THỂ LỰC CỦA HỌC SINH LỚP 9 TRƯỜNG THCS VĨNH MỸ
A HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
I./ ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
nhằm tiến tới “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh” Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng và Nhà nước ta
luôn khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển mọi mặt trong đời
sống xã hội.
Trong đó việc tập luyện thể dục thể thao là một trong những vấn
đề không kém phần quan trọng trong cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
trong giai đoạn hiện nay. Cho nên ngành thể dục thể thao nói chung và
thể dục thể chất nói riêng luôn luôn tiếp thu, bổ sung, đổi mới và ngày
càng hoàn thiện để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Hoàn thiện về thể chất để có thể phát triển một cách toàn diện, nhịp
nhàng, hài hòa kể cả về hình thái và chức năng thể lực. Vì thể lực
cường tráng mới có khả năng thích ứng tốt nhất với điều kiện sản
xuất, chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc.
Trường THCS Vĩnh Mỹ A đang được sống trong điều kiện hiện
vật chất lẫn tinh thần cao hơn hẳn so với cha ông thuở trước. Theo lẽ
tự nhiên, khi cơ thể được đáp ứng đầy đủ chất dinh dưỡng, điều kiện
cơ sở vật chất, tinh thần được nâng cao sẽ là tiền đề tốt cho sự phát
triển các tố chất thể lực cũng như sức khỏe con người. Tuy nhiên, qua
nhiều năm theo dõi kết hợp với cân, đo, đong, đếm ở học sinh Lớp 9
trường THCS Vĩnh Mỹ A , tôi thấy khả năng của các em so với “
Tiêu chuẩn rèn luyện thân thể” (áp dụng cho học sinh THCS hiện
1
nay) đang có chiều hướng chựng lại và giảm sút ở nhiều mức độ khác
nhau.
Nguyên nhân nào dẫn đến sự bất cập ở trên? Làm thế nào để
giúp học sinh phát triển hài hòa giữa dáng vẻ bên ngoài và thể chất –
sức khỏe trong khi điều kiện sống của các em ngày càng được đáp ứng
tốt hơn? Đó là điều bản thân tôi luôn trăn trở và tìm hướng giải quyết.
II. NỘI DUNG
Để đạt được mục đích trên, từ năm 2010 đến nay, tôi luôn ghi
các kết quả kiểm tra ngẩu nhiên ở học sinh Lớp 9, lứa tuổi đủ 16 ở
Trường THCS Vĩnh Mỹ A để cùng đồng nghiệp xem xét, từ đó từng
bước đề ra hướng đi phù hợp trong chuyên môn của mình.
1. Số liệu thống kê:
Bảng 1- TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ:
Mức Nội dung kiểm tra Nam Nữ Ghi chú
Đạt
1- Chạy nhanh 80 m
2- Bật xa tại chỗ (cm)
3- Chạy 1000m nam, 500 m nữ
( Ph,s)
4- Chống đẩy nam 30’’; nữ 10’’
12’’8
195cm
4’10
16 lần
14’’8
160cm
2’6”
4 lần Thay cho
đẩy tạ
Khá 1- Chạy nhanh 80 m (s)
2- Bật xa tại chỗ (cm)
3- Chạy 1000m nam; 500m nữ
12”2
205cm
3’55’’
14”00
170cm
2’00
2
(Ph,s)
4- Chống đẩy nam 30’’; nữ 10’’
20 lần 16lần Thay cho
đẩy tạ
Giỏi
1- Chạy nhanh 80 m (s)
2- Bật xa tại chỗ (cm)
3- Chạy 1000m nam; 500m nữ
(Ph,s)
4- Chống đẩy nam 30’’; nữ 10’’
11’’6
215cm
3’45’’
24 lần
13’’5
180cm
1’50’’
8 lần Thay cho
đẩy tạ
3
Bảng 2a: - KẾT QUẢ THU ĐƯỢC CỦA (NAM) QUA
KIỂM TRA ĐẦU NĂM HỌC:
Năm học; số
lượng; chiều
Nội dung
kiểm tra
Mức tỉ lệ%
Giỏi 5 Khá % Đạt %
Chưa
đạt %
- 2010 -2011
-60 học sinh:
- Cao TB: 1
m
53
Nặng TB:44,5
kg
1- Chạy 80 m
2- Bật xa
3- Chạy 1000
m
4- Chống đẩy
30”
20
(33,3)
25
(41,7)
28
(46,7)
21 (35)
30(50)
35
(58,3)
35
(58,3)
37
(61,7)
10
(16,7)
5 (8,3)
2 (3,3)
2 (3,3)
0
0
0
0
- 2011 - 2012
- 65 học sinh
- Cao TB:1
m
53
- Nặng TB:46,5
kg
1- Chạy 80m…
2- Bật xa…
3- Chạy 1000
m
4- Chống đẩy
30”
18
(37,0)
24
(35,2)
15(23,1)
19
(29,2)
28
(46,3)
36
(48,1)
30
(46,1)
31
(47,7)
19
(16,7)
15
(16,7)
10
(15,4)
8 (12,3)
0
0
10(15,4)
7 (10,8)
- 2012 - 2013
- 50 học sinh
- Cao TB:1
m
54
- Nặng TB:46,2
kg
1- Chạy 80m
2- Bật xa
3- Chạy 1000
m
4- Chống đẩy
30”
8 (16)
7 (14)
5 (10)
8 (16)
22 (44)
25 (50)
20 (40)
25 (50)
12 (24)
12 (24)
15 (30)
15 (30)
8( 16)
6 (12)
10 (20)
2 (4)
- 2013 – 2014
- 55 học sinh
- Cao TB:1
m
56
1- Chạy 80m
2- Bật xa
3- Chạy 1000
m
10 (18,2)
7 (12,7)
4 (7,3)
20
(36,4)
23(4,2)
15
(27,3)
12
10(18,2)
13(23,6)
12(21,8)
4
-Nặng TB:46,5
kg
4- Chống đẩy
30”
8 (14,5)
25
(45,5)
32
(58,2)
(21,8)
14
(25,5)
10
(18,2)
05 (9,1)
5
Bảng 2b: - KẾT QUẢ THU ĐƯỢC CỦA (NỮ) QUA
KIỂM TRA ĐẦU NĂM HỌC:
Năm học; số
lượng; chiều
Nội dung
kiểm tra
Mức tỉ lệ%
Giỏi 5 Khá % Đạt %
Chưa
đạt %
- 2010 -2011
-50 học sinh:
- Cao TB: 1
m
52
Nặng TB:43 kg
1- Chạy 80 m
2- Bật xa tại chỗ
3- Chạy 500
m
4-Chống đẩy
10”
15 (30)
14 (28)
16 (32)
17 (34)
30 (60)
25 (50)
28 (56)
23 (46)
5 (10)
11 (22)
6 (12)
10 (20)
0
0
0
0
- 2011 - 2012
- 45 học sinh
- Cao TB:1
m
53
- Nặng TB:46,5
kg
1- Chạy 80m
2- Bật xa tại chỗ
3- Chạy 500
m
4- Chống đẩy
10”
13 (28,9)
12 (26,7)
10 (22,2)
11 (24,4)
22 (48,9)
25 (55,6)
18 (40)
20 (44,4)
10 (22,2)
8 (17,8)
12 (26,7)
8 (17,8)
0
0
5(11,1)
6(13,3)
- 2012 - 2013
- 23 học sinh
- Cao TB:1
m
54
- Nặng TB:44
kg
1- Chạy 80m
2- Bật xa 5 tại
chỗ
3- Chạy 500
m
4- Chống đẩy
10”
3 (13,0)
4 (17,4)
2 (8,7)
3 (13,0)
13 (56,5)
10 (22,2)
14 (60,9)
11 (24,4)
5 (21,7)
6 (26,1)
4 (17,4)
7 (30,4)
2(8,7)
3(13,0)
3(13,0)
2(8,7)
- 2013 – 2014
- 50 học sinh
- Cao TB:1
m
58
- Nặng TB:46
kg
1- Chạy 80m
2- Bật xa tại chỗ
3- Chạy 500
m
4- Chống đẩy
10”
8 (16)
7 (14)
5 (10)
6 (12)
20 (40)
25 (50)
23 (46)
21 (42)
10(20)
11 (22)
12 (24)
14 (28)
12(24)
7(14)
10(20)
9(18)
* Phụ chú : - Cân đo cùng thời điểm buổi sáng, học sinh chưa ăn
sáng.
6
- TB chiều cao, cân nặng bằng TB cộng của tổng số học
sinh kiểm tra.
2. Nhận xét:
Qua hai bảng số liệu thu được của Nam và Nữ qua các năm ta
thấy :
- Chiều cao và cân nặng của nam và nữ vẫn duy trì hoặc tăng
nhẹ qua các năm.
- Tỷ lệ phần trăm học sinh kiểm trả đạt mức giỏi, khá ở cả 4 nội
dung đều có chiều hướng chững lại và giảm sút, trong khi đó mức đạt
và chưa đạt tăng lên.
- Dao động của tố chất nhanh, bền (chạy 80m ; chạy 1000m
nam, 500m nữ ) diễn ra nhanh hơn ở học sinh nam.
3. Nguyên nhân :
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó là quy mô “gia đình ít con”
cùng với sự quan tâm “ trên mức cần thiết” của nhiều phụ huynh vô
tình đặt lên vai nhà trường phổ thông gánh nặng phải giải quyết về sự
hài hòa giữu hình thái bên ngoài với sức khỏe, thể chất của con em họ.
Sự chu đáo thái quá của các bậc phụ huynh làm cho sản phẩm ăn
theo liên tục phát triển là mối lợi bất đến con em chúng ta. Sữa, chất
dinh dưỡng liên tục được cải tiến về chất lượng, bổ sung nhiều DHA,
vitamin, muối khoáng… nhằm trị biếng ăn, tăng cường chiều cao, trí
thông minh… ở một mức độ nào đó đã cải thiện được hình hài dáng
vóc cho con em chúng ta nhưng nó cũng làm cho không ít trẻ bị “suy
dinh dưỡng ngược” suy dinh dưỡng thể phù ở Việt Nam hiện nay
không còn là chuyện lạ.
Sức khỏe, thể lực của học sinh vì thế mà bị ảnh hưởng theo
chiều hướng không tốt.
7
Nguyên nhân thứ hai phải kể đến là các loại hình vui chơi giải trí
hiện tại không những làm mai một bản sắc và văn hóa dân tộc, mà còn
bào mòn thể chất, sức khoẻ của con người nói chung và lứa tuổi học
sinh nói riêng. Đã có không ít trường hợp gục ngã trên bàn phím bởi
thiếu ăn, thiếu ngủ, thiếu vận động vì sự hấp dẫn của game online và
các chò chơi điện tử khác ( báo tuổi trẻ ra ngày 20-3-2007 đã đăng).
Nguyên nhân thứ ba phải kể đến là sự “ đói vận động”. Vấn đề
này thể hiện ở nhều khía cạnh : lượng học sinh ngày một đông trong
khi không gian trương lớp không lập mở rộng( diện tích trường THCS
V ĩnh Mỹ A gẩn 2300m
2
, không gian ngoài trường học ngày càng
bị hẹp do tốc độ phát triển đô thi hóa; bản thân học sinh chưa ý thức
tốt vấn đề tự rèn luyện (ít phải lao động chân tay ít vận động nên càng
“đói vận động”).
Bên cạnh đó cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học bộ môn thể
dục còn thiếu thốn, không đồng bộ cũng ảnh hưởng không tốt đến sự
dạy học của giáo viên cũng như học sinh.
4. Hướng khắc phục giải quyết:
Qua bảng số liệu thống kê (trang 3 và 4 của đề tài này), cũng
như một số nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe, thể lực
của học sinh ở trên; chúng ta thấy rằng: Sức khỏe của con người
không phải có sẵn; nó cũng không hoàn toàn đúng và tỉ lệ thuận với
chiều cao, cân nặng cũng như dáng vóc bên ngoài. Muốn có sức khỏe
tốt, ngoài vấn đề ăn uống đầy đủ, hợp vệ sinh còn phải thường xuyên
luyện tập TDTT một cách khoa học. Bác Hồ – vị lãnh tựu muôn vàn
kính yêu của dân tột ta, lúc sinh thời vẫn coi việc luyện tập TDTT là
một trong những công tác cách mạng. Trong “lời kêu gọi toàn dân tập
thể dục” năm 1946, Người viết: “giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà,
gây đời sống mới… việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công”.
8
Người khuyên đồng bào ta muốn có sức khỏe tốt thì phải siêng năng
luyện tập TDTT. Chính Bác “tự tôi ngày nào cũng tập” để làm gương
cho mọi người.
Trong lĩnh vực chuyên môn của mình, là giáo viên dạy TDTT,
tôi luân nghĩ rằng: thể lực chính là khâu đột phá để phát triển sức
khỏe, tăng cường thể chất cho học sinh!
Theo tôi, thể lực (bao gồm cả thể lực chung, thể lực chuyên
môn) là khả năng, năng lực của cơ thể nhằm thực hiện và hoàn thành
công việc, lượng vận động… cụ thể nào đó thể hiện ở sức nhanh,
mạnh, bền bỉ, khéo léo phối hợp vận động. Phát triển tốt các tố chất
thể lực ấy không những giúp học sinh cuối năm đạt “tiêu chuẩn rèn
luyện thân thể” mà còn không ngừng tăng cường sức khỏe, thể lực, tạo
tiền đề tốt cho các em đi sâu lĩnh hội về TDTT nếu có khả năng đồng
thời góp phần vào nhiệm vụ chung của nhà trường trong việc phát
triển con người toàn diện.
Sau đây là một số việc bản thân đã và đang làm thấy có hiệu quả
trong việc phát triển thể lực cho học sinh.
a. Phát triển sức nhanh:
Sức nhanh (một trong những tố chất quan trọng nhất) là khả
năng hoạt động với tốc độ cự hạn. Các hình thức biểu hiện sức nhanh
gồm;
- Thời gian tiềm phục của phản ứng vận động
- Tốc độ của động tác đơn
- Tốc độ ban đầu của động tác
- Tần số của động tác.
Những yếu tố ảnh hưởng đến sức nhanh gồm :
- Độ linh hoạt của các quá trình thần kinh.
- Sức mạnh tốc độ.
9
- Đàn tính có bắp và khả năng thả lỏng.
- Trình độ kỹ thuật.
- Sức mạnh ý chí.
- Các cơ chế sinh hóa đảm bảo cho động tác mang tính chất tốc
độ.
Xuất phát từ những yếu tố trên, để phát triển sức nhanh tôi
thường sử dụng các bài tập lập lại nhiều lần vời tốc độ nhanh gần bằng
tốc độ cực hạn hoặc cố gắng nhanh hơn khả năng (chạy tăng tốc các
đoạn ngắn 30m – 40m). Tập nâng cao tần số bước (chạy bước nhỏ
theo nhịp vỗ tay tăng dần…), chạy xuống dốc cầu, thi đấu trước kiểm
tra… nhằm tăng tính hưng phấn, kích thích khả năng thực hiện bài tập
với tốc độ tối đa.
Bên cạnh đó, khi tập phát triển sức mạnh, phát triển tốc độ, nếu
chỉ sử dụng các bài tập đơn điệu kéo dài và không đề ra các yêu cầu
cao đối với cơ thể, đối với sự phát triển thể lực và phẩm chất ý chí sẽ
dẫn đến sự kìm hãm tốc độ (còn gọi là hiện tượng “Chặn tốc độ”). Để
phá bỏ hiện tượng này về nguyên tắc cần phải thực hiện những động
tác hết sức nhanh, trong các điều kiện dễ hơn bình thường. Có thể sử
dụng những biện pháp sau:
+ Lập lại các động tác với tốc độ hết sức nhanh có tập trung cao
độ ý chí và tâm lý.
+ Hướng các hành động vào đích cụ thể: Chạy theo vật dẫn,
nhảy chạm vật chuẩn.
+ Thực hiện bài tập trong điều kiện khó khăn sau đó chuyển
ngay vào điều kiện bình thường.
+ Tập luyện dưới hình thức thi đấu. Tập với mục đích tăng tần
số động tác tới cực hạn: Chạy nâng cao đùi tại chỗ, chạy theo nhịp…
10
Tóm lại: Để ngăn ngừa và xóa bỏ hiện tượng “chặn tốc độ” và
tăng sức nhanh lên mức cao hơn cần phải tập theo nguyên tắc:
+ Tạo ra nền tảng chuyên môn (tăng sức mạnh đàn tính cơ bắp,
tăng độ linh hoạt các khớp xương, tăng sức bền chuyên môn).
+ Thực hiện bài tập với tốc độ nhanh nhất trong điều kiện bình
thường.
+ Tập xuyên suốt mỗi ngày từ thời kỳ đầu cho đến chuẩn bị thi.
b. Phát triển sức mạnh:
Sức mạnh là một trong những yếu tố để đạt thành tích cao trong
chạy ngắn, các môn nhảy và ném đẩy. Trong các môn ấy sức mạnh
được thể trong khoảng thời gian ngắn với công suất lớn.
Khả năng thể hiện sức mạnh phụ thuộc vào khả năng phối hợp
thần kinh cơ, khả năng nỗ lực ý chí, số lượng cơ bắp tham gia.
Các hình thức khác nhau của năng lực sức mạnh có liên quan
chặt chẽ với nhau. Vì vậy khi tập luyện cho học sinh cần thiết phải lựa
chọn bài tập cũng như phương pháp để đạt được định mức đề ra. Cần
dành sự tập trung cho các nhóm cơ trực tiếp tham gia vào hoạt động
của môn đã chọn. Để hoàn thành khả năng phối hợp thần kinh cơ
trong các hoạt động đòi hỏi sức mạnh lớn, cần phải sử dụng các bài
tập với sự nổ lực luôn thay đổi. Để phát triển kỹ năng thể hiện sức
mạnh tối đa cần áp dụng các phương pháp gắng sức tối đa và lớn.
Sức mạnh trong các hoạt động đa dạng gọi là sức mạnh chung;
thường được tập luyện trong thời kỳ chuẩn bị chung. Để phát triển sức
mạnh chung có thể sử dụng đa dạng các bài tập hoặc tổ hợp bài tập
sức mạnh khác (bài tập khắc phục trọng lượng bản thân, trọng lượng
phụ; bài tập khắc phục sức mạnh đối kháng cùng bạn tập, bài tập trên
các thiết bị chuyên dùng…).
11
Sức mạnh thể hiện phù hợp với các yêu cầu của môn học cụ thể
gọi là sức mạnh chuyên môn. Sức mạnh chuyên môn được phát triển
thông qua việc sử dụng các bài tập mang đặc điểm cấu trúc giống với
môn TT đã chọn (có thể toàn bộ hoặc từng phần). Trong tập luyện,
cần dành sự chú ý đặc biệt đến các bài tập có trọng lượng như: ném
đẩy các dụng cụ nặng, các bài tập nhảy có mang theo một vật nặng
trên vai hoặc ở chân (tạ, bao cát nhỏ, chì…) bời vì trong các bài tập
như vậy, cấu trúc động tác ít bị thay đổi và sức mạnh được phát triển
trong điều kiện gần giống với môn học của các em.
Các bài tập phát triển sức mạnh được sử dụng nhiều trong thời
kỳ chuẩn bị và giảm trong thời kỳ trước kiểm tra, thi đấu. Các bài tập
chuyên môn chủ yếu mang đặc điểm sức mạnh vẫn được sử dụng
trong thời kỳ kiểm tra, thi đấu. Những bài tập này sẽ có tác dụng duy
trì sức mạnh đã đạt được (thậm chí trong nhiều trường hợp nó còn có
tác dụng nâng cao).
Các bài tập phát triển sức mạnh yêu cầu gắng sức và nổ lực lớn
thường sử dụng gián đoạn trong tuần (đứng lên ngồi xuống trên 1
chân: tuần tập 3-4 buổi; chạy nâng cao gối chạm tay, tuần tập 2-3
buổi; bước bục cao 40-50cm tuần tập 3-4 buổi. Nâng tạ, giật tạ 60-
70% trọng lượng cơ thể ở nhà 3 buổi/ tuần). Các bài tập trong lượng
nhẹ sử dụng tập hàng ngày (nắm bóng cao su nhỏ, tạ đôi…)
c. Phát triển sức bền:
Sức bền là khả năng khắc phục sự mệt mỏi nhằm hoạt động
trong thời gian dài với cường độ nhất định và có hiệu quả. Người ta
chia tố chất bền ra thành nhiều loại: sức bền chung, sức bền chuyên
môn, sức mạnh bền, bền tĩnh lực, bền động lực, bền yếm khí, bền hiếu
khí… trong khuôn khổ của đề tài này, tôi đề cập đến 2 yếu tố cơ bản
đó là sức bền chung và sức bền chuyên môn.
12
Sức bền chung là một thành phần của trình độ huấn luyện thể lực
chung của vận động viên nói chung và học sinh nói chung. Nó được
phát triển thông qua các bài tập thể lực chạy cự ly dài với cường độ
điều hòa. Khi tập như vậy các cơ quan trong cơ thể được củng cố, khả
năng làm việc của các cơ quan được cải thiện, nhất là đối với hệ tim –
mạch và hô hấp; ngoài ra các cơ chân cũng được củng cố hơn (Đi bộ,
chạy bộ được coi là “túc liệu pháp” rất tốt để rèn luyện sức khỏe.
Bàn chân được kích thích, xoa bóp, cải thiện tuần hoàn huyết dịch.
Nếu không thường xuyên đi bộ, chạy bộ, vận động thì các huyết dịch
tuần hoàn sẽ kém, tế bào các đầu mút sẽ thiếu dinh dưỡng dẫn đến
chóng già, học sinh trường THCS Vĩnh Mỹ A nói riêng đa số tới
trường bằng xe đạp, xe máy hoặc cha mẹ đưa rước; rất ít học sinh đi
bộ (dù nhà cách trường vài trăm mét). Sức bền chuyên môn là một
thành phần của trình độ tập luyện chuyên môn, nó được xác định
thông qua mức độ tập luyện chuyên môn của tất cả các cơ quan và hệ
thống, bởi mức độ khả năng thể lực và tâm lý phù hợp với môn học cụ
thể của học sinh. Để phát triển sức bền chuyên môn trong chạy cự ly
trung bình và dài cho học sinh thì việc nâng cao khả năng của cơ thể
nhằm duy trì sự thăng bằng giữa cung và cầu về ôxy trong thời gian
dài cũng như đấu tranh với sự mệt mỏi tăng lên do nợ ôxy đóng vai trò
quan trọng.
Muốn vậy, ngoài việc củng cố và hoàn thiện hoạt động của hệ
thống tim – mạch, hô hấp còn cần cải thiện quá trình trao đỏi chất, làm
tăng hệ số sử dụng ôxy.
Khi tập phát triển sức bền, cần chú ý:
- Thời gian tập kéo dài từ 30 phút trở lên.
13
- Cường độ tập luyện liên tục (nhịp tim từ 150 – 160 lần phút) và
được tính theo công thức: Cường độ tập luyện = (Nhịp tim yên tĩnh +
Nhịp tim tối đa) 60%.
- Khi tập luyện cần phát triển chức năng hô hấp, phối hợp nhịp
hô hấp với tần số động tác (thường 2-3 bước chạy hít vào, 2-3 bước
chạy thở ra); chú ý thở sâu và kéo dài thời gian tập luyện.
- Nghỉ giữa quảng hợp lý (từ 1 1,5 phút), không nên nghỉ quá
3-4 phút. Nghỉ giữa quảng không nên ngưng tập đột ngột mà nên
chạy chậm kết hợp rũ ta chân và hít thở sâu để nhanh hồi phục và giữ
được hưng phấn.
d. Tập luyện phát triển độ mềm dẻo:
Mềm dẻo được coi là tố chất rất cần thiết đối với học sinh vì nó
giúp các em thực hiện được động tác với biên độ lớn. Độ mềm dẻo
của học sinh phụ thuộc vào hình dạng khớp, độ linh hoạt của côt sống,
tính đàn hồi của dây chằng, gân và cơ, trương lực của cơ.
Độ mềm dẻo thay đổi tùy thuộc vào các điều kiện bên ngoài
khác nhau cũng như trạng thái của cơ thể học sinh. Ví như độ linh
hoạt các khớp sẽ kém nhất sau khi ngủ và ăn, khi bị bệnh và mệt mỏi.
Độ linh hoạt sẽ tăng lên sau khi khởi động, làm nóng cơ. Tình trạng
của hệ thần kinh trung ương cũng có ảnh hưởng đến độ mềm dẻo.
Để tăng sự đàn hồi của gân và cơ cần sử dụng các bài tập chủ
động và thụ động được thực hiện với sự giúp đỡ của bạn tập cùng
chiều cao, cân nặng. Các bài tập phát triển độ mềm dẻo có thể cho học
sinh tự ở nhà trong khoảng 15-20 phút. Hợp lý nhất là nên sử dụng
vào buổi tập thể dục sáng.
Trong thời kỳ đầu cần dành nhiều thời gian hơn để phát triển độ
mềm dẻo. Khi đã đạt được độ mềm dẻo ở mức cần thiết thì có thể huy
trì mức đạt được bằng các bài tập mà không mấy khó khăn. Nếu
14
ngừng tập các bài tập chuyên môn về mềm dẻo thì mức phát triển độ
mèm dẻo có thể dần dần bị giảm sút và quay lại mức khởi điểm.
(Các động tác phát triển độ mềm dẻo không nhiều, khoảng 5-6
động tác. Bản thân tự tập được các động tác đá lăng, ép ngang, dọc,
gập duỗi người theo chân; các động tác từ khó hơn như uốn dẻo cần
nhờ bạn tập giúp đỡ).
đ. Phát triển sự khéo léo:
Khéo léo được thể hiện bởi mức cao của sự phối hợp động tác.
Nó cần thiết cho các nhiệm vụ vận động xuất hiện bất ngờ, đòi hỏi
phải nhanh chóng định hướng và thực hiện cấp bách. Học sinh cần
phát triển độ khéo léo đảm bảo an toàn cho bản thân khi bị ngã trong
khi chạy hoặc nhảy…
Trong quá trình tập luyện và kiểm tra, thi đấu, nhiều tác động
bên ngoài có thể làm ảnh hưởng xấu đến kỹ thuật. Nếu học sinh có
khả năng khéo léo tốt thì có thể sửa chữa được các tư thế hoặc động
tác không đúng và thành tích có thể được cải thiện tốt hơn.
Để phát triển sự khéo léo cần tổ chức cho học sinh chơi các môn
bóng. Trong nhảy cao cần thay đổi xà (xa, gần) so với điểm giậm nhảy
để học sinh làm quen với các tình huống khác nhau có thể xuất hiện
trong kiểm tra, thi đấu. Trong nhảy xa, nhảy cao, việc đặt chân giậm
vào vị trí giậm nhảy một cách tự động, chính xác là điều rất quan
trọng. Vì vậy trong tập luyện cần thực hiện các lần nhảy với đà có độ
dài khác nhau và cố gắng đặt chính xác chân giậm xuống vị trí giậm
nhảy. Trong các môn có thể tăng hay giảm trọng lượng của dụng cụ
cũng sẽ tạo điều kiện không những cho sức mạnh mà cả sự khéo léo
phát triển.
III. KẾT LUẬN:
15
Muốn duy trì và nâng cao thể lực, sức khỏe cho học sinh, trước
hết giáo viên cần quan sát, đo lường (hướng dẫn cho học sinh cách đo
lường để bản thân theo dõi được các chỉ số của mình) so sánh, đối
chiếu để tìm ra nguyên nhân làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển đó
cũng như đưa ra được các biện pháp tập luyện phù hợp cho các em.
Trên thực tế, giờ học ở lớp giáo viên không thể một sớm một
chiều làm được điều đó mà rất cần có sự hợp tác tự giác, tích cực từ
phía học sinh. Điều giáo viên nên làm đó là nắm chắc đối tượng học
sinh – càng cụ thể càng tốt (về chiều cao, cân nặng, sở thích, thái độ
khi tập TDTT, hoàn cảnh gia đình…) ngay từ đầu để ngoài giúp các
em phát triển thể lực chung còn phải hướng cho các em các bài tập
riêng phù hợp với sở trường, điều kiện hoàn cảnh bản thân.
Trong quá trình hướng dẫn tập luyện không được nóng vội, hoặc
“đốt cháy giai đoạn” mà nên tập từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều, từ nhẹ
đến nặng, từ đơn giản đến phức tạp. Những động tác mới hoặc khó
không nên đặt yêu cầu cao quá mà chỉ nên cho các em tập đúng các
phần cơ bản của động tác. Khi sửa chữa sai sót cần tránh những biện
pháp cứng nhắc mà phải dựa trên khả năng, trình độ của học sinh để
nhắc nhở, hướng dẫn giúp các em sửa chữa, tạo điều kiện cho các em
tự sửa chữa cho nhau và cho chính mình. Bên cạnh đó, giáo viên cũng
cần động viên, khích lệ giúp các em có thêm ý chí, niềm tin mới mong
có được kết quả khả quan.
Tóm lại: Muốn có sức khỏe, thể lực tốt, cơ thể phát triển hài hòa
cân đối thì ngoài việc đáp ứng đầy đủ chất dinh dưỡng, hợp vệ sinh,
còn cần phải thường xuyên tập luyện TDTT. Trong lĩnh vực tập luyện
TDTT, người thầy phải có tâm, có tầm; học trò phải tự giác, tích cực
và thật sự cầu tiến để hợp tác cùng thầy mới đem lại kết quả như
16
mong muốn. Hay nói cách khác: thầy và trò cùng thiết kế, trò là người
thi công dưới sự giám sát của thầy.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ:
- Muốn phát triển tốt thể lực, sức khỏe cho học sinh rất cần sự
phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và xã hội. Chúng ta phải biết nói
“không” với những đòi hỏi thái quá của lớp trẻ hiện nay và không nên
làm thay những việc các em có thể làm được. Có như vậy sự thiếu
thốn vận động ở các em mới phần nào được cải thiện.
- Chương trình giảng dạy TDTT trong nhà trường phổ thông
cũng như cách đánh giá hiện nay của chúng ta cần phải được xem lại,
bố trí buổi học riêng để không chiếm thời lượng chính khóa của các
môn học khác.
- Cơ sở vật chất của trường học nói chung và môn thể dục nói
riêng cần được trang bị hợp lý, đồng bộ, không gian dành cho môn thể
dục cần rộng rãi, thoáng đảng, mát mẻ và nhất là nên tách biệt để
không ảnh hưởng tới các giờ học của môn khác.
- Chế độ đãi ngộ dành cho giáo viên TDTT cần phải được cân
nhắc và điều chỉnh cho phù hợp với biến động của thị trường. Từ sự
yêu mến, nhiệt tình với nghề cùng với việc bản thân luôn luyện tập,
trau dồi chuyên môn sẽ giúp chúng ta thành công trong quá trình
hướng dẫn học sinh học môn TDTT, nhằm tăng cường sức khỏe, thể
lực cho các em.
Kiến thức của nhân loại là vô tận, sự hiểu biết của bản thân chỉ
như giọt nước trong lòng biển khơi. Vì vậy bài viết này ắt sẽ còn
nhiều hạn chế và khiếm khuyết rất mong được sự bổ sung của các nhà
chuyên môn, các bạn đồng nghiệp… để bản thân được mở mang thêm
kiến thức và sự hiểu biết.
17
Vĩnh Mỹ A,ngày 26 tháng 12 năm2014
Người viết
NguyễnVănTrung
18