Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam và một số biện pháp khắc phục rủi ro tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.02 KB, 29 trang )

Đề án môn học
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của một đất nước,Ngân hàng đóng vai trò rất
quan trọng.Nó là hệ thần kinh của toàn bộ nền kinh tế quốc dân,nền kinh tế
chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống Ngân hàng hoạt động
hiệu quả và vững chắc.Như vậy đòi hỏi Ngân hàng phải phát triển tương xứng
và hoạt động có hiệu quả trong hoạt động lưu thông tiền tệ.
Điều hoà lưu thông tiền tệ chủ yếu thông qua hoạt động tín dụng,hoạt
động tín dụng là xương sống của hệ thống Ngân hàng thương mại,vì quá trình
huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả sẽ giúp các thành phần kinh tế phát
triển ổn định và ngược lại.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường,cùng với sự phát triển
của sản xuất hàng hoá, quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá với đường lối
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ,hệ thống Ngân hàng thương mại cũng
ngày càng phát triển và trở thành các trung gian tài chính đưa vốn từ nời thừa
sang nơi thiếu,đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp.
Hoạt động Ngân hàng có nhiều bước chuyển biến tích cực.Tuy nhiên
trong nền kinh tế hiện nay,rủi ro là không thể tránh khỏi đối với các thành
phần kinh tế,do đó hoạt động Ngân hàng hàm chứa nhiều rủi ro cao.Những
nguy cơ tiềm ẩn như sự không trung thực của khách hàng,vốn vay bị sử dụng
sai mục đích,khách hàng phá sản đều biến thành khoản nợ khó đòi.Bên cạnh
đó,quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia
tăng khi tạo ra mộ môi trường cạnh tranh gay gắt,khiến hầu hết các doanh
nghiệp,những khách hàng thường xuyên của Ngân hàng phải đối mặt với
nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường.Do đó nhiệm
vụ quan trọng và trọng tâm của quản lý các Ngân hàng thương mại là phải
nâng cao chất lượng tín dụng,đưa ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi
ro tín dụng cho các thành phần kinh tế.Việc đánh giá,thẩm định, và quản lý tốt
các khoản cho vay các khoản dự định cho vay sẽ làm giảm rủi ro cho các
Ngân hàng và tất yếu giảm bớt nợ xấu cho Ngân hàng.
Nhận thức được vấn đề này,sau thời gian tìm hiểu nhóm chúng em đã


quyết định chọn đề tài “Rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở
Việt Nam và một số biện pháp khắc phục rủi ro tín dụng’’.
1
Đề án môn học
Đề án gồm có 3 chương:
• Phần 1:Một số lý luận chung về rủi ro tín dụng của các Ngân hàng
thương mại. (Sinh viên: Nguyễn Văn Tiến)
• Phần 2: Thực trạng về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam. (Sinh viên: Ngô Qua/ng Thọ)
• Phần 3:Một số biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng của các Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam. (Sinh viên: Trịnh Thế Phiệt)
Em hy vọng bài viết có thể làm rõ một số lý luận về NHTM,hoạt động
tín dụng Ngân hàng,và thực trạng của hoạt động tín dụng trong các NHTM
Việt Nam hiện nay.

2
Đề án môn học
PHẦN 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.Khái niệm về rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
Ở bất kì hoạt động nào cũng xảy ra rủi ro,rủi ro luôn tồn tại trong hoạt
động kinh doanh,vì thế mọi chủ thể kinh doanh luôn phải đối mặt với rủi ro
và chỉ khi nào chủ thể kinh doanh khống chế và hạn chế được mức tối đa rủi
ro có thể xảy ra thì hoạt động kinh doanh mới tồn tại và phát triển.Nhiều nhà
kinh tế học đã định nghĩa ‘ rủi ro’ theo các cách khác nhau.Frank Knight,một
học giả người Mỹ đầu thế kỷ 20 định nghĩa ‘ Rủi ro là sự bất trắc có thể đo
lường được’.Alain Willet cho rằng ‘ Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến
biến cố không mong đợi’ .Còn Irving Perfer lại nói ‘ Rủi ro là tổng hợp của
những sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác suất’.Một nhà kinh tế học

người Anh là Marilic Hurt Carty quan niệm ‘ rủi ro là tình trạng trong đó các
biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được’.
Như vậy cụm từ rủi ro có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau,nhưng khái quát lại ta có thể hiểu rủi ro là sự xuất hiện một biến cố
không mong đợi gây thiệt hại cho một công việc cụ thể,rủi ro có thể xảy ra
trong mọi hoạt động,mọi lĩnh vực mà không phụ thuộc vào ý muốn có con
người.Đối với Ngân hàng,thì việc kinh doanh tiền tệ là hoạt động rất dễ xảy ra
rủi ro và thiệt hại gây ra là rất lớn.Rủi ro tác động trực tiếp tới kết quả doanh
lợi,nguy cơ phá sản của các Ngân hàng.Do vậy việc thừa nhận rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và từ đó tìm kiếm phương pháp chống
đỡ các rủi ro là đòi hỏi sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Rủi ro trong
kinh doanh ngân hàng là một tất yếu ,mà các nhà quản lý Ngân hàng chỉ có
thể có chính sách giảm bớt chứ không thể gạt bỏ hoàn toàn được chúng.Trong
hoạt động kinh doanh Ngân hàng thường xảy ra những rủi ro như :rủi ro tín
dụng,rủi ro lãi suất,rủi ro thanh khoản,rủi ro tỷ giá….những rủi ro này rất dễ
xảy ra gây thiệt hại đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ,trong đó đặc
biệt là rủi ro tín dụng.
II. Tín dụng Ngân hàng
Tín dụng xuất phát từ chữ la tinh là credo(tin tưởng ,tín nhiệm).Trong
quan hệ tài chính tín dụng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.Xét
trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ
3
Đề án môn học
thể thiếu hụt tiêt kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ
từ người cho vay sang người đi vay.
Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của Ngân hàng,tín dụng
còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho
khách hàng. Tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay và bên đi
vay,trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời hạn nhất định theo thoả thuận,bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô

điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.Tài sản giao
dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm 2 hình thức là cho vay và cho
thuê.Trong những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của Ngân hàng
chỉ có cho vay bằng tiền.Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ
tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau.Xuất phát từ nguyên tắc
hoàn trả,vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử
dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn.
Tín dụng là phạm trù kinh tế xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện
kinh tế xã hội nhất định.Cùng với sự phát triển của nền kinh tế,các hình thức
tín dụng Ngân hàng ngày càng đa dạng,đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất
kinh doanh.
III. Rủi ro tín dụng.
II.1, Khái niệm về rủi ro tín dụng.
Trong những hoạt động của Ngân hàng hoạt động tín dụng là hoạt động
đem lại lợi nhuận cao nhất cho Ngân hàng nhưng đồng thời cũng đem lại
nhiều rủi ro.Rủi ro tín dụng là những thiệt hại hay mất mát mà Ngân hàng
phải gánh chịu khi người vay vốn hoặc người sử dụng vốn không trả đúng
hạn,không đầy đủ,không thực hiên đúng nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng
tín dụng vì bất kể lý do gì.Xét về khía cạnh của Ngân hàng,thì rủi ro tín dụng
đồng nghĩa với việc thu nhập dự tính của Ngân hàng từ các tài sản có sinh lời
không được hoàn trả đầy đủ cả về mặt số lượng và thời hạn.
Trong tài liệu “Financial Institutions Management – A Modern
Perpective”, A.
Saunder và H.Lange định nghĩa rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi
ngân hàng
cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập
dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện
đầy đủ về cả số lượng và thời hạn.
4
Đề án môn học

Còn theo Henie Van Greuning… Sonja Brajovic Bratanovic: Rủi ro tín dụng
được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi
hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. đây
là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi
trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không chi trả được toàn bộ. điều này gây ra
sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản
của ngân hàng (The World Bank).
Ngày nay,nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh,cải tiến trang
thiết bị kỹ thuật,nâng cao công nghệ và các nhu cầu phục vụ sản xuất kinh
doanh luôn tăng lên.Để đáp ứng nhu cầu này,các NHTM cũng phải luôn mở
rộng quy mô hoạt động tín dụng,điều đó có nghĩa là rủi ro tín dụng cũng phát
sinh nhiều hơn.
II.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng .
II.2.1 Rủi ro tín dụng có tính đa dạng và phức tạp.
Đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình
thức, hậu quả của rủi ro tín dụng do đặctrưng ngân hàng là trung gian tài
chính kinh doanh tiền tệ. Do đó khi phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng phải
chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân bản chất và hậu quả
do rủi ro tín dụng đem lại để có biện pháp phòng ngừa phù hợp.
II.2.2 Rủi ro tín dụng có tính tất yếu.
Tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt
được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này làm cho bất cứ
khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng
thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng.
II.2.3 Rủi ro tín dụng có thể dự báo trước hoặc không.
Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho
khách hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng gặp những tổn thất và thất
bại trong quá trình sử dụng vốn; Hay nói cách khác những rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín
dụng của ngân hàng.Trong đó việc thất bại trong quá trình sử dụng vốn của

khách hàng là điều không thể dự báo trước được
II.3. Các loại rủi ro tín dụng.
II.3.1 Rủi ro mất vốn.
Là rủi ro cho vay không thu hồi được nợ.Bản chất của tín dụng Ngân
hàng là ứng trước tiền cho người vay,sau một chu kỳ sản xuất hoặc kỳ luân
5
Đề án môn học
chuyển hàng hoá thì khách hàng mới có tiền trả nợ.Nếu Ngân hàng càng ứng
trước nhiều thì độ rủi ro càng cao.Ngân hàng cho vay tín chấp mức độ rủi ro
cao hơn cho vay tài sản thế chấp.Tài sản thế chấp bằng giấy tờ có giá dễ
chuyển đổi ra tiền ít rủi ro hơn là tài sản thế chấp bằng bất động sản.Trong
hoạt động kinh doanh,rủi ro này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tài sản kinh doanh.Vì hơn 2/3 tài sản của Ngân hàng là các
món cho vay và đầu tư đem lại thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng,nếu các
khoản vay không được trả Ngân hàng sẽ mất cả vốn lẫn lãi dẫn đến nguy cơ
dễ phá sản.
II.3.2 Rủi ro sai hẹn.
Là các khoản cho vay mà khi đến hạn khách hàng vẫn chưa trả cho Ngân
hàng.Thông thường trường hợp này khách hàng thường xin Ngân hàng gia hạn
thêm thời hạn nợ.Nếu lý do của khách hàng không được Ngân hàng chấp thuận
thì họ sẽ phải chịu lãi suất phạt.Khoản tiền thu hồi muộn này có thể làm đảo
lộn kế hoạch kinh doanh của Ngân hàng và luôn tiềm ẩn nguy cơ mất vốn.
II.3.3 Rủi ro lãi suất .
Kỳ hạn và độ thanh khoản của các tài sản nợ thường bất cân xứng với kỳ
hạn và độ thanh khoản của các tài sản có làm cho Ngân hàng phải chịu rủi ro
về lãi suất.Ngoài rủi ro lãi suất tái tài trợ tài sản nợ hoặc tái đầu tư tài sản có
thì khi lãi suất trên thị trường thay đổi Ngân hàng còn có thể gặp rủi ro giảm
giá trị tài sản.Giá trị thị trường của tài sản của tài sản có hay nợ dựa trên khái
niệm giá trị hiện tại của tiền tệ.Do đó nếu lãi suất của thị trường tăng lên thì
mức chiết khấu giá trị của tài sản cũng tăng lên,giá trị của tài sản nợ và tài sản

có sẽ giảm xuống và ngược lại.Rủi ro giảm giá trị của tài sản khi lãi suât thay
đổi thuộc loại rủi ro lãi suất và có thể dẫn đến thiệt hại cho Ngân hàng.
II.3.4 Rủi ro tỷ giá.
Rủi ro tỷ giá thường diễn ra dưới hình thức của một chệnh lệch giữa giá
đặt mua và giá chào bán của tiền tệ.Các rủi ro trong việc giao dịch ngoại hối
xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ khác nhau do tác động kinh tế
và chính trị của một nước.
II.4. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng.
Để đánh giá rủi ro tín dụng,ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau.
-Chỉ tiêu:Tổng dư nợ tín dụng trên tổng số tài sản có
Dư nợ tín dụng
Tổng tài sản có
6
Đề án môn học
Đây là chỉ số tổng quan về quy mô hoạt động của Ngân hàng.Chỉ tiêu này
-Chỉ tiêu:Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ:
Dư nợ quá hạn
Hệ số nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ
Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các NHTM thường chia nợ quá hạn thành các
nhóm sau:
+ Nợ quá hạn đến 180 ngày, có khả năng thu hồi
+ Nợ quá hạn từ 181-360 ngay, có khả năng thu hồi
+ Nợ quá hạn từ 360 ngày trở lên (nợ khó đòi).
Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng.Chỉ tiêu này càng
thấp càng tốt,nhưng ngược lại không thể đánh giá rằng khi chỉ số này vượt
quá tiêu chuẩn chung của ngành thì là xấu.Để có thể đánh giá được 1 cách
chính xác hơn về tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng ta cần phải đánh giá
kèm theo chỉ tiêu vồng quay của các khoản nợ quá hạn này.
-Chỉ tiêu:Nợ khó đòi trên tổng nợ quá hạn.

Nợ quá hạn khó đòi
Tổng nợ quá hạn
Tỷ lệ này đánh giá các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày,được xác định là
không có khả năng thu hồi.Tỷ lệ này cao chứng tỏ khả năng thu hồi vốn
thấp,nguy cơ mất vốn cao,chất lượng tín dụng của Ngân hàng thấp.
-Chỉ tiêu:Mức độ chênh lệch thời lượng của tài sản có và tài sản nợ
Chỉ tiêu này phản ánh nếu kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn không
có sự nhất quán thì sẽ dẫn đến nguy cơ xả ra rủi ro tín dụng rất cao và khi đó
mức độ ảnh hưởng là toàn bộ hoạt động của Ngân hàng.Đánh giá mức độ ảnh
hưởng của sự chênh lệch của thời lượng có thể dựa vào công thức sau:


E =

A -

L
Trong đó: +

A = - D
A
. A .

i
1+i


L = - D
L
. L .


i
1+i
Với: * i :lãi suất
* D
A
, D
L
:là thời lượng của toàn bộ tài sản có và tài sản nợ
* A, L :là giá trị của tài sản có và tài sản nợ
Trong trường hợp ∆E < 0, chứng tỏ rằng Ngân hàng gặp rủi ro trong hoạt
động kinh doanh,trong đó có cả rủi ro tín dụng.
7
Đề án môn học
II.5 Nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
II.4.1 Nguyên nhân khách quan.
II.4.1.1, Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định.
Khi tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh,bao giờ doanh nghiệp cũng
tiến hành đánh giá tình hình thị trường cũng như đưa ra những dự báo phát
triển thị trường,dự báo tăng trưởng doanh số.Nếu nền kinh tế thế giới cũng
như nền kinh tế quốc nội vận hành theo quỹ đạo đã dự báo thì doanh nghiệp
sẽ thực hiện tốt các kế hoạch đã đề ra.Tuy nhiên như chúng ta đã biết,nền
kinh tế nước ta vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào các ngành sản xuất nông
nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp(nuôi trồng,chế biến thực phẩm
và nguyên liệu),dầu thô,…vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế
giới,nên dễ bị ảnh hưởng khi thị trường thế giới có những biến động xấu.
Bên cạnh đó,quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm
cho nợ xấu gia tăng khi tạo một môi trường cạnh tranh gay gắt,khiến hầu hết
doanh nghiệp,những khách hàng thường xuyên của Ngân hàng phải đối mặt
với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường.Bản thân sự

cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi
trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các Ngân hàng trong nước với hệ thống
quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách
hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các Ngân hàng nước ngoài thu hút.
II.4.1.2, Rủi ro do môi trường pháp lý.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)và các cơ quan liên quan đã ban hành
nhiều luật,văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động
tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai
vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều
vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những
văn bản này đều có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được
nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các NHTM
không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là
cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng
bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản
đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy
định khác dẫn đến tình trạng NHTM không thể giải quyết được nợ tồn đọng,
tài sản tồn đọng. Sự chậm trễ, rườm rà trong các thủ tục cấp giấy phép, các
8
Đề án môn học
thủ tục hải quan… nhiều lúc ảnh hưởng lớn đến cơ hội kinh doanh của các
doanh nghiệp. Ta biết rằng cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp có tính thời
điểm,nhưng nó sẽ không đươc thực hiện nhanh chóng nếu không được “ cởi
trói ” bởi các thủ tục pháp lý,việc chậm trễ sẽ dẫn đến hậu quả của hàng loạt
các hợp đồng kinh tế bị đình trệ.Điều này gây tổn thất lớn về mặt kinh tế đối
với các doanh nghiệp vay vốn.
Hệ thống quản lý lại bất cập, hiện nay ở VN chưa có một cơ chế công bố
thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng
ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt

được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin
kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức
tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn
đơn điệu, thiếu cập nhật Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong
việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một
hệ thống thông tin tương xứng.
II.4.1.3 Rủi ro do hàng hoá nhập lậu tràn vào trong nước
Hàng hoá nhập lậu vào Việt Nam qua các con đường vùng biên từ lâu đã
là nỗi ám ảnh của các doanh nghiệp nội địa.Hàng hoá nhập lậu có ưu điểm rẻ
hơn về giá,loại hình phong phú đánh mạnh vào nhu cầu đại bộ phận người
tiêu dùng có thu nhập thấp.các mặt hàng về đồ điện tử,kim khí,mỹ phẩm là
minh chứng cho hiện tượng trên
Các rủi ro cơ bản trên đã ảnh hưởng tới tình hình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp.Một khi các đồng vốn mà doanh nghiệp đi vay đổ vào
sản xuất kinh doanh mà không thu lại được,tất yếu sẽ đẩy doanh nghiệp tới
việc mất dần khả năng trả nợ.Ngân hàng đứng trước nguy cơ khó thu hồi
khoản cho vay nay.
II.4.2 Nguyên nhân chủ quan .
II.4.2.1.Đối với Ngân hàng.
Ngân hàng thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp.Các ngành nghề
của các doanh nghiệp đi vay là rất đa dạng,đa phần các cán bộ tín dụng không
thể có đầy đủ thông tin cũng như hiểu biết về các ngành nghề lĩnh vực mà
doanh nghiệp đang đầu tư.Ta đã biết,hiện tại các doanh nghiệp,công tác kế
toán chi phí chưa được thực hiện hoá chuyên nghiệp,ghi chép liên tục rõ
9
Đề án môn học
ràng.Vì thế khi các Ngân hàng sử dụng báo cáo tài chính do doanh nghiệp
cung cấp sẽ đưa lại cái nhìn lệch lạc,không chuẩn xác.Chính vì thế rất khó
khăn trong việc đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp,nên Ngân hàng
thường có xu hướng ưu tiên các hồ sơ vay vốn có tài sản thế chấp,đảm

bảo.Tuy nhiên khi dẫn đến việc thu hồi nợ cũng rất khó khăn.Trình độ của cán
bộ tín dụng còn hạn chế,ngoài ra còn có tiêu cực,một số người còn sẵn sàng
tiếp tay cho các doanh nghiệp làm giả hồ sơ giấy tờ để xin vay vốn vì những
lợi ích vật chất.Chính điều này đã dẫn đến những rủi ro rất lớn ngay từ khâu
giải ngân.Hơn nữa các doanh nghiệp này đều có tình hình tài chính không
minh bạch ,không đáp ứng được những điều kiện giải ngân mà Ngân hàng đã
đề ra.
II.4.2.2, Đối với khách hàng.

Nhiều doanh nghiệp không đánh giá hết được những rủi ro khi sử
dụng đồng vốn,đánh giá chi phí vốn cũng như khả năng sinh lời của vốn.Đa
phần doanh nghiệp khi sử dụng vống trong quá trình sản xuất kinh doanh
thường đầu tư vào mở rộng quy mô sản xuất,đầu tư vào cơ sở vật chất mà cái
quan trọng nhất đầu tư phát triển kỹ năng của lực lượng nhân lực của công
ty.Khi doanh nghiệp mở rộng quy mô mà tư duy quản lý không thay đổi,trình
độ đội ngũ không được đảm bảo thì doanh nghiệp tất yếu phải đối mặt với
10
Đề án môn học
những rủi ro về khả năng quản lý sản xuất,dẫn đến nhiều sai lầm trong quá
trình ra quyết định quản lý kinh doanh.Nhiều doanh nghiệp sử dụng sai mục
đích so với đăng ký ban đầu trong hồ sơ xin vay vốn,tất yếu đã gây khó khăn
trong việc kiểm soát dòng vốn cũng như rủi ro của đồng vốn.
II.4.3 Nguyên nhân khác.
Những nguyên nhân như bão lũ,hạn hán,động đất,hoả hoạn ….,các vụ ăn
cắp,lừa đảo gây thiệt hại về tài sản của Ngân hàng hoặc của khách hàng
khiến người đi vay mất khả năng trả nợ vay.Đối với loại rủi ro này,Ngân hàng
phòng ngừa bằng các biện pháp như : mua bảo hiểm,tăng cường bảo vệ trực
tiếp,giáo dục ý thức,trách nhiệm cho nhân viên Ngân hàng.
Ngân hàng có sự lựa chọn trái nghịch cho khách hàng vay trong khi
khách hàng không có khả năng trả nợ.hay rủi ro đạo đức,khách hàng vi phạm

thoả thuận với ngân hàng như sử dụng sai mục đích nguồn tiền đi vay.

11
Đề án môn học
PHẦN 2
THỰC TRẠNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
I, Nhiệm vụ và mục tiêu của công tác quản trị rủi ro tín dụng.
Quản trị đề ra những mục tiêu cụ thể giúp ngân hàng đi đúng hướng,để
đảm bảo tính thống nhất trong quá trình thực hiện. Hoạch định phương hướng
và kế hoạch phòng chống rủi ro,cụ thể là:
+ Phương hướng nhằm vào dự đoán xác định rủi ro có thể xảy ra đến
đâu, trong điều kiện nào, nguyên nhân dẫn đến rủi ro, hậu quả ra sao,…
+ Phương hướng tổ chức phòng chống rủi ro có khoa học nhằm chỉ ra
những mục tiêu cụ thể cần đạt được, ngưỡng an toàn, mức độ sai sót có thể
chấp nhận được.
+Tham gia xây dựng các chương trình nghiệp vụ, cơ cấu kiểm soát
phòng chống rủi ro, phân quyền hạn và trách nhiệm cho từng thành viên, lựa
chọn những công cụ kỹ thuật phòng chống rủi ro, xử lý rủi ro và giải quyết
hậu quả do rủi ro gây ra một cách nghiêm túc.
II. Nội dung quản lý RRTD NHTM
II.1. Nhận biết và đánh giá rủi ro tín dụng
a, Để nhận biết rủi ro tín dụng về căn bản người ta thường dựa vào
các dấu hiệu sau : (1) các dấu hiệu tài chính, (2) các dấu hiệu phi tài chính,
(3) và các khoản cho vay.
(1) Các dâú hiệu tài chính
- Các chỉ số thanh khoản có dấu hiệu suy yếu
- Các chỉ số khả năng sinh lời có dấu hiệu suy yếu
- Các vòng quay hoạt động thể hiện sự suy yếu
- Cơ cấu vốn không hợp lý

(2) Các dấu hiệu phi tài chính
- Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý với KH
 Có sự thay đổi về cơ cấu NS trong hệ thống quản trị
 Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống điều hành
 Ít kinh nghiệm, xuất hiện nhiều hành đồng nhất thời
 Thuyên chuyển nhân viên quá thường xuyên
12
Đề án môn học
 Tranh chấp trong quá trình quản lý
 Chi phí quản lý bất hợp pháp
 Quản lý có tính gia đình
-
-
Dấu hiệu vấn đề kỹ thuật và thương mại
Dấu hiệu vấn đề kỹ thuật và thương mại
• Khó khăn trong phát triển sản phẩm mới, hoặc không có sản phẩm thay thế
• Những thay đổi chính sách của NN
• Sản phẩm có tính thời vụ cao
• Có biểu hiện cắt giảm chi phí
• Thay đổi trên thị trường về lãi suất, tỷ giá, mất KH lớn, vấn đề thị hiếu ,
-
-
Dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính
Dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính
 Sự gia tăng tỷ lệ không cân đối nợ
 Chuẩn bị số liệu tài chính không đủ, trì hoãn nộp báo cáo
 Khả năng tiền mặt giảm
 Phải thu tăng nhanh và thời hạn thanh toán nợ kéo dài
 Kết quả KD lỗ
 Cố tình làm đẹp BCĐTS bằng tài sản vô hình

- Dấu hiệu phi tài chính khác
 Có sự xuống cấp của cơ sở kinh doanh
 Hàng tồn kho tăng do không bán được, hư hỏng, lạc hậu
 Có sự kỷ luật với cán bộ chủ chốt
(3) Các khoản cho vay
Tỷ lệ các khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay và cho thuê cao
Tỷ lệ giữa các khoản nợ ròng so với tổng dư nợ cho vay và cho thuê cao
Tỷ lệ giữa trích lập và sử dụng dự phòng tổn thất hàng năm so với tổng
dư nợ cho vay, cho thuê hay với tổng vốn sở hữu thất thường.
II.2 Giải quyết rủi ro tín dụng
Khi gặp rủi ro tín dụng, chúng ta có thể giải quyết vấn đề rủi ro thông
qua việc
 Kiểm tra hồ sơ khoản vay có vấn đề
13
Đề án môn học
 Gặp gỡ và thảo luận với KH
 Lập kế hoạch hành động
 Thực hiện kế hoạch
 Quản lý và theo dõi thực hiện kế hoạch
 Các biện pháp xử lý nợ vay có vấn đề và xử lý tổn thất tín dụng
Các biện pháp xử lý nợ vay có vấn đề và xử lý tổn thất tín dụng thường gặp
Các biện pháp xử lý nợ vay có vấn đề và xử lý tổn thất tín dụng thường gặp
 Hình thức xử lý khai thác
– Cho vay thêm
– Bổ sung tài sản bảo đảm
– Chuyển NQH
– Thực hiện khoanh nợ, xóa nợ
– Chỉ định đại diện tham gia quản lý doanh nghiệp
 Hình thức sử dụng các biện pháp thanh lý
– Xử lý nợ tồn đọng

 Có TSBĐ
 Không TSBĐ và không còn đối tượng để thu
 Không TSBĐ, còn hoạt động
– Thanh lý doanh nghiệp
– Khởi kiện
– Bán nợ
– Sử dụng dự phòng RRTD
+Kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo việc thực hiện theo đúng kế hoạch
phòng chống rủi ro đã hoạch định, phát hiện các rủi ro tiềm ẩn, các sai sót khi
thực hiện giao dịch, đánh giá hiệu quả công tác phòng chống rủi ro trên cơ sở
đó đề nghị các biện pháp điều chỉnh và bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống
quản trị rủi ro.
III. Tình hình quản trị tín dụng ở các Ngân hàng thương mại.
III.1 Tình hình huy động vốn.
14
Đề án môn học
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao do đó các ngân hàng đã tìm
kiếm mọi cách để huy động vốn cho vay,Ngân hàng đóng vai trò là nhân tố
tập hợp các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thông qua các hình
thức:
-Nhận tiền gửi của các cá nhân và tổ chức kinh tế.Đây là nguồn tiền
chiếm tỉ lệ chủ yếu trong cơ cấu nguồn huy động của Ngân hàng.
-Nguồn đi vay: trong quá trình kinh doanh,đôi khi NHTM có thể cũng
lâm vào tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời để đáp ứng nhu cầu thanh toán chi
trả hay nhu cầu vay vốn của khách hàng.NHTM có thể vay Ngân hàng nhà
nươc,vay các tổ chức tín dụng khác,vay trên thị trường liên ngân hàng…đây
là nguồn vốn rất cần thiết và quan trọng vì nó đáp ứng kịp thời và đảm bảo
cho hoạt động ngân hàng diễn ra liên tục. Theo báo cáo của các Ngân hàng
trong những năm gần đây,các tổ chức tín dụng trong nước cũng như các chi
nhánh Ngân hàng nước ngoài,Ngân hàng liên doanh đều có tốc độ liên tục

tăng.Riêng trong năm 2003,quán triệt nhiệm vụ ngay từ đầu,toàn hệ thống đã
tích cực nắm bắt thị trường,tình hình biến động trong nước và thế giới,có
nhiều giải pháp phú hợp để đẩy mạnh huy động vốn đáp ứng nhu cầu cho nền
kinh tế.Đơn cử như giải pháp lãi suất huy động linh hoạt nội và ngoại tệ của
các Ngân hàng thương mại,phát hành trái phiếu Ngân hàng để nâng cao tỷ
trọng vốn trung và dài hạn,huy động vốn bằng cách tăng tiền gửi ngắn hạn.
Đến cuối năm 2003,số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng tăng 45% so
với đầu năm ,cao hơn nhiều so với mức tăng năm trước và vượt kế hoạch đề
ra.Nhìn chung số vốn huy động được từ nền kinh tế- xã hội tăng đều đặn
trong các năm gần đây,rất có ý nghĩa đối với sự phát triển trong bối cảnh vốn
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và nước ta chưa cao.
So với đầu năm,tính sơ bộ đến hết tháng 6 năm 2004,tổng nguồn vốn của
các tổ chức tín dụng trong cả nước tăng khoảng 16%,trong nguồn vốn huy
động từ dân cư tăng 8%.Bảng so sánh phân tích sau đây giúp ta nhận rõ hơn
tình hình này .

15
Đề án môn học
Bảng 1 : Tỷ trọng trong nguồn vốn của các TCTD.
So sánh
Nhóm các
TCTD
Tỷ trọng
trong tổng
nguồn vốn
của các
TCTD
(%)
Tăng so với đầu năm 2004(%)
Tỷ trọng trong

tổng nguồn vốn
của các TCTDT
Huy động vốn từ
dân cư
CácTCTD nhà nước
75,7 8 10
Các chi nhánh NH
nươc ngoài và NH liên
doanh
13 1
1
Các TCTD cổ phần
10 5 9
Các TCTD phi NH
0,3 6 7
Các TCTD hợp tác
1 10
(Nguồn:tạp chí Ngân hàng số đặc biệt-số 1 năm 2004)
Vốn huy động của các Ngân hàng thương mại tăng và lãi suất huy động
cũng được tăng mặc dù lãi suất huy động ngoại tệ tiếp tục giảm.Nhu cầu vay
vốn bằng đồng VN tăng mạnh hơn vay bằng ngoại tệ,hầu hết các doanh
nghiệp tránh vay vốn bằng ngoại tệ mà chuyển sang đề nghị vay vốn bằng
VND.
III.2 Tình hình sử dụng vốn.
Vốn huy động được sẽ được Ngân hàng đầu tư vào các khoản mục tài
sản khác nhau,nhằm đạt được mục tiêu mà Ngân hàng đề ra.Nhìn chung sẽ
được sử dụng vào các hoạt động sau:
-Hoạt động tín dụng: hoạt động này đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các
Ngân hàng,nó chiếm tỷ trọng chủ yếu và là hoạt động cơ bản của một ngân
hàng.Tuy nhiên nó lại chứa đựng nhiều rủi ro,ảnh hưởng quan trọng đến hoạt

động của Ngân hàng.
-Các hoạt động đầu tư khác:hoạt động này rất đa dạng và góp phần làm
tăng thêm thu nhập cho ngân hàng.Đó là hình thức ngân hàng tham gia vào
hoạt động góp vốn, mua cổ phần của các công ty,liên doanh liên kết,mua bán
chứng khoán,cổ phiếu,trái phiếu nhằm đa dạng hoá danh mục đầu tư,giảm
thiểu rủi ro,đem lại nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng.
16
Đề án môn học
Nhìn vào bảng 2 ta thấy,nếu cho vay bằng VND cả khu vực Ngân hàng
thương mại Quốc doanh cao gấp 4,5 -5 lần so với Ngân hàng thương mại ngoài
Quốc doanh,cho vay bằng ngoại tệ của Ngân hàng thương mại chỉ gấp 1,5-2,5
lần.Điều này phản ánh mức độ tập trung trong hoạt động tín dụng có tính cách
biệt.Khách hàng của Ngân hàng thương mại Quôc doanh chủ yếu là khách
hàng trong nước nên họ lệch về vay bằng VND nhằm dự phòng rủi ro về tỷ giá
và lãi suất không quá cao so với USD,thậm chí còn rẻ hơn sau khi điều chỉnh
theo sự thay đổi tỷ giá.Thị phần ngoại tệ của Ngân hàng thương mại Quốc
doanh chủ yếu là các khoản vay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại chi nhánh Ngân hàng nước ngoài hoặc Ngân hàng liên doanh.
Bảng 2 : Mức tập trung thị phần cho vay của các NHTM Quốc doanh và
NHTM ngoài Quốc doanh
Năm
1998 1999 2000 2001 2002 2003
NHTMQD
Trong đó:-VND
-Ngoại tệ
79,6
53,8
25,8
75,5
53,5

22,2
77,2
59,3
18,0
81,4
65,9
15,7
81,6
65,9
15,7
71,4
61,1
10,3
NHTM ngoài
Quốc doanh
Trong đó:-VND
-Ngoại tệ
20,4
7,5
12,9
24,5
10,1
14,4
22,8
9,5
13,2
18,4
12,1
6,3
18,4

12,1
6,3
28,6
20,4
8,2
Tổng
100 100 100 100 100 100
(Nguồn:Tạp chí Ngân hàng số 8 năm 2004)
Mặc dù thị phần huy động ,cho vay của các Ngân hàng thương mại Quốc
doanh chiếm phần lớn nhưng lại chịu sức ép cạnh tranh từ các chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài,mặt khác họ là người phản ứng chậm trong sử dụng
mỗi công cụ,chiến thuật cạnh tranh,Tính nhạy cảm của các Ngân hàng thương
mại Quốc doanh theo thông tin thị trường còn chậm nên đã bị các chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài lấn trong từng thời điểm,trên từng mặt riêng lẻ của
hoạt động Ngân hàng.
VI. Một số vấn đề trong quản trị rủi ro tín dụng
Hầu hết trong các trường hợp, các ngân hàng chỉ ký kết hợp đồng cầm
cố/thế chấp mà không cần các thủ tục công chứng hay đăng ký giao dịch bảo
đảm. Biện pháp quản lý tài sản cầm cố duy nhất là giữ bản chính sổ tiết kiệm.
Biện pháp quản lý khoản vay hầu như không cần thiết hoặc thực hiện hết sức
lơi lỏng bởi khi xảy ra rủi ro, ngân hàng có thể xử lý sổ tiết kiệm ngay để thu
hồi nợ mà không gặp nhiều trở ngại. Chính vì vậy, nhiều người thường cho
rằng cho vay nhận tài sản đảm bảo là sổ tiết kiệm do chính ngân hàng mình
17
Đề án môn học
phát hành thì rủi ro gần như không có. Tuy nhiên, thực tế lại không hẳn như
vậy! Theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm (Bộ luật Dân sự 2005
và Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006), một tài sản có thể được
dùng để đảm bảo thực nhiều nghĩa vụ dân sự tại một hoặc nhiều tổ chức tín
dụng khác nhau, giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ

hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm (trừ trường hợp nhà ở - đã được
quy định tại luật nhà ở hoặc pháp luật có quy định khác). Tiết d Khoản 1 Điều
12 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định, trường hợp thế
chấp một tài sản để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự thì hợp đồng
đảm bảo đó bắt buộc phải đăng ký giao dịch bảo đảm (cần lưu ý việc đăng ký
giao dịch đảm bảo ở đây là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm).
Pháp luật cũng không bắt buộc bên bảo đảm phải chuyển giao tài sản/giấy tờ
sở hữu tài sản bảo đảm (bản chính hoặc bản sao) cho bên nhận bảo đảm. Như
vậy, khi các bên ký kết hợp đồng bảo đảm mà tài sản bảo đảm là sổ tiết kiệm
thì việc có giao sổ tiết kiệm cho ngân hàng hay không (hoặc chỉ giao bản sao)
là do các bên thỏa thuận (nếu có chuyển giao bản chính sổ tiết kiệm thì là hợp
đồng cầm cố, không chuyển giao là hợp đồng thế chấp). Do đó, việc nhận
đảm bảo bằng tài sản là sổ tiết kiệm do chính ngân hàng mình phát hành,
ngoài các rủi ro thông thường như rủi ro pháp lý (của tài sản và của người đại
diện ký kết), rủi ro trong giao dịch (rủi ro chữ ký giả mạo, hợp đồng không
tuân thủ về hình thức và nội dung theo quy định của pháp luật, ) vẫn có thể
xảy ra các trường hợp rủi ro sau đây: Rủi ro về thứ tự ưu tiên thanh toán:
Ngân hàng nhận cầm cố/thế chấp sổ tiết kiệm do chính mình phát hành có thể
không thu được đồng nào từ việc xử lý sổ tiết kiệm khi phải xử lý sổ tiết kiệm
của khách hàng để thu nợ do không đăng ký giao dịch bảo đảm đối với hợp
đồng cầm cố/thế chấp sổ tiết kiệm. Ví dụ, khách hàng A đến cầm cố sổ tiết
kiệm (do Ngân hàng X phát hành) để vay vốn tại Ngân hàng X. Ngân hàng X,
do nhận thấy sổ tiết kiệm do chính mình phát hành, lại giữ bản chính nên
không có rủi ro, đã không thực hiện công chứng và đăng ký giao dịch bảo
đảm hợp đồng cầm cố (để đơn giản thủ tục cho khách hàng). Tuy nhiên, sau
đó khách hàng A vẫn có thể dùng sổ tiết kiệm trên (bản sao) để mang đi thế
chấp tại Ngân hàng Y. Do một tài sản có thể được dùng để đảm bảo cho nhiều
nghĩa vụ tại nhiều tổ chức tín dụng khác nhau nên việc thế chấp của A là hoàn
toàn hợp pháp. Ngân hàng Y nhận thế chấp và tiến hành đăng ký giao dịch
đảm bảo đối với hợp đồng thế chấp sổ tiết kiệm trên. Hành vi nhận thế chấp

này của Ngân hàng Y cũng hoàn toàn hợp pháp. Khi khách hàng A vi phạm
cam kết hoặc mất khả năng thanh toán dẫn đến việc phải xử lý sổ tiết kiệm để
18
Đề án môn học
thực hiện nghĩa vụ, lúc này quyền được xử lý tài sản thu nợ sẽ ưu tiên cho
Ngân hàng Y (do Y đã đăng ký giao dịch đảm bảo, còn X thì không). Như
vậy rủi ro không thu được nợ của Ngân hàng X là hoàn toàn hiện hữu! Ngay
cả khi hợp đồng cầm cố trước đó giữa A và Ngân hàng X có điều khoản ràng
buộc A không được thế chấp sổ tiết kiệm trên tại bất cứ tổ chức nào khác, thì
Ngân hàng Y vẫn được coi là ngay tình, và nguồn trả nợ từ xử lý sổ tiết kiệm
vẫn sẽ ưu tiên cho Ngân hàng Y được thu nợ trước. Hành vi mang sổ tiết kiệm
thế chấp cho Ngân hàng Y của A cho thấy A vi phạm cam kết trong hợp đồng
cầm cố với Ngân hàng X, nhưng điều đó không làm cho hợp đồng thế chấp
giữa A và Ngân hàng Y vô hiệu. Sau khi Ngân hàng Y thu nợ từ xử lý sổ tiết
kiệm, ngân hàng X mới có thể thu nợ từ phần còn lại (nếu còn) hoặc từ các
nguồn khác, đồng thời pháp luật sẽ xem xét xử lý hành vi vi phạm cam kết
trong hợp đồng của A đối với Ngân hàng X. Rủi ro hợp đồng thế chấp vô hiệu
(trong trường hợp một hợp đồng thế chấp sổ tiết kiệm đảm bảo cho nhiều hợp
đồng tín dụng): Do nhận thức việc cầm cố/thế chấp sổ tiết kiệm là không có
rủi ro, vì vậy một số ngân hàng ký kết một hợp đồng thế chấp sổ tiết kiệm để
đảm bảo chung cho nhiều hợp đồng tín dụng khác nhau đã không thực hiện
đăng ký giao dịch đảm bảo đối với hợp đồng thế chấp nói trên. Như vậy, đối
chiếu với quy định của pháp luật giao dịch bảo đảm hiện hành, hợp đồng thế
chấp trên đã bị vô hiệu. Dù hậu quả là như thế nào, ngân hàng có thu được nợ
hay không thì việc ký một hợp đồng thế chấp mà hợp đồng đó lại vô hiệu là
điều không ai muốn, và tất nhiên, lúc này rủi ro vẫn thuộc về ngân hàng. Thiết
nghĩ, biện pháp bảo đảm chỉ là nguồn thu nợ dự phòng ngoài nguồn thu nợ
chính là từ phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng vay. Trong giao
dịch vay vốn giữa khách hàng và ngân hàng, hợp đồng bảo đảm cũng được
pháp luật coi là hợp đồng phụ (hợp đồng tín dụng mới là hợp đồng chính của

giao dịch). Vì vậy, khi xem xét cho vay, ngân hàng phải thẩm định kỹ hiệu
quả của phương án vay, khả năng tài chính, dòng tiền cũng như uy tín của
khách hàng vay, sau đó mới xem xét đến tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo,
dù là tài sản gì thì cũng luôn ẩn chứa rủi ro, và tùy từng trường hợp, ngân
hàng nên có biện pháp quản lý tài sản thích hợp trên nguyên tắc an toàn vốn
vay, giảm thiểu rủi ro đến mức có thể.
19
Đề án môn học
PHẦN 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
I,Vai trò của Nhà nước và Ngân hàng nhà nước.
Trong nhiều năm qua,Ngân hàng nhà nước đã đưa ra nhiều quy chế cho
vay của TCTD cho phù hợp với thực tế như Quyết định số 324-1998/QĐ-
NHNN1 ngày 30.9.1998, Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày
25.8.2000, Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, Quyết
định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3.2.2005. Ngoài ra, từ năm 1998 đến nay,
bên cạnh Nghị định của Chính phủ quy định riêng về việc đảm bảo tiền vay
của các Tổ chức tín dụng (Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29.12.1999) là
hàng loạt các văn bản pháp luật có liên quan như: Nghị định 17/1999/NĐ-CP
ngày 29.3.1999 của Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, thừa kế, thế chấp bằng quyền sử dụng đất, Nghị định 08/2000/NĐ-CP
ngày 10/03/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch đảm bảo, Thông tư
06/2000/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện Nghị định 178, Nghị định số
85/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25.10.2002 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định 178, Thông tư số 07/2003/TT-NHNN của NHNNVN ngày
19.5.2003 về hướng dẫn thực hiện một số quy định về đảm bảo tiền vay của
các Tổ chức tín dụng theo Nghị định 178 và Nghị định 85 (Thông tư này thay
cho Thông tư số 06), Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-
BCA-BTC-TCĐC ngày 23.4.2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền

vay để thu hồi nợ cho các Tổ chức tín dụng tất cả đã nói lên quyết tâm của
Chính phủ, NHNN, các cơ quan có liên quan trong việc khắc phục hậu quả và
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngành ngân hàng phát triển theo hướng: giao
quyền chủ động kinh doanh cho các NHTM và các NHTM hoàn toàn tự chịu
trách nhiệm trước những hoạt động kinh doanh.Rủi ro tín dụng không chỉ do
các NHTM phải gánh chịu và có biện pháp phòng ngừa mà phải coi đó là rủi
ro chung của cả nền kinh tế.Do đó để có biện pháp phòng ngừa các rủi ro tín
dụng cần thiết phải có các giải pháp mang tính điều kiện để hỗ trợ từ phía các
cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.
Nhà nước cần thiết phải hoàn thiện các văn bản pháp quy và có những
quy định cụ thể đủ để đảm bảo an toàn cho các hoạt động của Ngân hàng
thương mại .Đồng thời nhà nước cần chấn chỉnh lại hoạt động kinh doanh của
20
Đề án môn học
các thành phần kinh tế,tạo ra môi trường kinh doanh ổn định các chính sách
đầu tư,chính sách xuất nhập khẩu,chính sách đất đai.
II,Nâng cao chất lượng cán bộ của Ngân hàng.
Con người là yếu tố trung tâm, vừa là nền tảng để phát hiện, đánh giá và
hạn chế kịp thời những rủi ro tín dụng nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân
gây ra tổn thất tín dụng từ những rủi ro xuất phát từ yếu tố đạo đức, năng lực
yếu kém. Khả năng kiểm soát và phòng ngừa các rủi ro từ thiên tai, địch họa,
những rủi ro hệ thống không thể đa dạng hóa được thuộc về bản chất gắn liền
với mỗi ngành nghề kinh doanh nhất định là rất hạn chế, vì vậy chỉ có thể
nâng cao hiệu quả của quản trị rủi ro tín dụng bằng cách sử dụng con người là
yếu tố tiên quyết trong vận hành cơ chế quản trị rủi ro tín dụng một cách hiệu
quả. Một mô hình quản trị rủi ro tín dụng có hoàn hảo, một quy trình cấp tín
dụng có chặt chẽ đến mấy nhưng những con người cụ thể để vận hành mô
hình đó bị hạn chế về năng lực hoặc không đáp ứng được các yêu cầu về đạo
đức thì sự thiệt hại, tổn thất tín dụng vẫn xảy ra, thậm chí là rất nặng nề. Một
số nội dung trong giải pháp này là:

+ Lựa chọn những cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn và đạo
đức tốt để bố trí vào bộ phận tín dụng. Trong các công việc ngân hàng, tín
dụng là một nghề đòi hỏi phải có năng lực về phân tích, đánh giá, tính chịu
trách nhiệm rất cao và luôn có những cạm bẫy nên cần có bản lĩnh và đạo đức
nghề nghiệp. Do đó cần tiêu chuẩn hóa cán bộ hoạt động tín dụng theo các
tiêu chí chuyên môn, đạo đức rõ ràng, làm cơ sở để chuẩn hóa và nâng cao
chất lượng của đội ngũ cán bộ làm việc trong một môi trường đầy rủi ro.
+ Bố trí đủ và phân công công việc hợp lý cho cán bộ, tránh tình trạng
quá tải cho cán bộ để đảm bảo chất lượng công việc, giúp cho cán bộ có đủ
thời gian nghiên cứu, thẩm định và kiểm tra giám sát các khoản vay một cách
có hiệu quả.
+ Tăng cường công tác đào tạo, tái đào đạo, thực hiện đào tạo định kỳ và
thường xuyên để nâng cao trình độ kiến thức cũng như khả năng vận dụng
những kinh nghiệm, kỹ thuật mới trong thẩm định tín dụng, quản trị rủi ro,
nâng cao chất lượng tín dụng. Đào tạo phải theo đúng định hướng, chú trọng
đào tạo ngắn hạn theo các chuyên đề bổ trợ cho công việc trực tiếp hàng ngày,
đào tạo nâng cao cho các cán bộ chủ chốt và đã được quy hoạch để xây dựng
bộ khung cho sự phát triển ổn định và vững chắc sau này.
+ Xây dựng chế độ đánh giá, khen thưởng và kỷ luật dựa trên chất lượng
tín dụng và hiệu quả công việc mà cán bộ đó thực hiện.
+ Thực hiện luân chuyển cán bộ trong quản lý khách hàng để giảm trừ
những tiêu cực do những mối quan hệ được tạo lập quá dài, đồng thời giúp
21
Đề án môn học
tạo điều kiện cho các cán bộ tiếp cận những khách hàng khác nhau sẽ có khả
năng xử lý công việc được nhanh chóng.
+ Ban lãnh đạo nói lên vai trò quan trọng của những người đứng đầu
trong một Ngân hàng thương mại,người lãnh đạo giỏi là người biết kết hợp
hài hoà phát huy tối đa sức mạnh của tất cả các nguồn lực Ngân hàng thương
mại mình có thành sức mạnh tổng thể của Ngân hàng.Với tư cách là người

chịu trách nhiệm đầu tiên về sức cạnh tranh của Ngân hàng ,ban lãnh đạo vì
vậy phải là người thực sự đủ tài trên mọi phương diện trong đó có 3 khả năng
chủ yếu:khả năng về chuyên môn,khả năng phân tích phán đoán và khả năng
nghệ thuật đối nhân xử thế.Nghiên cứu học hỏi không chỉ là nhiệm vụ của cán
bộ công nhân viên mà nó còn là nhiệm vụ của lãnh đạo Ngân hàng,để đưa ra
những quyết định sáng suốt thì người lãnh đạo có tầm nhìn rộng trong công
việc,hiểu biết về pháp luật.
III, Củng cố và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng
Trong thời đại ngày nay, muốn thành công trong kinh doanh cần có
những thông tin hữu ích. Khi mà tính kém minh bạch trong các hoạt động
kinh doanh tại Việt Nam còn khá phổ biến thì yêu cầu thiết lập kho dữ liệu
thông tin sử dụng cho hoạt động kinh doanh là hết sức cần thiết. Mặc dù trong
những năm gần đây Trung tâm CIC của NHNN đã có nhiều nỗ lực trong tạo
lập kho dữ liệu về các doanh nghiệp vay vốn cũng như xây dựng đánh giá về
các ngành sản xuất kinh doanh, làm cơ sở trong phân tích tín dụng nhưng khả
năng đáp ứng các yêu cầu này còn nhiều hạn chế. Đặc biệt thông tin tín dụng
tập trung vào nội dung phản ánh, ít có tính dự báo, đưa ra các giải pháp phòng
ngừa và không phản ánh được đặc thù tình hình kinh tế xã hội tại địa phương.
Do đó khả năng sử dụng các thông tin này cho công tác thẩm định tín dụng
chưa cao và chưa đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa rủi ro. Do đó cần tạo lập
hệ thống thông tin tín dụng có tính hữu ích cao hơn theo hướng:
+ Dựa trên cơ sở hợp tác,NHTM thực hiện kết nối kho thông tin dữ liệu
giữa các ngân hàng để bổ sung, tăng tính đầy đủ và sự chính xác của kho dữ
liệu, không chỉ là các dữ liệu về khách hàng mà còn các đánh giá và dự báo về
ngành, làm nền tảng trong phân tích và thẩm định tín dụng.
+ Dựa trên thông tin về các doanh nghiệp, ngành hàng, dự án đã cấp tín
dụng, Trung tâm thông tin tín dụng NHTM cần tổng hợp và đưa ra các đánh
giá, phân tích và cung cấp các thông tin hữu ích cho toàn bộ hệ thống để sử
dụng trong thẩm định tín dụng. Kho dữ liệu này cần có tính mở để có khả
năng tích hợp với kho dữ liệu của các ngân hàng khác nhằm đáp ứng nhu cầu

hợp tác trong cạnh tranh được đặt ra trong môi trường hội nhập.
IV, Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng.
22
Đề án môn học
Thực hiện phân tích tín dụng một cách đầy đủ và toàn diện nhằm đánh
giá khách hàng và tính hiệu quả của dự án trước khi cho khách hàng vay.
Việc phân tích ,thẩm định tín dụng được thực hiện trong và sau khi cho
vay.Đó là yêu cầu bắt buộc của mỗi khoản vay nhằm đảm bảo tính chính
xác,tính kinh tế của đồng vốn tín dụng đến đúng được đối tượng sử dụng vốn
hiệu quả.Quá trình này chỉ chấm dứt khi khoản vay được hoàn trả đúng thời
gian và đầy đủ.Công tác này có vai trò quyết định trong việc khoản vay có
sinh lời hay không, qua đó đảm bảo chu kỳ đông vốn của Ngân hàng từ huy
động đến cho vay đến thu nợ,hoặc có đảm bảo được mục đích kinh doanh của
Ngân hàng hay không.
Rủi ro tín dụng bắt đầu từ những phân tích và thẩm định tín dụng không
cẩn trọng và thiếu chính xác dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm. Đây
là bước cực kỳ quan trọng và đảm bảo hạn chế rủi ro tín dụng với hiệu quả
cao nhất, ít tổn thất nhất. Quá trình thẩm định cần đáp ứng được yêu cầu về
chất lượng phân tích và thời gian ra các quyết định, đảm bảo sự cẩn trọng hợp
lý trên cơ sở phân tích lợi nhuận và rủi ro cũng như đáp ứng được các yêu cầu
về chất lượng phục vụ khách hàng. Giải quyết các đòi hỏi này cần thực hiện:
+ Thực hiện phân tích và thẩm định chính xác rủi ro tổng thể của khách
hàng thông qua xác định giới hạn tín dụng theo định kỳ. Để thực hiện tốt yêu
cầu này, cần chú trọng đến phân tích định lượng, lượng hóa mức độ rủi ro của
khách hàng qua đánh giá các số liệu, đồng thời kết hợp với phân tích định tính
(phân tích môi trường vĩ mô, vi mô, môi trường nội bộ của doanh nghiệp, lịch
sử quan hệ tín dụng với ngân hàng…) để nhận ra những rủi ro tiềm tàng và
khả năng kiểm soát, hạn chế những rủi ro đó của ngân hàng. Thông qua việc
sử dụng các mô hình định lượng, mức độ rủi ro sẽ được lượng hóa hợp lý,
phản ánh một cách rõ ràng hơn mức độ rủi ro của các khoản vay dự kiến và

xây dựng những biên pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trước khi cấp tín
dụng với khách hàng. Nỗ lực xác định giới hạn tín dụng hợp lý sẽ giúp cho
ngân hàng luôn ở thế chủ động và có giải pháp kiểm soát rủi ro tín dụng một
cách hiệu quả.
+ Trên cơ sở giới hạn tín dụng đã được phê duyệt, trong từng lần cấp tín
dụng chủ yếu tập trung phân tích rủi ro của chính phương án vay đó để giảm
bớt thời gian xử lý các giao dịch. Trong phân tích này, cần tập trung đến tính
pháp lý của phương án/dự án vay, đến nguồn cung cấp, thị trường và khả
năng tiêu thụ… Đồng thời cần đưa ra những rủi ro dự kiến, khả năng kiểm
soát của ngân hàng và kịch bản xử lý khi những tình huống xấu xảy ra.
+ Trong thẩm định các dự án đầu tư, tình trạng nâng giá trị thực tế của
dự án để được vay nhiều hơn, thuê đất nhiều hơn khá phổ biến. Điều này đã
23
Đề án môn học
dẫn đến rủi ro bởi vốn tự có tham gia thực sự của khách hàng vay chiếm tỷ lệ
thấp dẫn đến tính chịu trách nhiệm của khách hàng không cao, đồng thời khi
rủi ro xảy ra thì khả năng thu hồi được nợ đã giảm sút. Để đảm bảo xác định
khách quan và chính xác giá trị tài sản bảo đảm, cần thuê một tổ chức định giá
hoặc kiểm toán độc lập, có uy tín để thực hiện việc kiểm toán toàn bộ việc
thanh quyết toán giá trị công trình và định giá tài sản.Đồng thời thực hiện chặt
chẽ và nghiêm túc việc chứng minh nguồn vốn tự có tham gia dự án của
khách hàng, giải ngân đối ứng theo tiến độ công trình.
V, Bảo đảm tín dụng bằng bảo hiểm tín dụng.
Rủi ro tín dụng xuất phát từ nhiều nguyên nhân rất đa dạng mà đôi khi
những rủi ro đó ngân hàng không thể lường trước được. Vì vậy sử dụng các
công cụ bảo hiểm và áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để hạn chế tổn thất
khi rủi ro xảy ra là cực kỳ quan trọng. Một số giải pháp cần thực hiện:
+ Yêu cầu khách hàng vay phải mua bảo hiểm trong quá trình xây dựng
và bảo hiểm công trình (đối với các dự án đầu tư), bảo hiểm hàng hóa… Trên
thực tế thời gian qua, nhờ sử dụng yêu cầu này mà những tổn thất vốn vay do

thiên tai gây ra đã được cơ quan bảo hiểm thanh toán, giảm thiểu đáng kể
những tổn thất.
+ Hoàn thiện về mặt pháp lý của các tài sản bảo đảm tiền vay để thuận
lợi trong xử lý tài sản bảo đảm, nguồn thu nợ thứ hai khi rủi ro tín dụng xảy
ra. Qua xử lý một số tài sản bảo đảm tiền vay cho thấy sở hữu về tài sản
không rõ ràng, không có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nên việc bán tài
sản rất khó khăn (cơ quan công chứng không chịu công chứng hợp đồng,
người mua e ngại…). Nguyên nhân của tình trạng này là do khách hàng ngại
tốn chi phí nên không đăng ký sở hữu tài sản (đặc biệt là đối với nhà xưởng,
công trình trên đất), ngân hàng không đôn đốc khách hàng hoàn thiện các thủ
tục về tài sản bảo đảm, việc đăng ký sở hữu tài sản trên đất gặp nhiều khó
khăn về thủ tục…nên khá nhiều tài sản trên đất, đặc biệt là nhà xưởng, công
trình xây dựng trên đất thế chấp tại Chi nhánh chưa có giấy tờ về sở hữu tài
sản. Do đó hồ sơ bảo đảm tiền vay không đầy đủ, gây khó khăn cho quá trình
xử lý tài sản thu hồi nợ. Để giảm những rủi ro về mặt pháp lý, cần thỏa thuận
việc hoàn thiện về thủ tục đăng ký sở hữu tài sản sau khi dự án hoàn thành là
một điều kiện tín dụng, đồng thời thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, liên
tục rà soát hồ sơ pháp lý và thực trạng của tài sản bảo đảm.

24
Đề án môn học
KẾT LUẬN
Trong quá trình phát triển của một đất nước,hệ thống Ngân hàng thương
mại đóng vai trò rất quan trọng. Các Ngân hàng thương mại góp phần điều
hoà lượng tiền lưu thông giúp ổn định giá cả,chống lạm phát, cung cấp các
dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế giúp quá trình sản xuất trao đổi tiêu dùng
diễn ra trồi chảy hơn. Ngân hàng thương mại huy động với mọi nguồn vốn
trong nền kinh tế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh
doanh.Hệ thống Ngân hàng thương mại cùng với việc hoạt động tín dụng của
nó đã góp phần phát triển kinh tế Việt Nam một cách tích cực.Tín dụng Ngân

hàng đã đạt được một số thành tựu nhất định ,chứng tỏ nó là một bộ phần chủ
yếu trong hệ thống tín dụng ở nước ta,đóng vai trò tích cực trong việc thúc
đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển góp phần vào quá trình xây dựng đất nước đưa đất nước đi lên con
đường chủ nghĩa xã hội.Tuy nhiên, trong nền cơ chế thị trường thì hoạt động
tín dụng trong các Ngân hàng thương mại vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, còn
tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết.
Cùng với những khó khăn của nền kinh tế và cuộc khủng hoảng tài chính
trên phạm vi toàn cầu, chất lượng tín dụng của NHTM Việt Nam đang có
những dấu hiệu giảm sút nghiêm trọng. Do đó nâng cao chất lượng tín dụng
thông qua hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng là nhiệm vụ hàng đầu
của NHTM trong giai đoạn hiện nay. Dựa trên những cơ sở lý luận về rủi ro
tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng, nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân rủi
ro tín dụng cũng như công tác quản trị rủi ro tín dụng tại NHTM, chỉ ra những
mặt còn hạn chế cần khắc phục. Từ đó, chúng tôi đã mạnh dạn đưa ra những
giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng trên cơ sở
những quan điểm định hướng và mục tiêu trong giai đoạn phát triển sắp tới.
25

×