Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Cơ sở lý luận của tăng trưởng giảm nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.36 KB, 69 trang )



1

LỜI MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã và đang tăng trưởng với tốc
độ rất cao. Sự tăng trưởng của nền kinh tế đã làm giảm đáng kể tình trạng nghèo
đói (giảm tỷ lệ đói nghèo từ 58% năm 1993 xuống còn 19.5% vào năm 2004, rồi
16% năm 2006), tỷ lệ số người quá nghèo ( theo tiêu chí thiếu lương thực) giảm từ
25% xuống còn 11% vào năm 1993 và năm 2000. Cuộc sống của người dân nói
chung cũng có những cái thiện đáng kể.
Mặc dù vậy, sự phát triển này không đồng đều, sự tăng lên của thu nhập không
đồng nhất và sự bất bình đẳng về thu nhập ngày càng tăng. Khoảng cách chênh lệch
giữa nông thôn và thành thị, giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số ngày càng
nới rộng. Điều này đã làm giảm đáng kế chất lượng và hiệu quả của đường lối tăng
trưởng giảm nghèo mà Việt Nam đang theo đuổi.
Hiểu và trăn trở với thực trạng đó, đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng thực hiện
mục tiêu tăng trưởng giảm nghèo ở Việt Nam, trong đó đặc biệt chú trọng đến bất
bình đẳng thu nhập giữa người giàu và người nghèo, giữa người Kinh và người dân
tộc thiểu số và giữa các vùng trên toàn quốc.
Hy vọng nghiên cứu có thể đóng góp một phần vào việc thúc đẩy quá trình tăng
trưởng giảm nghèo ở Việt Nam

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu được thực hiện với mục đích đem đến được một cái nhìn tổng quan
về tăng trưởng và giảm nghèo ở Việt Nam, từ đó đưa ra được một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng giảm nghèo.




2

2.2. Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu là trả lời được những câu hỏi sau:
- Tăng trưởng giảm nghèo là gi? Tại sao phải hướng tới mục tiêu tăng trưởng
giảm nghèo?
- Thực trạng đói nghèo thay đổi như thế nào trong bối cảnh có tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam?
- Các yếu tố nào làm hạn chế tăng trưởng hướng tới giảm nghèo tại Việt Nam?
- Phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng giảm nghèo Viêt
Nam là như thế nào?

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Người nghèo ở Việt Nam và tác động của tăng trưởng đối với họ
- Khả năng tham gia vào quá trình tạo nên và hưởng lợi từ tăng trưởng của
người nghèo Việt Nam.
- Các thành phần tham gia vào quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng giảm
nghèo tại Việt Nam
+ Chính phủ và hệ thống chính sách và chi tiêu công của chính phủ
+ Các tổ chức tài chính vi mô hỗ trợ tín dụng cho người nghèo
+ Những người, tổ chức và cơ quan thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu các nội dung về tăng trưởng giảm nghèo, các yếu tố làm hạn
chế tăng trưởng giảm nghèo và giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng giảm nghèo
tại Việt Nam
- Không gian nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu chất lượng tăng trưởng và giảm nghèo tại Việt Nam.


3

- Thời gian nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo của Viêt Nam trong
giai đoạn có tăng trưởng kinh tế từ sau Đổi mới đến nay, đặc biệt là từ năm 1990
đến năm 2006.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu các nội dung trên, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau:
- Phương pháp và phân tích thu thập thông tin thứ cấp
- Phương pháp diễn dịch, quy nạp, phân tích - tổng hợp để hệ thống hoá các
vấn đề lý luận cũng như đánh giá về thực trạng của tăng trưởng giảm nghèo
ở Việt Nam.

5. Kết cấu đề tài nghiên cứu
Bài nghiên cứu được kết cấu gồm 4 chương, mỗi chương lần lượt trả lời 4 câu
hỏi được nêu ở phần 2.2.2. Mục tiêu cụ thể.
Mỗi chương gồm có ba phần: phần mở đầu – giới thiệu chung về nội dung,
nhiệm vụ của chương và mối quan hệ giữa nó với các chương khác trong toàn bài
nghiên cứu, phần nội dung chính của chương và phần tóm tắt cuối chương.











4



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TĂNG TRƢỞNG GIẢM NGHÈO

Chương 1 có nhiệm vụ đưa ra những cơ sở lý luận của vấn đề tăng trưởng
giảm nghèo, làm tiền đề cho các chương sau của nghiên cứu. Nội dung của chương
gồm có:
- Khái niệm nghèo đói và các chỉ số đánh giá tình trạng nghèo đói
- Khái niệm, tầm quan trọng của tăng trưởng giảm nghèo và các chỉ số đánh
giá tăng trưởng giảm nghèo
- Mối quan hệ giữa tăng trưởng giảm nghèo và bất bình đẳng

I. Khái niệm nghèo đói
1. Một số quan điểm về nghèo đói
Nghèo đói là tình trạng thiếu thốn về nhiều phương diên. Không có một định
nghĩa duy nhất về nghèo đói mà khái niệm nghèo khổ được định nghĩa trên nhiều
khía cạnh khác nhau.
1.1.Định nghĩa về đói nghèo
Quan điểm của trường phái phúc lợi:
Theo trường phái này, xã hội có hiện tượng đói nghèo khi một hay nhiều cá
nhân trong xã hội không có được một mức phúc lợi kinh tế được coi là cần thiết để
đảm bảo một cuộc sống tối thiếu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó. [8, trang
177]

1

Quan điểm của trường phái nhu cầu cơ bản

1
Xem “Cách ghi chú tài liệu tham khảo” trong mục “Danh mục tài liệu tham khảo”, trang 58.


5

Đây là một quan điểm về đói nghèo thường được nhiều quốc gia, trong đó có
Việt Nam, sử dụng. Khái niệm được đưa ra tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực
châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Bangkok, Thái Lan vào tháng
9/1993, theo đó “nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa
phương” [15, trang 152].
Quan điểm của trường phái năng lực
Theo trường phái này, phạm vi của đói nghèo càng được mở rộng. Giá trị
cuộc sống của con người không chỉ phụ thuộc duy nhất vào độ thoả dụng hay thoả
mãn các nhu cầu cơ bản, mà đó là khả năng mà một con người có được, là quyền tự
do đáng kể mà họ được hưởng, để vươn tới một cuộc sống mà họ mong muốn.[8,
trang 179]
Nhìn chung, theo WB, định nghĩa nghèo đói ngày càng được mở rộng, và từ
năm 1980 đến nay, một người bị coi là nghèo khi anh ta bị thiếu thốn về năng lực
và cơ hội, bao gồm tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương.
1.2. Phƣơng pháp đánh giá nghèo khổ
Để đánh giá nghèo khổ, các nước sử dụng hai khái niệm về đói nghèo, đó là
nghèo khổ tuyệt đối và nghèo khổ tương đối.
1.2.1. Nghèo khổ tuyệt đối

Khái niệm Nghèo khổ tuyệt đối nhằm “biểu thị một mức thu nhập (chi tiêu)
tối thiểu cần thiết để đảm bảo những nhu cầu vật chất cơ bản ...để mỗi người có thể
“tiếp tục tồn tại”.[15, trang 153] Thước đo nghèo khổ tuyệt đối cho biết số người
sống dưới một ngưỡng nghèo nhất định không thay đổi theo thời gian và không
gian.
Mỗi nước sử dụng những thước đo đói nghèo tuyệt đối riêng, phù hợp với
trình độ phát triển và các chuẩn mực xã hội của mình. Nhìn chung, có hai loại


6

thước đo đói nghèo tuyệt đối được sử dụng ở Việt Nam, đó là chuẩn nghèo của thế
giới do WB quy định và chuẩn nghèo của Việt Nam
Chuẩn nghèo của WB
Chuấn nghèo tuyệt đối do WB quy định là 1USD/ngày/người và 2USD
ngày/người được tính theo ngang giá sức mua ( PPP) năm 1993. Trong đó, ngưỡng
1USD/ngày/người thường được sử dụng cho các nước kém phát triển, chủ yếu là ở
châu Phi; ngưỡng 2USD/ngày/người thường được dùng cho các nền kinh tế có mức
thu nhập trung bình như Đông Á và Mỹ Latinh [1, trang 28].
Chuẩn nghèo của Việt Nam
Chuẩn nghèo của Việt Nam thay đổi theo thời gian.
Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg ngày 27/9/2001 thì chuẩn nghèo
quốc gia của giai đoạn 2001 – 2005 là 80.000đ/người/tháng (tương đương 0.17
USD/ngày) đối với khu vực nông thôn; 100.000đ/người/tháng ( tương đương
0.21USD/ngày) đối với khu vực đồng bằng; và 150.000đ/người/tháng (tương
đương 0.32 USD/ngày) đối với khu vực thành thị.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 quy định chuẩn nghèo
quốc gia của giai đoạn 2006 – 2010 thì ở khu vực nông thôn, những hộ có mức thu
nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở
xuống là hộ nghèo. Còn tại khu vực thành thị, những hộ có mức thu nhập bình quân

từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo.
1.2.2. Nghèo khổ tƣơng đối
Nghèo tương đối được xét trong tương quan xã hội. Đó là tình trạng sống
dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được tại những địa điểm và thời gian xác
định.


7

Một ngưỡng hay dùng để đo lường ngưỡng nghèo khổ tương đối là 50% hay
60% mức thu nhập trung bình đầu người trong một nền kinh tế. Một ví dụ khác về
nghèo tương đối là tình trạng mức thu nhập/chi tiêu thấp hơn 25% so với mức thu
nhập/chi tiêu trung bình trong xã hội.
Nghèo tương đối thể hiện sự bất bình đẳng trong phân phối, khi mà một số
người trong xã hội không được hưởng và không được cung cấp một số tiềm lực vật
chất và phi vật chất mà họ xứng đáng được hưởng tương ứng với sự sung túc của
xã hội đó.
2. Các chỉ số đánh giá tình trạng nghèo đói của một quốc gia
2.1.Chỉ số đếm đầu ngƣời (HCI – Headcount Index)
Chỉ số đếm đầu người là một thước đo được sử dụng phổ biến hiện nay để đánh
giá nghèo khổ về thu nhập, nó cho biết số người sống dưới chuẩn nghèo.
2.2.Tỷ lệ đếm đầu ( HCR – Headcount Ratio)
Theo WB, tỷ lệ đếm đầu của một quốc gia là tỷ lệ phần trăm của tổng số người
sống dưới chuẩn nghèo quốc gia chia cho tổng số dân của quốc gia đó.
2.3. Khoảng cách nghèo (PG – Poverty Gap)
Khoảng cách nghèo - chỉ số thể hiện mức độ trầm trọng của tình trạng đói nghèo
của một quốc gia - là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người nghèo và
ngưỡng nghèo. Khoảng cách nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm so với ngưỡng
nghèo [15, trang 157]. Nó cũng cho biết lượng ngân sách cần thiết để giúp những

người nghèo thoát khỏi nghèo đói.
Ví dụ, khoảng cách nghèo của một quốc gia là 0.2. Như vậy có nghĩa là số tiền
cần phải chuyển cho người nghèo để nhấc họ lên ngưỡng nghèo là 20% ngưỡng
nghèo. Nếu thu nhập bình quân đầu người của quốc gia đó là 2 lần ngưỡng nghèo
thì số tiền người nghèo cần có để thoát nghèo là 10% thu nhập bình quân.


8

Khoảng cách nghèo cho biết tính chất và mức độ của nghèo đói khác nhau ở
những nhóm dân cư khác nhau. Ví dụ, nếu khoảng cách nghèo ở nông thôn cao hơn
khoảng cách nghèo ở thành thị thì với cùng một mức tăng thu nhập, vùng nông
thôn sẽ cần nhiều thời gian hơn so với vùng thành thị để thoát khỏi đói nghèo (cũng
có nghĩa là mức độ nghèo đói ở nông thôn trầm trọng hơn ở thành thị)

II. Tăng trƣởng giảm nghèo
1. Khái niệm và tầm quan trọng của tăng trƣởng giảm nghèo
1.1.Khái niệm
Tăng trưởng giảm nghèo (Poverty-alleviating growth) chính là tăng trưởng kinh
tế gắn liền với xóa đói giảm nghèo, là tăng trưởng hướng tới giảm nghèo.
Tăng trưởng giảm nghèo bao gồm hai khía cạnh:
- Tăng trưởng kinh tế: là sự gia tăng trong tổng sản phẩm quốc nội, tổng thu
nhập quốc dân hoặc thu nhập quốc dân tính trên đầu người.
- Giảm nghèo: là sự cải thiện các chỉ số đánh giá tình trạng nghèo đói của
quốc gia (HCI, HCR và PG đều giảm). Bên cạnh đó, hiệu quả giảm nghèo
còn được đánh giá ở khía cạnh giảm nghèo tương đối, thể hiện ở tình trạng
bất bình đẳng giảm ( hệ số Gini giảm; chỉ số Theil giảm; tốc độ giảm nghèo
đồng đều giữa các nhóm người, các vùng,..)

1.2.Tầm quan trọng của tăng trƣởng giảm nghèo

Để thấy được tầm quan trọng của tăng trưởng giảm nghèo thì cần phải xem xét
tăng trưởng thông qua lăng kính phát triển.
Phát triển là một khái niệm chuẩn tắc, mỗi người có thể đưa ra những tiêu
chuẩn khác nhau để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. Quan điểm
truyền thống về phát triển theo giáo sư Todaro – cũng là quan điểm phổ biến trước
những năm 1970 - cho rằng phát triển bao gồm các 3 khía canh: (1) Tăng trưởng;


9

(2) Thay đổi cơ cấu, (3) Sự cải thiện các chỉ số xã hội: tăng tỷ lệ người biết chữ, số
năm đi học, điều kiện y tế, điều kiện nhà ở...
Từ những năm 1970, khái niệm phát triển bao gồm 3 khía cạnh: (1) Tăng
trưởng; (2) Thay đổi cơ cấu; và (3) Trực tiếp giải quyết các vấn đề nghèo đói, thất
nghiệp và bất bình đẳng.
Sau này, Dudley Seers và G. Myrdal đưa ra các tiêu chuẩn về phát triển như :
năng suất lao động cao hơn, mức sống cao hơn, công bằng xã hội và kinh tế, thống
nhất và độc lập của quốc gia, dân chủ tới tầng lớp thường dân, điều kiện về giáo
dục và việc làm tốt hơn,...
Các khái niệm phát triển không hoàn toàn giống nhau, nhưng tựu chung lại,
chúng đều bao gồm khía cạnh tăng trưởng kinh tế nhằm hướng tới giảm nghèo,
giảm bất bình đẳng. Theo đó, tăng trưởng kinh tế, xét cho cùng, là để phục vụ,
thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu ngày càng cao của con người. Nói cách khác, con
người là mục tiêu cuối cùng của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế sẽ không có ý nghĩa nếu nó không làm cho cuộc sống của con người
tốt đẹp hơn (“what is the meaning of growth if it is not translated into the lives of
people? ” - UN, Human Development Report, 1995). Điều này một lần nữa được
Liên hiệp quốc khẳng định lại qua 8 mục tiêu của tiên niên kỷ ( MDGs) , trong đó
xóa đói giảm nghèo về mọi mặt được coi là thách thức chủ yếu của toàn cộng đồng
thế giới.

Mặc dù các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đã ý thức được tầm
quan trọng của tăng trưởng giảm nghèo nhưng thực hiện thành công mục tiêu tăng
trưởng giảm nghèo tại các quốc gia này không phải là một quá trình đơn giản.
Chính vì vậy, cộng đồng thế giới cùng các nước đang phát triển phải tìm cách thúc
đẩy và nâng cao hiệu quả tăng trưởng hướng tới giảm nghèo, để cho người nghèo
có thể thực sự được hưởng lợi nhiều hơn từ tăng trưởng kinh tế.



10

2. Các chỉ số đánh giá tăng trƣởng giảm nghèo
Tăng trưởng giảm nghèo là một khái niệm tổng hợp, vì vậy để đánh giá tăng
trưởng giảm nghèo, cần phải sử dụng nhiều chỉ số khác nhau:
2.1. Các chỉ số đánh giá tăng trƣởng kinh tế
Trong bài nghiên cứu sử dụng 3 chỉ số phổ biến sau:
- Tổng sản phẩm quốc dân (GDP)
- Tổng sản phẩm quốc nội (GNP)
- Thu nhập bình quân đầu người (GDP/người hay GNP/người)
2.2. Các chỉ số đánh giá hiệu quả giảm nghèo
Bài nghiên cứu sử dụng các chỉ số đánh giá tình trạng nghèo đói của quốc gia đã
được trình bày ở trên, đó là: tỷ lệ đếm đầu (HCR) và khoảng cách nghèo (PG).
Ngoài ra, khi nghiên cứu công tác giảm nghèo còn cần phải xét đến hiệu quả
giảm nghèo tương đối, giảm bất bình đẳng. Các chỉ số được sử dụng trong bài
nghiên cứu để đánh giá khía cạnh này gồm có:
- Hệ số Gini tính theo chi tiêu
- Chỉ số Theil L
- Khoảng cách thu nhập giữa người giàu nhất và người nghèo nhất
- Khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn
- Tỷ lệ hộ nghèo là dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo toàn quốc

- Tốc độ giảm nghèo tại các vùng và các dân tộc
Các chỉ số được nêu ở mục 2.1. và 2.2. được xem xét trong cùng một giai
đoạn để thấy được tình trạng nghèo đói thay đổi thế nào trong giai đoạn có tăng
trưởng kinh tế.

III. Mối quan hệ giữa tăng trƣởng giảm nghèo và bất bình đẳng
Tăng trưởng giảm nghèo và bất bình đẳng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Một sự tăng trưởng có đi đôi với giảm nghèo (bao gồm cả giảm nghèo tuyệt đối và


11

giảm nghèo tương đối) hay không phụ thuộc vào tình trạng bất bình đẳng trong giai
đoạn có tăng trưởng đó.
Theo kết quả một cuộc khảo sát về sự thay đổi của tỷ lệ nghèo đói trong giai
đoạn có tăng trưởng kinh tế tại 74 quốc gia đang phát triển trong những năm 1980 –
1990 (nguồn Ravallion – 2001), những thay đổi trong tình trạng bất bình đẳng có
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tăng trưởng giảm nghèo (xem Bảng 1):




Bảng 1. Thay đổi trong tỷ lệ đói nghèo trong giai đoạn có tăng trưởng kinh
tế tại 74 quốc gia đang phát triển (1980 – 1990)

Bất bình đẳng thu nhập
Thu nhập bình quân đầu ngƣời
Giảm Tăng

Tăng

(17% số trường hợp) đói
nghèo tăng 14.3% /năm
(I)
(30% số trường hợp) đói
nghèo giảm 1.3% /năm
(II)

Giảm
(26% số trường hợp) đói
nghèo tăng 1.7% /năm
(III)
(27% số trường hợp) đói
nghèo giảm 9.6% / năm
(IV)
[2, trang 43]
Từ bảng 1 có thể rút ra vài nhận định:
- Tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực đến hiệu quả giảm nghèo tại các
nước đang phát triển. Đói nghèo đều giảm trong trường hợp (II) – có tăng
trưởng kinh tế và bất bình đẳng tăng và trường hợp (IV) – có tăng trưởng
kinh tế nhưng bất bình đẳng giảm.
- Bất bình đẳng có quan hệ thuận chiều với nghèo đói.


12

+ Đói nghèo đều tăng trong trường hợp (I) và (III), nhưng đói nghèo tăng
mạnh hơn ở trường hợp (I), khi mà bất bình đẳng tăng.
+ Đói nghèo đều giảm trong trường hợp (II) và (IV), nhưng đói nghèo giảm
mạnh hơn trong trường hợp (IV), khi mà bất bình đẳng giảm.
- Tăng trưởng có tác động rất ít đến giảm nghèo nếu bất bình đẳng cũng tăng

trong giai đoạn đó: tốc độ giảm nghèo ở trường hợp (II) nhỏ hơn ở trường
hơp (IV) gần 9 lần.
Như vậy, có thể thấy rằng tình trạng đói nghèo có được cải thiện hay không
không chỉ phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế mà còn phụ thuộc vào bất bình đẳng.
Tác động của tăng trưởng và bất bình đẳng lên đói nghèo, có trường hợp là những
tác động cùng chiều (trường hợp (I) và (IV) ở Bảng 1); có trường hợp là những tác
động ngược chiều (trường hợp (II) và (III) ở Bảng 1). Do đó, tác động tổng hợp của
tăng trưởng và bất bình đẳng lên đói nghèo sẽ là tác động tích cực (nếu nó làm cho
nghèo đói giảm) hoặc tác động tiêu cực (nếu nó làm cho nghèo đói tăng) tùy thuộc
vào mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng.
Do đó, cần phải nghiên cứu tăng trưởng giảm nghèo trong mối quan hệ với tình
trang bất bình đẳng để đánh giá được chính xác hiệu quả của tăng trưởng gắn với
giảm nghèo.











13













Tóm tắt cuối chương1
Nghèo đói là một khái niệm rất rộng, không có định nghĩa duy nhất mà phải
được định nghĩa trên nhiều khía cạnh khác nhau. Đã có ba trường phái đưa ra định
nghĩa về nghèo đói (trường phái phúc lợi, trường phái nhu cầu cơ bản và trường
phái năng lực), theo đó nội hàm của nghèo đói ngày càng được mở rộng. Hiện nay,
nghèo đói được coi là tình trạng thiếu thốn về năng lực và cơ hội, bao gồm tiêu
dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương.
Để đánh giá nghèo đói một cách toàn diện thì cần phải đánh giá cả hai mặt:
nghèo khổ tuyệt đối và nghèo khổ tương đối. Nếu như nghèo khổ tuyệt đối cho biết
số người sốn dưới một ngưỡng nghèo nhất định thì nghèo khổ tương đối cho biết
mối tương quan giữa những nhóm người trong xã hội, qua đó thể hiện tình trạng bất
bình đẳng trong xã hội đó. Khi đánh giá tình trạng nghèo đói của một quốc gia,
người ta dùng 3 chỉ số phổ biến sau: HCI (chỉ số đếm đầu người), HCR ( tỷ lệ đếm
đầu) và PG (khoảng cách nghèo).
Tăng trưởng giảm nghèo chính là tăng trưởng kinh tế gắn liền với xóa đói
giảm nghèo. Tuy rằng hiện nay, các quốc gia trên thế giới đã xác định đây là mục


14

tiêu phát triển hàng đầu của mình nhưng thực hiện thành công mục tiêu này là một
quá trình không đơn giản, đặc biệt là với một nước đang phát triển như Việt Nam.
Để đánh giá một quốc gia có đạt được tăng trưởng giảm nghèo hay không thì

cần phải xem xét những thay đổi trong tình trạng nghèo đói của quốc gia đó trong
giai đoạn có tăng trưởng kinh tế. Tình trạng nghèo đói ở đây phải bao gồm cả
nghèo khổ tuyệt đối (thể hiện qua các chỉ số HCR và PG) và nghèo khổ tương đối
(thể hiện qua các chỉ số đánh giá tình trạng bất bình đẳng như hệ số Gini, khoảng
cách thu nhập giữa người giàu nhất và người nghèo nhất, khoảng cách thu nhập
giũa thành thị và nông thôn,..). Chính vì vậy, khi nghiên cứu tăng trưởng giảm
nghèo thì cần đặt nó trong mối quan hệ với bất bình đẳng.

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TĂNG TRƢỞNG VÀ GIẢM NGHÈO
TẠI VIỆT NAM
Chương 1 đã đưa ra các niệm về nghèo đói, tăng trưởng giảm nghèo và bất
bình đẳng cũng như các chỉ số đánh giá chúng. Dựa trên cơ sở lý luận của chương
1, chương 2 đi sâu nghiên cứu thực trạng quá trình tăng trưởng và giảm nghèo tại
Việt Nam trong giai đoan từ năm 1986 đến năm 2006.
Nội dung của chương này bao gồm các số liệu thực tế về các chỉ số đánh giá
nghèo đói, tăng trưởng giảm nghèo và bất bình đẳng đã được nêu trong chương 1.
Từ đó, bài nghiên cứu đưa ra đánh giá sự tăng trưởng tại Việt Nam có phải là tăng
trưởng giảm nghèo hay không.

I. Tình hình tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
Từ năm 1996 đến nay, kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và ổn định. (xem
bảng 2):
Bảng 2. Các chỉ số kinh tế của Việt Nam năm 1996, 2005, và 2006


15

1996 2005 2006
GDP ( tỷ USD) 24.7 52.5 59.3

Tiết kiệm quốc
gia ròng/GDP
17.1 31.4 32.4
Tiết kiêm quốc
dân ròng/GDP
19.8 35.8 36.9
(Nguồn: website WB) [19]
GDP của Việt Nam tăng hơn gấp đôi, từ 24.7 tỷ USD lên 59.3 tỷ USD năm
2006. Tỷ lệ tiết kiệm quốc gia ròng/GDP và tỷ lệ tiết kiệm quốc dân ròng/GDP
cũng tăng mạnh trong khoảng thời gian tương ứng.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng GDP, GDP bình quân đầu người và Giá trị xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam cũng luôn duy trì ở mức cao và ổn định
với tốc độ tăng trưởng trung bình trong 20 năm (1986 – 2006) tương ứng là 7.1%,
5.35% và 22.15% (xem Bảng 3)
Bảng 3. Các chỉ số thể hiện tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Việt Nam
giai đoan 1986 – 2006
1986 - 1996 1996 - 2006 2005 2006
Tốc dộ tăng trưởng hàng năm
GDP (%) 7.2 7.0 8.4 8.2
GDP bình quân đầu người (%) 5.0 5.7 7.0 6.9
Giá trị xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ (%)
28.1 16.2 20.7 22.7

(Nguồn: website WB) [19]
Như vậy, sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam từ sau Đổi mới được thể hiện
ở sự tăng lên nhanh và ổn định của tất cả các chỉ số kinh tế. Đây là một yếu tố qua


16


trọng góp phần thúc đẩy và tạo nên thành quả to lớn của công tác xóa đói giảm
nghèo của Việt Nam trong giai đoạn tương ứng.
II. Thực trạng đói nghèo tại Việt Nam trong giai đoạn có tăng trƣởng
kinh tế
1. Chỉ số HCR – Tỷ lệ đếm đầu
Tỷ lệ đếm đầu – HCR tính theo chuẩn nghèo quốc tế và chuẩn nghèo quốc gia
đều giảm mạnh qua các năm có tăng trưởng kinh tế (1986 – 2006). Đây là biểu hiện
cụ thể và mạnh mẽ nhất của thành quả quá trình tiến tới tăng trưởng kinh tế đi đôi
với xóa đói giảm nghèo.
Theo chuẩn nghèo quốc tế
Đồ thị 1 cho thấy từ năm 1990 đến 2004, tỷ lệ nghèo của Việt Nam , tính theo
chuẩn nghèo quốc tế (1USD/ ngày/người), đã giảm mạnh từ 50.8% vào năm 1990
xuống còn 10.6% vào năm 2004. Tỷ lệ nghèo Việt Nam tính theo chuẩn quốc tế
(2USD/ngày/người) cũng giảm từ 87% năm 1990 xuống 53.4% vào năm 2004.
Đồ thị 1. Tỷ lệ nghèo của Việt Nam theo chuẩn quốc tế
50.8
39.9
23.6
16.4
16.9
15.2
14.6
13.6
12
10.6
87
80.5
69.4
65.4

65.9
63.5
61.8
58.2
55.8
53.4
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
1990 1993 1996 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Năm
%
Tỷ lệ dân số sống dưới
mức 1 USD/ngày (%)
Tỷ lệ dân số sống dưới
mức 2 USD/ngày (%)
[Nguồn: 1, trang 77]
So với các quốc gia có cùng trình độ phát triển hoặc có trình độ phát triển cao
hơn thì thành tựu giảm nghèo của Việt Nam lại càng nổi bật. Theo WB, năm 2003,


17


tỷ lệ nghèo đói theo ngưỡng 1USD/ngày/người của Việt Nam là 12%, trong khi đó
của Trung Quốc là 16.1%, Ấn Độ 34.7% và Philippin 14.6% [1, trang 77]
Theo chuẩn quốc gia
Tính trung bình kể từ khi đổi mới đến năm 2006, mỗi năm Việt Nam giảm được
2% số hộ nghèo đói. [1, trang 77]. Tính theo chuẩn quốc gia do Tổng cục Thống kê
xác định (theo đó Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm là 2.100
calo/người/ngày; Đường đói nghèo chung, ngoài đói nghèo về lương thực thực
phẩm, còn tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm. Năm
1993 đường đói nghèo chung có mức chi tiêu là 1.16 triệu đồng/năm/người; năm
1998 là 1.79 triệu đồng/năm/người) trong giai đoạn 1993 – 2002, tỷ lệ nghèo của
Việt Nam cũng giảm mạnh: tỷ lệ nghèo chung giảm gần một nửa, từ 58.1% vào
năm 1993 xuống còn 28.9% vào năm 2002; còn tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
(2.100 calo) giảm từ 24.9% vào năm 1993 xuống còn 10.9% vào năm 2002.
Đồ thị 2. Tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia giai đoạn
1993 - 2002
58.1
37.4
28.9
24.9
15
10.9
0
10
20
30
40
50
60
70

1993 1998 2002
Năm
%
Nghèo chung
Nghèo lương thực,
thực phẩm (2.100 calo)

[Nguồn: 1, trang 78]
Tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia giai đoạn 2001 – 2005 (theo đó từ năm 2001,
chuẩn nghèo là 80 nghìn đồng/ngƣời/tháng ở các vùng hải đảo và vùng nông thôn
miền núi;100nghìn đồng/ngƣời/tháng ở các vùng nông thôn đồng bằng; 150
nghìn đồng/ngƣời/ tháng ở khu vực thành thị) cũng có những thay đổi tích cực: tỷ
lệ nghèo liên tục giảm từ 17.2% vào đầu năm 2001 xuống còn 11% vào cuối năm
2003, 8.3% vào năm 2004 và 7% vào năm 2005 [1, trang 81, 83]


18

2. Chỉ số PG – Khoảng nghèo
Số liệu thống kê cho thấy không chỉ có tỷ lệ nghèo đói giảm trong giai đoạn có
tăng trưởng kinh tế mà khoảng cách nghèo, phần thu nhập/ chi tiêu mà người nghèo
thiếu so với mức chuẩn nghèo, cũng giảm trong giai đoạn đó ( từ 19% vào năm
1993 xuống còn 5% vào năm 2004).
Đồ thị 3. Khoảng cách nghèo của Việt Nam
19
10
7
5
0
5

10
15
20
1993 1998 2002 2005
%
Khoảng cách nghèo
(%)
[Nguồn: 12, trang 22]
III. Thực trạng bất bình đẳng tại Việt Nam trong giai đoạn có tăng
trƣởng kinh tế
Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế trong giai đoạn 1993 – 2004,
tình trạng bất bình đẳng ở Việt Nam cũng có xu hướng tăng lên, trong đó có ba sự
bất bình đẳng ngày càng trở nên sâu sắc: bất bình đẳng về thu nhập, bất bình đẳng
vùng miền và bất bình đẳng giữa các dân tộc.
1.Bất bình đẳng về thu nhập
1.1. Hệ số Gini
Hệ số Gini là thước đo phổ biến về bất bình đẳng trong thu nhập (chi tiêu). Hệ
số Gini của Viêt Nam cho thấy Việt Nam là tương đối bình đẳng so với các nước
cùng trình độ phát triển hay có trình độ phát triển cao hơn. Theo báo cáo HDI 2006


19

của UNDP, hệ số Gini năm 2006 của Việt Nam là 37% trong khi hệ số đó của
Trung Quốc là 44.7%, Thái Lan là 42%, Xingapo là 42.% [1, trang 79]
Tuy nhiên, hệ số Gini của Việt Nam tăng dần qua các năm, (xem Bảng 4):


Bảng 4. Hệ số Gini của Việt Nam tính theo chi tiêu
1993 1998 2002 2004

Toàn quốc 0.34 0.35 0.37 0.37
Thành thị 0.35 0.34 0.35 0.33
Nông thôn 0.28 0.27 0.28 0.30
[Nguồn: 12, trang 33]
Như vây, có thể rút ra một số đặc điểm của tình trạng bất bình đẳng của Việt
Nam trong các năm có tăng trưởng kinh tế từ 1993 đên 2002 như sau:
- Tình trạng bất bình đẳng ở Việt Nam đang có xu hướng tăng dần cùng với sự
tăng trưởng kinh tế của đất nước.
- Vùng thành thị luôn có mức độ bất bình đẳng cao hơn vùng nông thôn. Tuy
nhiên, sự chênh lêch này đang dần rút ngắn do sự tăng lên của mức độ bất bình
đẳng ở vùng nông thôn và sự giảm xuống của mức độ bất bình đẳng ở vùng thành
thị.
- Vùng thành thị tuy bất bình đẳng hơn nhưng mức độ bất bình đẳng ở đây hầu
như không thay đổi trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế. Trái lại, vùng nông thôn ít


20

bất bình đẳng hơn nhưng mức độ bất bình đẳng ở đây lại biến động khá nhiều khi
có tăng trưởng kinh tế.
1.2. Khoảng cách thu nhập/ chi tiêu
Khoảng cách thu nhập giữa 20% những người giàu nhất và 20% những người
nghèo nhất của Việt Nam đang ngày một nới rộng. Theo Đồ thị 4, năm 1993, thu
nhập của 20% nhóm người giàu nhất gấp 4.9 lần thu nhập của 20% nhóm người
nghèo nhất và khoảng cách thu nhập là 1,16 triệu đồng (theo giá năm 1993). Đến
năm 2004, khoảng cách thu nhập này đã được nới rộng lên 4.6 triệu (theo giá năm
1993) và thu nhập của nhóm người giàu nhất gấp 6.28 lần thu nhập của nhóm
người nghèo nhất.[12, trang 26, 27]
Đồ thị 4. Khoảng cách thu nhập tại Việt Nam
407

651
873
594
967
1370
774
1259
1862
1044
1736
2674
2023
3575
5475
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
1993 1998 2004
Thu nhập (nghìn đồng/năm)
Nhóm nghèo nhất
Nhóm cận nghèo nhất
Nhóm trung bình
Nhóm cận giàu nhất
Nhóm giàu nhất

Xét về chi tiêu, các số liệu thống kê cũng cho thấy sự bất bình đẳng ngày càng

lớn giữa 20% những người giàu nhất và 20% những người nghèo nhất. Năm 1993,
nhóm người nghèo nhất chi tiêu 8.4% tổng chi tiêu toàn xã hội; nhóm người giàu
nhất chi tiêu nhiều gấp 4.9 lần (41.8% tổng chi tiêu). Đến năm 2002, con số này đã


21

tăng lên 5.8 lần với tỷ lệ chi tiêu của nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất tương
ứng là 7.8% và 45.9%. [1, trang 78]
2. Bất bình đẳng vùng miền
2.1.Tỷ lệ nghèo theo vùng
Người nghèo chủ yếu tập trung ở vùng nông thôn, miền núi với 26.1% số người
nghèo sống ở vùng nuí phía Bắc và 21.1% sống ở phía Bắc duyên hải miền Trung.
Mức độ bất bình đẳng vùng miền còn rõ ràng hơn nữa khi đặt tỷ lệ người nghèo của
vùng bên cạnh tỷ lệ phần trăm dân số vùng đó so với cả nước ( xem Bảng 5):
Bảng 5. Tỷ lệ nghèo đói theo vùng năm 2004
Tỷ lệ nghèo đói (%) Tỷ lệ dân số (%)
Vùng núi phía Bắc 26.1 14.4
Tây Bắc Bộ 17.2 11.4
Đông Bắc Bộ 8.9 3.0
Châu thổ sông Hồng 13.6 21.8
Phía bắc duyên hải miền
Trung
21.1 12.9
Phía nam duyên hải miền
Trung
8.3 8.6
Tây Nguyên 9.6 5.7
Đông Nam Bộ 4.4 15.9
Đồng bằng sông Cửu Long 17.0 20.9

Toàn quốc 100.0 100.0
[Nguồn: 12, trang 36]


22

Như vậy, hơn 26% người nghèo tập trung ở vùng núi phía Bắc trong khi dân số
của khu vực này chỉ chiếm hơn 14% dân số toàn quốc. Trái lại, vùng Đông Nam
Bộ có số dân tương ứng 15.9% dân số cả nước nhưng người nghèo ở đây chỉ chiếm
hơn 4% số người nghèo toàn quốc, chỉ xấp xỉ 1/7 số người nghèo ở vùng núi phía
Bắc.
2.2. Tốc độ giảm nghèo theo vùng
Không chỉ chênh lệch nhau về tỷ lệ nghèo đói, các vùng, miền còn khác nhau về
tốc độ giảm nghèo. Đông Bắc Bộ là vùng thành công nhất về xóa đói giảm nghèo
với tỷ lệ nghèo đói của vùng giảm mạnh từ 86% (vào năm 1993) xuống còn 29%
vào năm 2004, tức là giảm 57% lần trong 11 năm. Tây Bắc Bộ có tốc độ giảm
nghèo chậm nhất, chỉ giảm 22% , từ 81% ( năm 1993) xuống 59% (năm 2004).
[12,trang 34]
Các nghiên cứu của VLSS 1993- VLSS 1998 và VHLSS 2002 – VHLSS 2004
còn cho thấy sự khác biệt về địa lý có ảnh hưởng đến việc các hộ nghèo thoát
nghèo và viêc các hộ cận nghèo không bị rơi vào nghèo đói hay không. Các nghiên
cứu cũng cho thấy “những hộ gia đình ở Đông Nam Bộ, đồng bằng châu thổ sông
Hồng và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long có nhiều khả năng thoát nghèo hơn là
những hộ gia đình khác có những đặc điểm tương tự (như dân tộc, trình độ văn hóa,
nghề nghiệp, khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng,..) nhưng sống ở phía Bắc duyên hải
miền Trung, nơi mà những cơ hội thị trường có hạn hơn.” [12, trang 35]
Sự không đồng nhất về tốc độ giảm nghèo này (vùng tập trung ít người nghèo
có tốc độ và khả năng giảm nghèo cao, vùng tập trung nhiều người nghèo có tốc độ
và khả năng giảm nghèo thấp) càng làm sâu sắc hơn mức độ bất bình đẳng giữa các
vùng vốn đã khác nhau về tỷ lệ nghèo đói



23

2.3. Khoảng cách nghèo của các vùng
Mức độ trầm trọng về nghèo đói tại các vùng khác nhau khá nhiều. Nhìn chung,
những vùng tập trung nhiều người nghèo cũng là những vùng mà mức độ trầm
trọng của đói nghèo càng sâu sắc. Tình trạng nghèo đói ở Tây Bắc Bộ là trầm trọng
nhất với PG=19.1% vào năm 2004, gấp gần 16 lần khoảng cách nghèo của vùng
Đông Nam Bộ (1.2% vào năm 2004). Tuy vậy, khoảng cách nghèo tại tất cả các
vùng đều giảm dần qua các năm có tăng trưởng kinh tế (1993 – 2004), tuy ràng tốc
độ giảm khoảng cách nghèo cũng khác nhau. [12, trang 36]
2.4. Chi tiêu bình quân đầu ngƣời của các vùng
Đông Nam Bộ và đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là những vùng có chi tiêu
bình quân đầu người cao nhất cả nước. Tây Bắc, Tây Nguyên và phía Bắc duyên
hải miền Trung luôn là những vùng có chi tiêu bình quân đầu người thấp nhất cả
nước. Hơn nữa, tốc độ tăng lên của chi tiêu không đồng nhất và khoảng cách chênh
lệch về chỉ số này giữa các vùng ngày càng tăng trong giai đoan 1993 – 2004. Năm
1993, chênh lệch chi tiêu trung bình giữa vùng Đông Nam Bộ (vùng có chi tiêu
bình quân đầu người cao nhất) và Tây Bắc (vùng có chi tiêu bình quân đầu người
thấp nhất)là 845,000 đồng. Năm 1998, 2002 và 2004, chỉ số này tăng dần, lần lượt
là 1,723,000 đồng, 1,802,000 đồng và 2,129,000 đồng. [12, trang 37]
3. Bất bình đẳng giữa các dân tộc
3.1. Tỷ lệ nghèo đói và tốc độ giảm nghèo của các dân tộc
Người dân tộc thiểu số chỉ chiếm 12.6% dân số toàn quốc, nhưng lại chiếm đến
39.3% tổng số người nghèo toàn quốc [12, trang 38]


24


Hơn nữa, tỷ lệ người nghèo trong nhóm dân tộc thiểu số cũng luôn cao hơn tỷ lệ
người nghèo trong dân tộc Kinh. Tỷ lệ nghèo trung bình của nhóm dân tộc thiểu số
trong giai đoạn 1993 – 2004 là 72.75%, trong khi đó, con số này ở dân tộc Kinh là
30.5%. Tốc độ giảm nghèo của dân tộc thiểu số cũng thấp hơn nhiều so với dân tộc
Kinh. Trong 11 năm (1993 – 2004), tỷ lệ nghèo trong dân tộc Kinh đã giảm 40%
trong khi tỷ lệ nghèo trong dân tộc thiểu số mới giảm được 25%. Điều này càng
làm sâu sắc hơn mức độ bất bình đẳng giữa các dân tộc
3.2. Khoảng cách nghèo của các dân tộc
Độ sâu của nghèo đói luôn trầm trọng hơn tại nhóm các dân tộc thiểu số. Tuy
rằng khoảng cách nghèo của tất cả các dân tộc đều giảm trong bối cảnh có tăng
trưởng kinh tế, nhưng chênh lệch về khoảng cách nghèo giữa các dân tộc lại tăng
mạnh. Năm 1993, khoảng cách nghèo của nhóm dân tộc thiểu số gấp 2.18 lần
khoảng cách nghèo của dân tộc Kinh. Nhưng đến năm 2004, con số này đã tăng lên
thành 6.3 lần. [12, trang 38]
3.3. Chi tiêu bình quân của các dân tộc
Người dân tộc thiểu số luôn có mức chi tiêu thấp hơn nhiều so với mức chi tiêu
của người Kinh. Không những thế, chênh lệch về chi tiêu giữa người Kinh và
người dân tộc thiểu số cũng ngày một lớn: Năm 1993, chi tiêu bình quân của người
Kinh gấp 1.72 lần chi tiêu bình quân của người dân tộc thiểu số. Đến năm 2004, sự
chênh lệch này đã tăng lên thành 2.15 lần. Rõ ràng, bất bình đẳng giữa các dân tộc
đang ngày càng tăng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.[12,trang
41]
IV. Đánh giá quá trình tăng trƣởng dẫn tới giảm nghèo tại Việt Nam


25

Mặc dù trong 20 năm từ sau Đổi mới - giai đọan có kinh tế Việt Nam tăng
trưởng nhanh, tình trạng đói nghèo tuyệt đối của Việt Nam đã được cải thiện nhiều,
thể hiện qua tỷ lệ đếm đầu và khoảng cách nghèo giảm liên tục qua các năm, nhưng

nghèo tương đối lại ngày một tăng do bất bình đẳng không giảm mà thậm chí còn
ngày một tăng.Như vậy, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam chưa thể được đánh giá là
tăng trưởng giảm nghèo.




Tóm tắt cuối chương 2
Trong giai đoan 1986 – 2006, kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh, thể hiện ở
GDP, tốc độ tăng GDP và GDP bình quân đầu người liên tục tăng qua các năm.
Điều này đã góp phần thúc đẩy và tạo nên thành quả to lớn của công cuộc xóa đói
giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn tương ứng, thể hiện qua chỉ số HCR và
PG giảm mạnh trong giai đoạn có tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo còn chưa bền vững.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh và mạnh, tình trạng bất bình đẳng
tại Việt Nam cũng trở nên ngày càng nghiêm trọng và nghèo tương đối ngày càng
gia tăng.
Tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoan 1986 – 2006, chính vì thế,
chưa thể được đánh giá là tăng trưởng giảm nghèo.

×