TỔNG QUAN VỀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
I. LỊCH SỬ TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH QUA CÁC GIAI ĐOẠN
I.1 Giai đoạn 1959 - 1965
Đây là chặng đường đầu tiên với muôn vàn khó khăn, thử thách. Sau Hiệp định
Giơnevơ 1954, hòa bình được lập lại ở miền Bắc. Cùng với việc khôi phục, cải tạo và phát
triển kinh tế, hàn gắn viết thương chiến tranh, Đảng và Nhà nước chú trọng đẩy mạnh sự
nghiệp văn hóa giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Ngày 22/7/1959 Bộ trưởng Bộ Giáo
dục Nguyễn Văn Huyên ký Nghị định số 379/NĐ thành lập một số trường sư phạm, trong
đó có trường Trung cấp Sư phạm Quảng Bình. Trường có nhiệm vụ đào tạo giáo viên cấp 2
về khoa học tự nhiên và xã hội phục vụ các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình và khu vực Vĩnh
Linh. Cơ sở đầu tiên của Trường đóng tại Tam Tòa (Đồng Hới). Ban đầu Trường có 3 tổ
chuyên môn là tổ Tự nhiên, tổ Xã hội, tổ Bộ môn chung và 5 tổ hành chính là tổ Giáo vụ,
tổ Hành chính – Quản trị, tổ Tài vụ, tổ Tổ chức và tổ Nhà ăn.
Ngày 27/10/1959, tại thị xã Đồng Hới, Trường đã tổ chức Lễ khai giảng khóa học đầu
tiên. Từ năm 1959 đến 1965, Trường đã đào tạo được 3417 giáo viên, trong đó 1.151 giáo
viên cấp 2 ; 2.266 giáo viên cấp 1, phục vụ cho Quảng Bình, Hà Tĩnh và Vĩnh Linh.
I.2 Giai đoạn 1965 – 1975
Thời kỳ này Trường trải qua những năm tháng chiến tranh vô cùng ác liệt, gian khổ
nhưng cũng rất anh dũng, kiên cường; vừa giảng dạy, vừa phục vụ sản xuất và chiến đấu,
đạt được nhiều kết quả rất đáng tự hào.
Do điều kiện chiến tranh, từ 1965 đến 1975, Trường đã phải 8 lần chuyển địa điểm,
qua nhiều nơi, từ miền núi xuống đồng bằng, đủ các địa bàn Đông, Tây, Nam, Bắc của
Quảng Bình. Tháng 1/1965, Trường chuyển về đóng tại xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh,
một vùng bán sơn địa ở phía Tây Nam Đồng Hới. Tháng 2/1965, Trường lại sơ tán về Văn
Hóa, Tuyên Hóa, một xã miền núi bên bờ sông Gianh, ở Tây Bắc Quảng Bình. Tháng
8/1965 thầy và trò lại phải di chuyển đến Ngọn Rào (Bố Trạch), một thung lũng cách
Đường 15 theo đường chim bay chưa đầy 15 km, nơi thường xuyên bị máy bay địch oanh
tạc. Một năm sau, tháng 10/1966, Trường chia làm 2: Sư phạm sơ cấp chuyển về thôn Cây
Lim thuộc xã Lâm Trạch (Bố Trạch); Sư phạm trung cấp chuyển về xã Quảng Tân (Quảng
Trạch). Tháng 6/1967 Trường lại sơ tán đến Cao Mại, một xã rẻo cao ở huyện Tuyên Hóa.
Tháng 11/1968 đế quốc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc. Tỉnh có chủ trương chuyển
Trường về đồng bằng để vừa học vừa sản xuất. Tháng 8/1970 Trường chuyển về xã Hồng
Thủy, huyện Lệ Thủy. Nhưng kế hoạch sản xuất (trồng cói lác) không khả thi nên UBND
tỉnh lại chuyển Trường về Phú Định, một vùng đồi ở miền Tây Bố Trạch. Đầu năm học
1974-1975, Trường chuyển về Zét, ở phía tây Đồng Hới, sát trung tâm hành chính của Tỉnh
lúc bây giờ là Cộn, kết thúc cuộc trường chinh 10 năm khói lửa của thầy và trò trường
Trung cấp sư phạm Quảng Bình.
Trong 10 năm chiến tranh gian khổ, thầy và trò đã vượt qua muôn vàn khó khăn, hy
sinh, mất mát, đào tạo được 2.263 giáo viên và bồi dưỡng hàng trăm giáo viên các bậc học
mầm non, cấp 1 và cấp 2, đảm bảo an toàn phòng không, tích cực phục vụ chiến đấu và lao
động sản xuất. Trường Trung cấp Sư phạm Quảng Bình là 1 trong 9 trường sư phạm trên
toàn miền Bắc được công nhận là trường tiên tiến xuất sắc của ngành giáo dục; được Nhà
nước tặng Huân chương chiến công hạng 3, huân chương kháng chiến hạng 3; được Bộ
Giáo dục và UBND Tỉnh tặng cờ thi đua và nhiều bằng khen, giấy khen.
Năm 1970, Tỉnh quyết định nhập 4 trường: Trường Sư phạm trung cấp, Trường Sư
phạm sơ cấp, Trường Sư phạm Mẫu giáo, Trường Sư phạm Bồi dưỡng thành Trường Sư
phạm Quảng Bình. Cuối năm học 1973-1974, Trường Sư phạm Quảng Bình lại tách làm 3
trường: Trường Sư phạm cấp 1; Trường Sư phạm 10+3 và Trường Sư phạm mẫu giáo.
I.3 Giai đoạn 1975-1979
Sau chiến tranh, đất nước bộn bề khó khăn, thiếu thốn, nhưng với truyền thống anh
hùng và nhiệt tình cách mạng, Trường Sư phạm 10+3 đã không ngừng phát triển về số
lượng, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Giai đoạn này được đánh giá là thời kỳ
phát triển sôi động nhất của Trường Sư phạm 10+3 Quảng Bình.
Năm 1976 ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế sáp nhập thành tỉnh
Bình Trị Thiên, Trường Sư phạm 10+3 Quảng Bình có thêm nhiệm vụ đào tạo giáo viên
tăng cường cho vùng mới giải phóng ở Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Thời kỳ này Trường
chuyển về phía Tây Cộn, trên một khu đất rộng rãi với cơ sở vật chất để lại của một số cơ
quan cấp tỉnh đã chuyển vào Huế. Từ 1976-1979, Trường đã đào tạo được 2.479 giáo viên
cấp 2 hệ 10+3, chi viện cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, kịp thời đáp ứng
nhu cầu giáo dục của cả tỉnh. Cũng thời gian này, Trường đã quan tâm chuẩn hóa đội ngũ,
động viên một số giáo viên đi học sau đại học khóa đầu tiên tại Hà Nội.
Sau gần 20 năm xây dựng và phát triển, ngày 21/8/1978, Chính phủ quyết định nâng
cấp Trường Sư phạm 10+3 Quảng Bình thành Trường Cao đẳng Sư phạm. Đây là thành
quả của sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của thầy và trò, là mốc quan trọng trong lịch sử
Nhà trường. Ngày 20/3/1979, Nhà trường vinh dự được Chủ tịch nước quyết định tặng
thưởng Huân chương Lao động hạng 3.
I.4 Giai đoạn 1979-1989
Năm 1979, để thuận tiện cho công tác quản lý, Tỉnh ủy, UBND Tỉnh quyết định nhập
Trường Cao đẳng Sư phạm vừa được nâng cấp ở Quảng Bình với Trường CĐSP Huế thành
Trường CĐSP Bình Trị Thiên, cơ sở chính tại thành phố Huế, cơ sở 2 tại Cộn (Đồng Hới,
Quảng Bình).
Nhiệm vụ của cơ sở 2 chủ yếu là giải quyết các công việc còn tồn đọng ở thời điểm
giao thời. Có 2156 giáo viên cấp 2 (hệ cao đẳng và 1 khóa hệ 10+3), 1070 giáo viên bồi
dưỡng theo hình thức chuyên tu, tại chức tốt nghiệp tại cơ sở Cộn thời kỳ này.
Kết thúc năm học 1982-1983, cơ sở 2 ngưng hoạt động để chuyển cán bộ giảng viên
và một phần cơ sở vật chất vào Huế.
I.5 Giai đoạn từ 1989 đến 1995
Ngày 30/6/1989 Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 5 quyết định tách tỉnh Bình Trị Thiên
thành 3 tỉnh như cũ. Sau khi chia tỉnh, Trường CĐSP Bình Trị Thiên trở thành Trường
CĐSP Thừa Thiên - Huế. Để đáp ứng nhu cầu đào tạo phát triển giáo dục, ngày 10/2/1990
Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình đã có Quyết định số 17/QĐ-UB về việc thành lập
Trường Trung học Sư phạm Quảng Bình, trực thuộc Sở Giáo dục Quảng Bình. Đến tháng
8/1990 Trường chính thức đi vào hoạt động. Địa điểm của Trường đóng tại Cộn; cơ sở vật
chất rất ít ỏi tiếp nhận của Trường Bồi dưỡng giáo viên Bắc Bình Trị Thiên trước đây; đội
ngũ cán bộ, giảng viên là cán bộ giảng viên của Trường CĐSP Bình Trị Thiên, Trường Sư
phạm Mẫu giáo chuyển từ Huế ra và một số của Trường Bồi dưỡng chuyển sang. Những
năm đầu, Trường THSP Quảng Bình chỉ có 2 khoa: Tiểu học, Mầm non và 2 phòng: Giáo
vụ, Hành chính.
Ngày 16/9/1990, Trường THSP Quảng Bình khai giảng khóa đầu tiên với 101 giáo
sinh, hệ đào tạo giáo viên tiểu học.
Ngày 27/9/1991 Trường THSP Quảng Bình chuyển về địa điểm mới ở phường Bắc
Lý, thị xã Đồng Hới, một phần của Trường Đại học Quảng Bình đóng bây giờ..
Giai đoạn từ 1991 đến 1994, ngoài đào tạo giáo viên tiểu học trình độ THSP hệ 12+2,
để đáp ứng nhu cầu cấp bách của ngành giáo dục, Trường được Sở Giáo dục giao nhiệm vụ
đào tạo giáo viên cắm bản cho vùng cao, đối tượng là học sinh tốt nghiệp THCS. Các loại
hình đào tạo này rất linh hoạt, từ khóa đào tạo cấp tốc 1 tháng và học rải trong các hè, đến
các hệ 12+1+1; 9+1+2.
Cùng với phát triển quy mô, loại hình đào tạo, cơ sở vật chất của nhà trường không
ngừng được tăng cường. Cuối năm 1995, khối phòng học 3 tầng đầu tiên đã hoàn thành.
I.6 Giai đoạn từ 1995 đến 2005
Ngày 25/9/1995, một sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của Nhà
trường: Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 602-TTg về việc nâng cấp các Trường
trung học sư phạm của các tỉnh Quảng Bình, Hoà Bình, Phú Yên thành các Trường cao
đẳng sư phạm. Trường CĐSP Quảng Bình trực thuộc Sở Giáo dục Quảng Bình, có nhiệm
vụ đào tạo và bồi dưỡng giáo viên phổ thông của tỉnh Quảng Bình đạt trình độ cao đẳng,
nghiên cứu khoa học giáo dục phục vụ yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục
phổ thông ở địa phương.
Việc nâng cấp thành trường CĐSP là điều kiện thuận lợi để Nhà trường tiếp tục mở
rộng quy mô, loại hình đào tạo, tích cực chuẩn bị cho sự ra đời của Trường Đại học Quảng
Bình. Ngoài việc củng cố các ngành đào tạo giáo viên, Nhà trường còn mở thêm nhiều
ngành, nhiều hệ đào tạo ngoài sư phạm, liên kết đào tạo đại học, chuyển thành trường cao
đẳng đa ngành, đa hệ.
Tháng 11 năm 1995 Trường CĐSP Quảng Bình trở thành đơn vị trực thuộc Ủy ban
nhân dân tỉnh.
Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, Nhà trường đã không ngừng đổi
mới nội dung, chương trình, kiện toàn bộ máy tổ chức, tích cực xây dựng đội ngũ, xây
dựng cơ sở vật chất, thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế. Thời kỳ này là lần đầu tiên Trường
có phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ và giảng viên chính.
Thời gian đầu khi mới nâng cấp thành CĐSP, Trường có 6 khoa: Tiểu học, Xã hội, Tự
nhiên - Kỹ thuật - Tin học, Ngoại ngữ, Thể dục-Nhạc-Họa, Mầm non; 3 phòng: Đào tạo-
Bồi dưỡng, Hành chính - Tổng hợp; Tổ chức - Công tác sinh viên; 2 tổ trực thuộc: tổ Bộ
môn chung và tổ Tài vụ. Đến tháng 2/1999 thành lập khoa Bồi dưỡng cán bộ quản lý trên
cơ sở bộ phận Bồi dưỡng của phòng Đào tạo-Bồi dưỡng và phòng Đào tạo – Bồi dưỡng
đổi tên thành phòng Đào tạo và năm 2005 thành lập khoa Giáo dục thể chất – Quốc phòng
được thành lập.
Với sự nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ, giảng viên, sinh viên; sự quan tâm chỉ đạo
sâu sát, hiệu quả của Tỉnh ủy, UBND Tỉnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong 10 năm từ 1995-
2005, Nhà trường đã có những thay đổi to lớn về quy mô đào tạo, đội ngũ giảng viên, cơ
sở vật chất và năng lực quản lý đào tạo; đạt được nhiều thành tích nổi bật, được tặng nhiều
bằng khen, giấy khen và phần thưởng cao quý. Nhiều năm liền Trường CĐSP Quảng Bình
là đơn vị tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh, các tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên là tổ
chức vững mạnh, xuất sắc; nhiều cán bộ, giảng viên là chiến sĩ thi đua, giáo viên giỏi, được
Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen. Ghi nhận quá trình phấn đấu và tôn vinh thành tích
của cán bộ, giảng viên và sinh viên, ngày 17/9/1999 Chủ tịch nước quyết định trao tặng
Huân chương Lao động Hạng nhì cho Nhà trường.
I.7. Giai đoạn từ 2006 đến nay
Đây là khoảng thời gian có nhiều thăng trầm, biến động đối với Nhà trường. Ngày
24/10/2006 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Trường Đại học Quảng Bình.
Chức năng nhiệm vụ chính của Trường là đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh Quảng Bình và
các vùng phụ cận, kể cả hợp tác, hỗ trợ giáo dục, đào tạo cho các tỉnh biên giới của nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Năm 2007 Trường tuyển sinh đào tạo đại học hệ chính quy khóa đầu tiên với 421 sinh
viên các ngành: Sư phạm Toán – Lý, Sư phạm Văn – Sử; Sư phạm Tiểu học, Tiếng Anh,
Nuôi trồng thủy sản và Tin học. Năm 2011 Trường liên kết với Đại học Đà Nẵng đào tạo
cao học các ngành Kinh tế phát triển và Khoa học máy tính.
Việc chuyển đổi phương thức đào tạo theo niên chế sang hệ thống tín chỉ được triển
khai từ năm học 2008-2009, đến năm 2010 cơ bản chuyển hẳn sang đào tạo theo tín chỉ.
Hiện nay, Trường có 20 đơn vị trực thuộc gồm 11 khoa, 7 phòng, 1 ban QLDA và 1
Trung tâm Tin học –Ngoại ngữ.
II. TÌNH HÌNH HIỆN NAY
II.1 CƠ SỞ VẬT CHẤT
II.2 CƠ CẤU VÀ BÔ MÁY TỔ CHỨC
Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý Trường Đại học từng bước được hoàn thiện. Khi mới
thành lập trường Đại học, có 9 khoa: Toán – Tin; Tự nhiên – Kỹ thuật; Ngoại ngữ; Xã hội-
Du lịch-Kinh tế; Mác Lênin – Tư tưởng Hồ Chí Minh (gồm cả nhóm Giáo dục quốc
phòng); Sư phạm Tiểu học – Mầm non; Âm nhạc –Mỹ thuật (bao gồm cả bộ phận Giáo dục
thể chất); Nông –Lâm – Thủy sản; Giáo dục thường xuyên (khoa Bồi dưỡng cán bộ quản lý
trước đây); có 7 phòng: Đào tạo; Tổ chức – Hành chính – Tổng hợp; Khảo thí và Kiểm
định chất lượng giáo dục; Công tác sinh viên; Quản trị; Kế hoạch – Tài chính; Quản lý
khoa học và Đối ngoại; 01 Ban quản lý dự án xây dựng; Trung tâm Tin học- Ngoại ngữ.
Năm 2011 thành lập khoa Giáo dục thể chất quốc phòng và tách bộ môn Kinh tế thuộc
khoa Xã hội – Du lịch – Kinh tế thành khoa Kinh tế; phòng Khảo thí và Kiểm định chất
lượng giáo dục đổi tên thành phòng Đảm bảo chất lượng; phòng Quản lý khoa học và Đối
ngoại đổi thành phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế. Như vậy, hiện tại Trường có