hình thời gian tự sự trong từng loại tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng
theo lí thuyết của Genette.
16. Phạm Hồng Lan, (2009), Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu
thuyết hiện thực 1930-1945, Luận án Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, ĐHSP
Hà Nội. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu không
gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết hiện thực.
17. Trần Văn Toàn, (2010), Tả thực với hoạt ñộng hiện ñại hoá văn xuôi
hư cấu (fiction) giao thời, (khảo sát trên chất liệu văn học công khai),
Luận án Tiến sỹ Ngữ văn ĐHSP Hà Nội. Trong công trình này, ở
chương 2, tác giả ñã ñưa ra mô hình không – thời gian trong văn xuôi
hư cấu giao thời và vấn ñề tả thực.
Nhận xét: Các nhà nghiên cứu trên ñều ñã ñề cập tới những luận ñiểm quan
trọng như: Khái niệm không gian; thời gian; thời gian trần thuật; nhịp ñiệu
thời gian Tất cả những nhận ñịnh của họ rất xác ñáng, ñặc biệt khá thống
nhất khi ñưa ra mô hình không - thời gian ñối với từng giai ñoạn văn học. Từ
kết quả nghiên cứu thật ñáng quí ở các công trình trên, chúng tôi có thể tìm
ñược các gợi ý cần thiết ñể ñi sâu nghiên cứu một cách tương ñối toàn diện
hơn vấn ñề không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp.
2.2. Tình hình nghiên cứu không - thời gian trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp
7
Xung quanh hiện tượng văn chương Nguyễn Huy Thiệp có rất nhiều ý
kiến gây tranh cãi bởi nhiều khuynh hướng khác nhau vì nhà văn này quá
phức tạp. Tuy vậy, Nguyễn Huy Thiệp vẫn cứ viết, và mỗi tác phẩm của ông
ra ñời lại là một sự kiện tranh luận. Nhà văn trong nước, ngoài nước, soi chiếu
tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp dưới nhiều góc ñộ, có truyện ñánh giá ñồng qui,
có truyện khen chê tách biệt. Sau ñây chúng tôi xin ñề cập ñến một số cách
tiếp cận và ñánh giá truyện ngắn của ông:
Thứ nhất, ở cách tiếp cận và ñánh giá sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp
từ góc ñộ mĩ học, xã hội học:
Một số người ñã qui chụp thẳng thắn cho những sáng tạo văn chương
nghệ thuật của ông “chẳng qua là lối viết quá cũ có người ñã từng dùng cách
ñây vài trăm năm, nay phục chế lại. Đây là kiểu tái hiện văn học hiện thực
những năm 30-40 của thế kỉ trước” [77; 8].
Đỗ Văn Khang cho rằng: Văn của Nguyễn Huy Thiệp “lạnh lùng hằn
học quá”, nhà văn ñã cố tình xuyên tạc lịch sử: “Một Quang Trung lẫm liệt
anh minh ñánh tan 20 vạn quân Thanh như trở bàn tay, dưới ngòi bút Nguyễn
Huy Thiệp trở thành anh vua hèn. Một Nguyễn Du văn chương như in như tạc
vào cuộc ñời, bỗng chốc hóa thành ñứa con hoang của cô gái ñồng trinh bị tên
ñàn ông khốn nạn là nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp” [77; 415]. Đồng
thời, khi lí giải về “sự sa sút văn chương Nguyễn Huy Thiệp”, tác giả còn chỉ
trích: “Văn Nguyễn Huy Thiệp ngày càng mất bản chất nhân văn…càng thô
lỗ tục tằn…và ngày càng rơi vào thói vô chính phủ về lịch sử” [77; 411].
Cùng chiều với luồng suy nghĩ của Đỗ Văn Khang, trong bài Cái tâm
và cái tài của người viết, Mai Ngữ cho rằng: “Truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp ta thấy có cả tâm lí chán chường, sự chối bỏ không thương tiếc mọi quá
khứ, và tâm lí phá phách hạ bệ thần tượng” [77; 421]. Bên cạnh ñó theo nhận
ñịnh Nguyễn Vy Khanh: “chuyện anh hùng Đề Thám trong truyện Nguyễn
8
Huy Thiệp cũng là người nhu nhược…Đề Thám cũng sùi bọt như người
thường; một anh bán bánh ña mật ở chợ Kế” [77; 387].
Thứ hai, cách tiếp cận phong cách học:
Tiêu biểu cho lối tiếp cận này có lẽ là nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Mạnh với lối tiếp cận chân dung – phong cách, nhằm khám phá tư tưởng nghệ
thuật của nhà văn. Nhà nghiên cứu khẳng ñịnh và chứng minh một cách khá
thuyết phục: “Thiệp là người không có ý ñịnh che giấu cái tôi của mình. Một
cái tôi lưỡng phân: một mặt coi ñời là vô nghĩa, là trò ñùa một mặt là cái tôi
nghiêm chỉnh ñi tìm khuôn mẫu của con người ñích thực” [77; 460]. Còn Lê
Minh Hà ñã khắc hoạ chân dung Nguyễn Huy Thiệp như sau: “Gương mặt
ông nhàu. Tôi biết rằng có thể ông không nhất thiết trải qua toàn bộ những
cảnh ñời mà nhân vật của ông ñã trải” [77; 488].
Ngoài ra, khuynh hướng tiếp cận và ñánh giá sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp như là những tác phẩm nghệ thuật ñộc ñáo, họ ñã tìm thấy trong ñấy
những “giọt vàng ròng”, tiêu biểu là Đỗ Đức Hiểu cho rằng: Nguyễn Huy
Thiệp ñã “tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỉ XX và
nâng nó lên một tầm cao mới”. Tác giả ñã thấy “mối liên hệ giữa chuyện và
truyện ngắn như: không gian truyện là mơ hồ, thời gian truyện không xác
ñịnh, nhân vật truyện không có cá tính” [77; 474].
Sean Tamis Rose, trong bài Trái tim Thiệp, cho rằng: “Với Nguyễn
Huy Thiệp cần phải luôn luôn dè chừng: ñó là nhà văn thực sự, ông ta biết
cách ñánh lừa ngôn ngữ” [77; 498].
Hoàng Ngọc Hiến, “người tiên cảm trước con ñường ñầy sóng gió của
Nguyễn Huy Thiệp”, trong lần tranh luận trực tiếp với Đỗ Văn Khang ñã phân
tích mối quan hệ giữa Quang Trung, Gia Long với Vinh Hoa, ñể chứng minh
rằng không phải Nguyễn Huy Thiệp “bôi nhọ lịch sử” [77; 539].
9
Các ý kiến tranh cãi dù còn ñối lập, vẫn cho thấy một ñiểm chung:
“Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng hiếm, ñộc ñáo. Và hạt nhân sáng tác của
anh vẫn không ñi ra ngoài vấn ñề con người” [77; 564].
Tuy vậy, những nghiên cứu về không gian, thời gian trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp còn rất ít, dưới ñây chúng tôi xin tóm tắt cả những ý kiến
trực tiếp cũng như gián tiếp bàn về vấn ñề này:
1. Hoàng Ngọc Hiến trong bài Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió
ñã ñề cập gián tiếp ñến không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Huyền thoại
phố phường. Tác giả cho rằng: “Cảnh Hạnh mò cống tìm nhẫn thật là thảm y
xắn tay áo rồi ñưa tay mò dọc theo cái rãnh ñầy bùn, lõng bõng nước chảy,
thậm chí có cả cục phân người” [77; 11].
2. Nguyễn Thị Hương trong bài viết: Lời thoại trong truyện ngắn
Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp ñã cho rằng không gian trong gia ñình
“Tướng về hưu” là “một tấn trò ñời” thu nhỏ. Đủ các mọi hạng người, tướng
lĩnh, kĩ sư, bác sĩ, người làm công, cô gái lỡ làng, thằng tù…Đủ các sự kiện
tang ma, cưới hỏi” [77; 11]. Chừng ấy con người trong không gian một gia
ñình tồn tại những sự “chân thật ñến lạnh buốt”.
3. Đào Duy Hiệp trong bài: Đọc Chút thoáng Xuân Hương ñã chú ý
ñến không gian - thời gian: “Không gian dòng sông con thuyền tượng trưng
cho số phận người phụ nữ giữa sóng nước cuộc ñời” [77; 83]. Từ ñiểm nhìn
của nhân vật Tổng Cóc ñã cho thấy người kể chuyện ñứng ở ngôi thứ ba
không xưng tôi, mà người ñọc như thấy lại chính Tổng Cóc ñang kể những
suy nghĩ, do ñó ñã mất ñi vai trò “người kể chuyện biết tuốt” [77; 81].
Ngoài những bài phê bình trên, Không gian và thời gian nghệ thuật
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn ñược ñề cập thấp thoáng trong các
công trình nghiên cứu ở từng phương diện cụ thể. Chẳng hạn, luận văn thạc sĩ
của Lê Thị Phượng (2004), Một số phương diện ñặc sắc trong nghệ thuật kết
10
cấu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp; Luận văn của Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
(2005), Nguyễn Huy Thiệp từ ý thức tự vấn ñến cách tân nghệ thuật quan
trọng; hoặc luận văn của tác giả Nguyễn Thành Nam (2006) với ñề tài Ngôn
ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Theo Phạm Xuân Nguyên trong cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb
Hội nhà văn, 2001, tác giả ñã sưu tầm 54 bài phê bình viết về tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp. Ngoài ra, còn rất nhiều khoá luận tốt nghiệp ñại học hoặc
sau ñại học trực tiếp lấy tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp làm ñề tài nghiên
cứu. Qua khảo sát, từ năm 2001 ñến năm 2009, ĐHSP Hà Nội ñã có 13 luận
văn cao học nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Vì vậy, trong
chừng mực một luận văn cao học chúng tôi khó có thể tổng thuật tỉ mỉ ñược.
Sau ñây, chúng tôi xin nhận xét sơ bộ về việc nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp nói chung và không gian, thời gian trong truyện ngắn của ông nói
riêng:
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp dành ñược sự quan tâm ñặc biệt của
giới nghiên cứu với nhiều mũi tiếp cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận ñã khám
phá những chiều sâu khác nhau trong thế giới nghệ thuật và khơi dậy những
vẻ ñẹp trong nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn. Riêng về
vấn ñề không gian, thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
chúng tôi thấy nổi lên hai vấn ñề chính:
Một là, dù ñã ñược chú ý, song vấn ñề không gian, thời gian nghệ thuật
vẫn chưa ñược nghiên cứu một cách có hệ thống. Những ý kiến phân tích của
một số tác giả chỉ tập trung ở một vài khía cạnh riêng biệt, chứ chưa bao quát
toàn bộ truyện ngắn của nhà văn.
Hai là, việc khám phá vấn ñề không gian chưa thấy những biểu hiện ña
dạng, và vấn ñề thời gian chủ yếu ñược nghiên cứu từ cấp ñộ thời gian câu
11
chuyện (thời gian ñược trần thuật) mà chưa chú ý ñến thời gian trần thuật,
cũng như mối quan hệ không – thời gian nghệ thuật trong tác phẩm.
Qua khảo sát những bài cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và
những công trình có liên quan ñến vấn ñề không gian và thời gian nghệ thuật,
chúng tôi rút ra kết luận, về mặt ñề tài, chưa có một công trình cứu nào trùng
lặp với ñề tài luận án ñang tiến hành.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung triển khai các khía cạnh thuộc phạm trù thi pháp
học như: không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, mối liên hệ không –
thời gian. Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn gồm những tập truyện
ngắn sau:
1. Nguyễn Huy Thiệp, (2000), Thương cả cho ñời bạc, Nxb Văn hóa
Thông tin.
2. Nguyễn Huy Thiệp (2003), Tập truyện ngắn, Nxb Văn học.
3. Nguyễn Huy Thiệp, (2005), Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai ñề tài, tác giả luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu chủ yếu sau ñây:
1. Phương pháp thống kê khảo sát
2. Phương pháp hệ thống
3. Phương pháp phân tích, tổng hợp
4. Phương pháp so sánh
5. Đóng góp của luận văn
Dự kiến luận văn có những ñóng góp sau:
Là công trình nghiên cứu ñầu tiên và hệ thống về Không gian thời gian
và nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Kết quả nghiên cứu mở
12
ra nhiều khả năng tiếp cận trong kịch tiểu thuyết, phê bình tiểu luận của nhà
văn có tài và cá tính này.
Đóng góp vào thành tựu chung trong công việc nghiên cứu tác phẩm
Nguyễn Huy Thiệp trong tiến trình văn học Việt Nam hiện ñại.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở ñầu, phần Kết luận, nội dung chính của luận văn ñược
triển khai qua ba chương:
Chương 1. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Chương 2. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Chương 3. Mối quan hệ không gian - thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN HUY THIỆP
13
A. JA. Gurevich cho rằng: “Thời gian và không gian là những thông số
quyết ñịnh sự tồn tại của thế giới, là những hình thức cơ bản của kinh nghiệm
con người” [34; 30]. Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới
nghệ thuật, không có hình tượng nghệ thuật nào nằm ngoài không gian và thời
gian. Đặc trưng cơ bản của không gian nghệ thuật là: Không gian nghệ thuật
mang tính chủ quan ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm trạng.
Không gian nghệ thuật không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm
văn học mà còn cho thấy quan niệm về thế giới của tác giả hay một giai ñoạn
văn học.
Theo Nguyễn Thị Bình: “Trong văn xuôi sau 1975, không gian nghệ
thuật phổ biến là không gian sinh hoạt ñời thường, không gian mang tính chất
cá nhân riêng tư” [15; 136]. Những căn phòng chật hẹp, bức bối, thế giới ñồ
vật chen lấn, chèn ép cuộc sống tinh thần. Đó là khoảng không gian xác thực
bắt buộc con người phải bộc lộ ñến tận cùng bản chất của mình, không có cơ
hội lảng tráng trách nhiệm cá nhân, không gian ñó làm cho mọi trò của con
người diễn bị lật tẩy. Nó tham gia vào cuộc ñời mỗi người, gắn liền với buồn
vui, với cảm quan ñời sống. Đồng thời, nó cũng là nơi chen chúc những dục
vọng tầm thường và những ảo tưởng thê thảm của kiếp người bị tha hoá. Với
tư cách là những người ñi sau, tiếp thu thành quả nghiên cứu của người ñi
trước, dưới ñây, chúng tôi xin ñi sâu nghiên cứu về không gian bối cảnh xã
hội trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
1.1. Không gian bối cảnh xã hội
R. Wellek cho rằng: “Văn học là một thể chế của xã hội, sử dụng ngôn
ngữ làm phương tiện biểu ñạt và cũng là một tạo vật của xã hội” [34; 157].
Trên bình diện không gian bối cảnh xã hội trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp chúng tôi nhận thấy, nhà văn có nhiều sáng tạo bất ngờ ñộc ñáo. Tất cả
14
mọi không gian, nhân vật ñều có thể coi là sân khấu ñể làm trò, từ trò từ thiện,
trò hiếu ñễ, trò cưới xin, trò sinh nhật, trò làm quan…Nguyễn Huy Thiệp
cũng tỏ ra thông hiểu nhiều vùng miền, nhiều thế hệ và nhiều thời ñại. Vì vậy,
không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của ông thực sự phong phú và chính
xác. Bên cạnh những không gian êm ñềm thơ mộng của cảnh sắc thiên nhiên,
sông núi, Nguyễn Huy Thiệp còn tạo ra không gian bối cảnh xã hội “tươi
ròng sự sống”. Nó có thể là không gian trong lòng thuyền, trong phòng khách
và trong phòng ngủ của thị dân: không gian chật chội của cửa hàng vàng bạc
bà Thiều; “phòng ngủ” của Diệu, cô Phượng học thức; “căn bếp” nhà lão
Kiền. Ở ñấy, thói phàm tục của con người ñã diễn ra ñể mặc cả mua bán tâm
hồn, vừa lưu manh, vừa trơ trẽn. Tất cả, ñược thể hiện rất rõ qua tính chất
“láo nháo thản nhiên rất ñời và ô trọc”.
1.1.1. Không gian “láo nháo, thản nhiên rất ñời và ô trọc”
Không gian bối cảnh xã hội trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
thường là không gian hẹp, chật chội, rất nhiều các sự kiện, các thông tin ñược
dồn nén. Có khi, là không gian ñể các nhân vật diễn trò sân khấu: (Không có
vua), không gian của nhà có cả ñám ma lẫn ñám cưới (Tướng về hưu). Cũng
có khi, không gian ñó còn rất ô trọc, và rất tục. Đó là không gian của cái “chợ
phân” họp trong một tiếng ñồng hồ (Chuyện ông Móng), không gian của “cái
cống” (Huyền thoại phố phường), không gian ở “bến xe” với những tên ñể ria
con kiến mắt hau háu ñang ngắm nhìn những cô nàng “bò lạc”.
Tính chất sân khấu trong không gian gia ñình lão Kiền là một minh
chứng ñiển hình. Sau khi nhìn trộm con dâu tắm, bị bắt quả tang, lão Kiền cố
vớt vát lấy chút sĩ diện, bảo Đoài: “Bây giờ mày giống ñào kép diễn trên tivi”
[110; 51]. Chỉ một không gian hẹp mà hai cha con ñã làm hai nghề khác nhau,
ñủ cho thấy tính chật chội, bon chen, nhốn nháo: “Nhà lão Kiền trông ra mặt
ñường. Lão làm nghề chữa xe ñạp. Cấn làm nghề cắt tóc ” [110; 42]. Nó còn
15
hẹp hơn nữa khi nhà văn miêu tả: “Lão Kiền loay hoay dưới bếp, nghe tiếng
dội nước ở trong buồng tắm thở dài, bỏ lên nhà. Đi vài bước, lão Kiền quay
lại vào trong bếp, bắc chiếc ghế ñẩu, trèo lên nín thở ngó sang buồng tắm”
[110; 50]. Có thể khẳng ñịnh, không gian trong gia ñình này rất chật vì mọi
sinh hoạt cá nhân họ phải “cúi xuống rất thấp”, hay “loay hoay”, “lúi húi”,
“quanh quẩn”.
Theo thống kê của chúng tôi, trong truyện, từ bếp nhắc lại 10 lần; nhà
nhắc lại 53 lần; căn phòng nhắc lại 03 lần; cửa nhắc lại 12 lần; và buồng
nhắc lại 06 lần. Tuy nhiên, sự lặp lại của những từ ngữ này, tự nó chưa phải
là không gian nghệ thuật. Chúng chỉ trở thành không gian nghệ thuật trong
quan niệm biểu hiện mô hình thế giới của tác giả. Vì vậy, căn nhà xuất hiện
với tần số cao nhất, trước hết, nhằm biểu thị tính chất chật chội, bon chen
nhốn nháo, và ñồng thời cũng chính là không gian trung tâm của truyện. Rất
nhiều những biến cố, sự kiện, những suy nghĩ, hành ñộng của nhân vật diễn
ra trong không gian nhà ở, căn phòng, gian bếp mặc dù nhà văn không trực
tiếp miêu tả không gian ñó. Ngay ñến căn buồng là nơi kín ñáo nhất, nhưng
lại là chỗ ñể Khảm “xúc trộm gạo cho vào cặp”. Do ñó, không gian cư trú
như một “sợi dây vô hình” thắt ngặt con người. Dường như trong gia ñình
lão Kiền mọi trật tự cha - con, chồng - vợ bị ñảo lộn: họ chì chiết nhau, hạ
nhục nhau, tìm cách “tống cổ” nhau và thậm chí còn mong nhau…chết!
Trong một “không gian bệnh viện” tức không gian hẹp, không gian có
mái che và bên ngoài là không gian hành lang, chúng ta ñã thấy sự ñối lập:
Trong phòng, các bác sĩ ñang lo lắng mất 42 phút mổ khối u ñể cứu lão Kiền,
vậy mà, ở ngoài, Đoài lại thản nhiên nghĩ ñến “tài sản không biết chia chác
thế nào”. Chứng kiến sự ñối lập giữa hai không gian ñó, người ñọc không chỉ
cười mà còn cám cảnh ghê tởm trước một trí thức “giả cầy” làm việc trong Bộ
giáo dục: “Đoài bảo: Ông cụ ñi rồi, thật may quá!” [110; 56]. Với Đoài,
16
không gian gia ñình thực sự là nơi ñể hắn diễn trò phỉnh nịnh, hắn chẳng từ
một ai. Đoài manh tâm dục vọng với cả chị dâu “nhìn chăm chú vào khoảng
lõm ở ngực chị”, mặt khác, hắn không cũng hề có chút tình cảm với ñứa em
thủ túc bị tật nguyền. Đoài dùng ngay chính “căn phòng cạnh nhà xí, trước là
chuồng lợn, nay ñể than củi. Cánh cửa bằng gỗ thùng ñóng ghép” [110; 49] ñể
nhốt em mình trong ngày giỗ mẹ. Có thể thấy, Nguyễn Huy Thiệp ñã cho hắn
bộc lộ hết mình một cách không cần giấu diếm, thậm chí, nhiều khi còn ñể
hắn bộc lộ thái ñộ sống sượng: “Ở ñâu không biết, chứ ở cái nhà này “lá vàng
còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống” là chuyện thường tình” [110; 44].
Như vậy, chỉ vẻn vẹn trong không gian một gia ñình nhỏ hẹp ta ñã thấy
hiện lên rất nhiều nhân vật mà nhân vật nào cũng có tính cách riêng. Tất cả
những nhân vật ñó cùng ngồi chung mâm, chung bát với nhau: “ăn cơm chẳng
ai mời ai, sáu người ñàn ông ai cũng cởi trần…chan chan húp húp như rồng
cuốn” [110; 42]. Qua không gian của gia ñình lão Kiền, ta thấy, ñó là nơi nhà
văn thể hiện sâu sắc nhất những quan niệm bản thân về cuộc sống, về con
người và ñược chuyển hóa vào trong những hình tượng nghệ thuật. Bằng khát
vọng thể hiện cuộc sống trong chiều rộng vô cùng, chiều sâu vô tận, nhà văn
ñã ñưa vào tác phẩm của mình một không gian ña chiều, lưỡng diện.
Nghiên cứu không gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng
tôi còn thấy, dường như tác giả ñã tiếp nối các nhà văn hiện thực tiền bối như
Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, ñể bày tỏ thái ñộ phê phán
tố cáo quyết liệt ñối với những gì xấu xa, phi lí, ñó là: “thái ñộ châm biếm
phủ nhận hoàn toàn hiện tượng bị cười nhạo và dùng lí tưởng nằm ngoài hiện
tượng này ñể ñối lập với nó” [08; 98]. Qua mỗi dòng văn lạnh lùng kiêu bạc
của nhà văn, người ñọc dễ dàng nhận thấy tác giả không khoan nhượng trước
những không gian lố bịch, khả ố và ô trọc: “Một huyện lị trung du hẻo lánh có
khoảng ba chục ngôi nhà xây cất tạm bợ mà có tới gần chục ñiểm giải khát ăn
17
uống” [110; 340]. Trong ñó lại “có ba ñiểm trá hình buôn bán gái mại dâm”, ở
ñấy, họ “chơi gái với năm nghìn trong túi” [110; 340]. Nhìn bề ngoài một
không gian làng quê hẻo lánh tưởng như yên bình, nhưng kỳ thực bên trong
nó ñã băng hoại nhiều về ñạo ñức.
Không chỉ có thế, ở Tướng về hưu Nguyễn Huy Thiệp còn sáng tạo một
không gian nghệ thuật, mà qua ñó tác giả ñã làm lay ñộng, ray rứt lương tri
người ñọc. Đó là không gian diễn ra những sự kiện, những biến cố vừa hào
hùng vừa ñau ñớn ñược ñan cài vào số phận cá nhân vừa là một anh hùng
nhưng lại là “nạn nhân” của con người trót ñược “phong thánh”. Ta ñã biết,
tướng Thuấn là niềm tự hào của gia ñình, dòng họ, ông cũng là người hùng
thỏa mãn: “Việc lớn trong nhà cha làm xong rồi” [110; 15]. Nhưng nghiệt ngã
thay, vị tướng tài ba này vẫn bị bủa vây bởi những qui luật mưu sinh khắc
nghiệt: “Một hôm tôi ñi làm về, cha tôi ñứng ở dãy nhà nuôi chó và gà công
nghiệp” [110; 17], nó không còn là không gian của “ñường ra trận mùa này
ñẹp lắm!” [110; 28], thay vào ñó, là thực tế cuộc sống với không khí tranh
giành, thực dụng, dối trá vây quanh ông. Một vị tướng, xưa tung hoành ngang
dọc, vậy mà, lúc nghỉ hưu lại bị cầm chân trong một không gian thường nhật
chỉ ñể mưu sinh cuộc sống. Không gian chiến trận xưa trong ông, ñôi lúc cũng
có hiện về, nhưng giờ chỉ là không gian trong miền hồi ức: “Cậu còn nhớ cái
xóm ở ven ñường cô Huệ ñã làm bánh trôi bằng bột mì mốc” [110; 18].
Đối sánh giữa không gian chiến trận của tướng Thuấn ngày xưa và
không gian thực tại tướng Thuấn bây giờ, ta chứng kiến ñược con người ở cả
hai phương diện xã hội và cá nhân. Sự ñối lập này cho thấy, nhà văn ñã tạo
nên một không gian ngổn ngang sự kiện, một thế giới tan rã thành muôn
mảnh, một thế giới bộn bề vụn vặt, khoảng cách giữa tốt và xấu ñan xen, lơ
lửng. Ngay việc tướng Thuấn thương người, ngay thẳng, lên án việc kiếm tiền
của cô con dâu thực dụng, nhưng bản thân ông lại không tự xem lại việc dùng
18
uy tín của một vị tướng ñể thu xếp những việc họ hàng nhờ vả. Tướng Thuấn
là người duy nhất biết “cả tin là sức mạnh ñể sống” [110; 28], nhưng oái oăm
thay, cũng lại là người ñi tìm cái chết trong niềm tin ñã lỗi thời!
Cũng ngay ở Tướng về hưu, bao ñiều giả dối và ngụy tạo, nhốn nháo,
hiện diện ngay trong không gian một ñám cưới: “Đám cưới ngoại ô lố lăng và
khá dung tục…Năm mươi mâm cỗ như ế mười hai”, “lời ca tiếng hát khủng
khiếp thật là một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất ñời, thậm chí rất ô trọc”
[110; 19]. Đó còn là những âm thanh hỗn tạp ñối nghịch với dàn nhạc sống
Abba và những ca từ “hiện ñại” không biết họ nhặt ở trại lính nguỵ quân hay
ở ñâu về. Chứng kiến không gian ấy, ta thấy con người sống trong một thế
giới tưởng chừng như không có một trật tự nào nữa: Ông Vụ phó thông gia
hoảng hốt, luống cuống làm “ñổ cả rượu xuống váy cô dâu”; “Thằng Tuân
cầm dao chém bố may trượt” [110; 19]. Đó thực sự là thế giới “ê chề”, thế
giới “không có vua”, “biển không có thuỷ thần”, cha không ra cha, con chẳng
ra con, anh em chồng vợ mập mờ trong những mối quan hệ trắng ñen, bất
chính! Lồng ngược cái bi vào trong cái hài, Nguyễn Huy Thiệp ñã tiếp cận
một khuynh hướng khá ñặc biệt của văn học hiện ñại, chia sẻ cảm giác lo âu
của con người trước một trạng thái sống bất ổn và ñầy bất trắc. Ở ñó, cái ác
thường sừng sững và lẫm liệt còn cái thiện thì thường cả tin ngu ngơ mỏng
manh và yếu ớt: “Tôi bảo vợ tôi: “Anh ñi nhé?” Vợ tôi bảo: “Đừng ñi. Mai
anh sửa cửa nhà tắm, cái cửa hỏng rồi. Hôm nọ cái Mi ñang tắm, thằng Khổng
ñi qua ñịnh dở trò ñểu” [110; 27].
Một ñiều dễ thấy, cho dù không gian trong truyện của Nguyễn Huy
Thiệp có hư cấu nhiều ñi nữa, cũng chỉ nhằm phơi bày một hiện thực trần trụi,
cay ñộc và lạnh tanh, chua xót: “Từ nhà tôi ra nghĩa ñịa ñi tắt chỉ năm trăm
mét nhưng ñi ñường chính ra cổng làng phải hai cây số. Đường bé, không ñẩy
xe ñòn ñược mà phải khiêng vai…Họ khênh quan tài hồn nhiên như việc bình
19
thường…Có người nằm lăn ra nói mát thật” [110; 24]. Nó còn chua xót hơn
nữa khi nhà văn miêu tả: “Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc chính là
phá thai…Cha tôi dắt tôi xuống bếp chỉ vào nồi cám trong ñó có những mẩu
thai nhi bé xíu” [110; 20]. Người ñọc không thể thờ ơ trước một hiện thực ñầy
phi lí, nhưng nó vẫn ngang nhiên tồn tại giữa cuộc sống ñời thường, mà tồn
tại nhiều nữa ñằng khác. Đành rằng, trong cuộc sống ñầy lo toan vất vả, ñầy
tranh chấp bon chen, con người phải suy tính, phải lao tâm khổ tứ ñể tồn tại.
Nhưng trước cái chết của ñồng loại mà họ vẫn ngang nhiên vui vẻ, vẫn thờ ơ
một cách vô tư theo kiểu “ai ñồng ý bố chết giơ tay” thì thật là ngán ngẩm.
Trong Giọt máu không gian sinh nhật diễn ra mới thật lạ kì, khi cuộc
sống ở quê toàn ñói khổ nhưng Phong lại làm cỗ to mời khách, khách ở Hà
Nội về hơn ba chục vị “ô tô ñậu kín một ñoạn ñê…Mấy ông kì mục trong làng
dùng ngón tay nhón bánh bỏ vào mồm, dây bơ ra cả ngón tay, thấy bẩn lại bôi
xuống chiếu” [110; 262]. Tính chất “láo nháo” nằm ngay ở chỗ: “Phong tổ
chức sinh nhật linh ñình, ăn uống xa hoa”, thế nhưng, vô tình bộc lộ rất rõ “sự
quê mùa nhếch nhác”.
Bên cạnh ñó, không gian thường ngày láo nháo thản nhiên rất ñời, ô
trọc ñược thể hiện ngay ở bến xe: “Chúng tôi ñến Hà Nội tìm ñến bến xe ñi
Tây Bắc. Anh Bường bảo: Chúng mày cẩn thận ở Hà Nội ăn cắp như rươi, nó
thỉnh mất bộ cưa thì ăn mày ñấy” [110; 99]; “có ông ñeo kính, ñể râu con kiến,
tuổi bằng bố tôi bảo: “Cô em ơi, cô em ñi với anh ñi” [110; 99 ]. Đó là không
gian diễn ra chạm trán tay ñôi với lối nói vỗ mặt ñối tượng. Trong bối cảnh
chật hẹp, thời gian ngắn ngủi, khoảng cách giao tiếp bị kéo gần lại, các nhân
vật va chạm với nhau, ñẩy nhau vào tình thế ñối ñầu.
Ngay trong không gian của “lòng thuyền” chật hẹp ñã có sự ñan xen rất
nhiều “hạng” người trong xã hội: Bọn buôn ñồ cổ gian manh, ông giáo mở
miệng toàn nói ñạo ñức, nhà thơ thì mơ mộng Truyện ngắn Sang sông
20
chính là hành trình trở về với giá trị thực, khác xa những gì giả dối bản chất
bên trong con người. Trên thuyền, cặp tình nhân ñang “giở trò khỉ”, và cô
gái chỉ ñáng cho thiếu phụ rủa là “ñồ ñĩ” nhưng trước tai hoạ của chú bé,
chàng trai ñẩy cô gái ra và tháo chiếc nhẫn ñưa cho tên buôn ñồ cổ. Trong
khi ñó, thiếu phụ ba mươi hai tuổi xinh ñẹp chỉ biết kêu: “Làm sao bây giờ?”,
nghe thấy tiếng “con cá diếc” ñã luống cuống khép ñùi lại, khác với vẻ ñài
các bên ngoài, trong lòng thiếu phụ lại là người dửng dưng nhất.
Từ những phân tích ở trên, chúng tôi nhận ñịnh rằng, không gian xã hội
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là không gian “láo nháo thản nhiên rất
ñời, rất ô trọc” con người không có hoài bão, xã hội không có tương lai. Ở
ñấy, con người luôn thường trực cảm giác bất an về một xã hội hiện ñại ngổn
ngang, phi nhân tính. Tâm lí hoài nghi chán chường phản kháng, chối bỏ của
con người luôn ñược coi là thời thượng. “Nhà văn chẳng giải thích dài dòng,
chẳng dùng những từ ñao búa, chỉ viết những lời ai ai cũng hiểu ñược mà tạo
nên cả một bầu không khí ñiên ñầu trong ñó không ai có thể hiểu ai” [77; 48].
1.1.2. Không gian tù ñọng quẩn quanh, bế tắc
Nghiên cứu không gian tù ñọng quẩn quanh bế tắc trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi chú ý ñến tính chất khép kín của không gian
làng quê, không gian hẹp. Ta thấy ở ñấy, nông dân ñang bị tha hóa dần bởi
thú văn hóa thấp kém, trì níu bởi không khí tù ñọng ngột ngạt: “Không khí u
uất, tù ñọng của làng quê làm tôi tái tê cảm giác chua xót. Mọi người rối rít
cuống cuồng ñể kiếm miếng ăn” [110; 80]. Những con người ñầy những
thành kiến ngộ nhận, ñã ñánh mất những gì làm nên niềm vui của cuộc ñời.
Cuộc sống ñối với họ ñơn thuần chỉ là ñấu tranh ñể kiếm miếng ăn, vui lòng
với thứ văn hóa “lá cải”. Những “mảnh ñất cằn ñã làm cho con người trở nên
ti tiện”, những ñịnh kiến hẹp hòi và thói ñạo ñức giả ñã làm thoái hóa bản
chất của con người, phần người trong mỗi con người lương thiện: “Tất cả dân