CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY KHỐI NGÀNH NÔNG
LÂM NGƯ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH:
NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP
Th.S Nguyễn Quang Hùng
Khoa Nông – Lâm – Thủy sản
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm gần đây, Trường Đại học Quảng Bình nói chung và Khoa Nông
– Lâm – Ngư nói riêng đã và đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong khâu tuyển
sinh và đào tạo. Tình hình sinh viên khối ngành Nông – Lâm – Thủy sản (không
tính sinh viên ngành sư phạm Sinh học) trong những năm vừa qua có những
bước thăng trầm:
+ Năm học 2009 – 2010: có 338 sinh viên chính quy cả Đại học và Cao
đẳng;
+ Năm học 2010 – 2011: có 349 sinh viên, trong đó có 254 sinh viên chính
quy và 95 sinh viên liên thông;
+ Năm học 2011 – 2012: Có 195 sinh viên, trong đó có 100 sinh viên chính
quy và 95 sinh viên liên thông;
+ Năm học 2012 – 2013: 44 sinh viên, trong đó chỉ có 06 sinh viên chính quy.
+ Năm học 2013 – 2014: 99 sinh viên chính quy, chưa tuyển sinh hệ liên thông.
Nguyên nhân khiến các ngành học này “ế” trước hết phải kể đến sự nhận
thức của xã hội về ngành học này, lý giải cho điều đó là không chỉ trường Đại
học Quảng Bình không tuyển sinh được sinh viên mà hàng loạt trường đại học có
đào tạo khối ngành nông lâm, thủy sản trên cả nước đều gặp khó khăn trong
khâu tuyển sinh đầu vào. Ngoài ra, chúng tôi thẳng thắn nhìn nhận rằng, chất
lượng đào tạo của chúng ta còn có nhiều vấn đề đáng bàn, trong đó có chất lượng
giảng dạy của khối ngành này.
Trong sự nghiệp giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, việc nâng cao chất
lượng là một vấn đề mang tính sống còn, quyết định việc xã hội nhìn nhận, đánh
giá và chấp nhận sản phẩm đào tạo của mỗi trường đại học. Sự nghiệp đào tạo
phát triển bền vững hay suy vong, uy tín và thương hiệu của mỗi cơ sở giáo dục
phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đào tạo. Trường Đại học Quảng Bình tuy là
1
một trường đại học địa phương, được thành lập chưa lâu, nhưng Nhà trường luôn
quan tâm đặt chất lượng đào tạo lên hàng đầu trong mọi nhiệm vụ. Nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo, năm học 2013 – 2014, Trường Đại học Quảng Bình
quyết tâm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm với chủ đề: “Nâng cao chất lượng giảng
dạy và đổi mới phương pháp đánh giá kết quả học tập”.
Với tất cả những lý do trên, tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề “Chất lượng giảng
dạy khối ngành nông lâm ngư tại Trường Đại học Quảng Bình: Nguyên nhân hạn
chế và giải pháp”, nhằm mục đích cùng nhau trao đổi, thảo luận, thẳng thắn nhìn
nhận những hạn chế, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp để thực hiện tốt nhất
nhiệm vụ đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội.
II. NGUYÊN NHÂN
Chất lượng giảng dạy nói riêng hay chất lượng đào tạo nói chung, tại các
trường đại học được xây dựng nên từ nhiều yếu tố, trong đó yếu tố hàng đầu
chính là yếu tố con người. Con người bao hàm cả đội ngũ giảng viên, cán bộ
quản lý và cả người học. Trong phạm vi bài tham luận này, chúng tôi chỉ nhấn
mạnh đến đội ngũ giảng viên: Khối ngành nông lâm ngư tại Trường Đại học
Quảng Bình chủ yếu ở trong hai bộ môn: Chăn nuôi – Thủy sản và Lâm nghiệp –
Trồng trọt. Cần thấy rằng, đội ngũ giảng viên của mỗi bộ môn còn thiếu, do đó,
mỗi giảng viên đảm nhận quá nhiều học phần, xin phép được đưa ra ví dụ của 03
giảng viên kiêm nhiệm các chức vụ khác nhau:
1. Tiến sĩ Trần Thế Hùng (Trưởng Khoa) đảm nhận giảng dạy tất cả 08 học
phần từ khi về công tác tại trường.
2. Giảng viên Trần Thị Yên đảm nhận giảng dạy 10 học phần thuộc khối
ngành Nuôi trồng thủy sản.
3. Thạc sĩ Nguyễn Quang Hùng (Trưởng bộ môn): khi mới về trường đã
được phân công giảng dạy một số học phần trái chuyên môn, cho đến nay đã
đảm nhận số lượng các môn học là: 12.
Việc một giảng viên đại học đảm nhận số lượng học phần quá lớn như vậy
tôi chắc rằng đó không chỉ là tình trạng riêng ở Trường Đại học Quảng Bình mà
là tình trạng chung của các trường đại học địa phương hiện nay. Đó chính là bài
toán làm đau đầu các nhà quản lý giáo dục và nhìn chung, cho đến nay vẫn chưa
có lời giải thỏa đáng.
2
Bên cạnh đó, trong những năm đầu của quá trình phát triển, vẫn còn tồn tại
tình trạng “cơm chấm cơm”, có nghĩa là giảng viên có trình độ kỹ sư, cử nhân
được phân công giảng dạy các lớp đại học. Tuy nhiên, cho đến nay khối ngành
nông lâm ngư đã không còn tình trạng này, 100% giảng viên đã có trình độ thạc
sĩ trở lên tham gia giảng dạy hệ đại học.
Ngoài ra, phần lớn giảng viên ở khối ngành nông lâm ngư nói riêng, Trường
Đại học Quảng Bình nói chung kinh nghiệm giảng dạy đang dần được tích lũy,
nhưng kinh nghiệm thực tế sản xuất, thực tế nghề nghiệp phần nào còn hạn chế.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy
trong môi trường giáo dục đại học, môi trường cần truyền đạt nhiều hơn về kiến
thức thực tế, về kinh nghiệm công việc, kinh nghiệm học tập cho người học.
Trong giảng đường đại học, giảng dạy và nghiên cứu khoa học (NCKH) là
hai nhiệm vụ song hành của người giảng viên, đối với các giảng viên khối ngành
Nông – Lâm – Ngư cũng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, trong nhiều năm
qua, công tác NCKH của các giảng viên Khoa Nông – Lâm – Ngư có rất nhiều
hạn chế, cả về chủ quan lẫn khách quan. Có thể kể ra một số nguyên nhân sau:
1. Đa số là giảng viên trẻ, thiếu kinh nghiệm nên chưa đủ tự tin để đăng ký
các đề tài cấp Tỉnh hoặc cao hơn.
2. Đăng ký đề tài cấp cơ sở: sự hạn chế của Nhà trường về kinh phí cũng
như hạn chế số lượng đề tài tham gia, do đó làm một bộ phận không nhỏ các
giảng viên nản chí. Có một sự so sánh: một đề tài thuộc khối khoa học xã hội,
thành viên tham gia đề tài chỉ thu thập số liệu, thông tin qua nguồn tài liệu thứ
cấp, từ đó tổng hợp và viết báo cáo (chi phí cao nhất chỉ là việc đi điều tra thực
địa). Trong lúc đó, một đề tài khối ngành khoa học thực nghiệm, phải đầu tư cho
địa điểm nghiên cứu (ruộng vườn, ao hồ, chuồng trại), vật liệu nghiên cứu (tôm
cá, cây trồng, vật nuôi), hóa chất… chưa kể đến việc gặp rủi ro trong nghiên cứu
là điều không thể tránh khỏi. Nhưng kinh phí được cấp là như nhau hay nói một
cách khác, có nhiều đề tài nghiên cứu thực nghiệm, kinh phí được duyệt chi là
không đủ để thực hiện một đề tài có chất lượng.
Hạn chế trong công tác nghiên cứu khoa học dẫn đến chất lượng các bài
giảng chưa cao, chưa sát với thực tiễn sản xuất, chưa thực sự theo kịp sự phát
triển của công nghệ, khoa học kỹ thuật trong ngành nghề, dẫn đến các buổi lên
3
lớp còn mang nặng lý thuyết, hàn lâm. Năng lực đọc và nghiên cứu tài liệu nước
ngoài, nhằm cập nhật những kiến thức mới cho bài giảng của mình còn có nhiều
hạn chế do trình độ ngoại ngữ. Điều đó mang đến cho người học sự nhàm chán,
không tập trung vào bài giảng, dẫn đến chất lượng cũng như hiệu quả của hoạt
động dạy – học chưa cao.
Một nguyên nhân nữa theo chủ quan của tôi đó chính là giảng viên lựa chọn
phương pháp giảng dạy chưa phù hợp. Trong nhiều năm qua, nền giáo dục nước
nhà nói chung và Trường Đại học Quảng Bình nói riêng đã có nhiều thay đổi,
phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm được áp dụng. Tuy
nhiên, việc áp dụng một cách máy móc, chưa linh hoạt các phương pháp giảng
dạy đã gây nên tác dụng trái ngược, chưa tạo sự hứng thú cho người học, hoặc sự
tiếp thu bài học của sinh viên chưa đồng đều. Ví dụ: Có nhiều giảng viên phụ
thuộc vào micro nên chỉ loanh quanh bục giảng, chưa chiếm lĩnh vị trí trung tâm
của giảng đường trong quá trình truyền tải bài giảng; sự phụ thuộc quá nhiều vào
máy chiếu projector trong khi bài giảng, bài trình chiếu được chuẩn bị quá sơ sài,
bê nguyên trang Microsoft Word lên trình chiếu, gây sự nhàm chán đối với
người học.
Bên cạnh những nguyên nhân từ phía con người mà chủ yếu là đội ngũ
giảng viên, thì các nguyên nhân đến từ các yếu tố khác cũng góp phần làm hạn
chế chất lượng giảng dạy, chất lượng đào tạo khối ngành nông lâm ngư của
Trường Đại học Quảng Bình. Từ khi nhà trường chuyển từ đào tạo theo niên chế
sang đào tạo theo học chế tín chỉ, đã có nhiều hội thảo, tổng kết, đánh giá về
phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Các bộ môn thuộc
khối ngành nông lâm ngư cũng như các bộ môn khác trong toàn trường đã tiến
hành xây dựng Chuẩn đầu ra, Chương trình đào tạo các ngành do mình quản lý
nhằm phù hợp với yêu cầu trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần
thẳng thắn thừa nhận rằng: tình hình đội ngũ cũng như cơ sở vật chất hiện nay
của khối ngành nông lâm ngư thực sự chưa đáp ứng tốt nhất cho việc đào tạo
theo học chế tín chỉ.
Một nguyên nhân cơ bản nữa đó chính là cơ sở vật chất, trang thiết bị phục
vụ giảng dạy khối ngành Nông Lâm Ngư còn rất nhiều thiếu thốn, chưa đáp ứng
được hoạt động dạy và học. Giống như khối ngành Kỹ thuật Công nghệ, khối
4
ngành Nông Lâm Ngư là các ngành đào tạo về khoa học thực nghiệm tuy nhiên
cơ sở thực hành thực tập cho khối ngành là chưa có, chưa có phòng thí nghiệm
chuyên ngành. Mặc dù lãnh đạo Khoa Nông – Lâm – Ngư và các bộ môn có
nhiều giải pháp khắc phục như: bố trí dùng chung phòng thí nghiệm bộ môn Sinh
học; liên hệ nhiều cơ sở sản xuất để gửi sinh viên thực hành - thực tập, thực tế
sản xuất… nhưng chất lượng giảng dạy rõ ràng ít nhiều đã có phần bị hạn chế.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Từ những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế chất lượng giảng dạy nêu trên,
tôi mạnh dạn đưa ra ba nhóm giải pháp sau:
3.1. Đối với giảng viên
- Để làm tốt công tác giảng dạy trước hết các giảng viên phải có kiến thức
sâu rộng đối với các học phần mà mình đảm nhiệm, nắm bắt và hiểu rõ các yêu
cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ của người học và các mong đợi của xã hội đối
với sản phẩm của quá trình đào tạo. Do vậy, để có thể làm chủ được kiến thức,
vững vàng trên bục giảng thì bắt buộc giảng viên phải luôn tự học tự nghiên cứu,
bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, thường xuyên cập nhật những kiến
thức mới vào bài giảng. Tích cực tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học chính
là một cách tốt nhất để người giảng viên có thể tự bồi dưỡng kiến thức chuyên
môn, tích lũy kinh nghiệm cũng như nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của bản thân,
từ đó, góp phần nâng cao chất lượng bài giảng, đưa những tiết dạy của mình trở
nên sinh động hơn, gây hứng thú cao cho người học. Đội ngũ giảng viên của
khối ngành nông lâm ngư hiện nay đa phần còn trẻ, có đủ điều kiện để tiếp tục
học tập, nâng cao trình độ chuyên môn. Tuy nhiên, trình độ ngoại ngữ còn hạn
chế, do vậy, cần tự bồi dưỡng ngoại ngữ để có thể kiếm tìm học bổng đi học
nước ngoài, nghiên cứu tài liệu phục vụ giảng dạy.
- Với hệ thống học chế tín chỉ lấy người học làm trung tâm, giảng viên trở
thành người hướng dẫn sinh viên tự nghiên cứu học tập, vì vậy, việc lựa chọn
phương pháp giảng dạy để phù hợp với đối tượng (đại học hay cao đẳng, chính quy
hay liên thông), phù hợp môn học (cơ sở hay chuyên ngành)… là điều cực kỳ quan
trọng trong mỗi buổi lên lớp.
- Theo chúng tôi, bên cạnh trình độ kiến thức, phương pháp giảng dạy thì
phương pháp đánh giá, cho điểm cũng chính là một trong các yếu tố đánh giá chất
5
lượng giảng dạy của giảng viên. Với hệ thống học chế tín chỉ đòi hỏi giảng viên
phải kiểm tra thường xuyên, điều này đặt sinh viên vào trạng thái luôn luôn học
tập, giúp sinh viên dễ dàng nắm bắt kiến thức chương học sau, nâng cao chất
lượng học tập, tránh trình trạng cuối kỳ tập trung ôn tập thi một lần và có tính
quyết định. Thật không đơn giản để có thể đánh giá được công bằng và chính
xác! Việc đánh giá đúng của giảng viên sẽ khơi dậy sự hào hứng và phấn đấu
học tập của sinh viên, giúp họ lĩnh hội tốt nhất những kiến thức mà giảng viên
truyền thụ. Nếu giảng viên cho điểm quá cao sẽ không tạo được động lực cho
sinh viên cố gắng, ngược lại, nếu cho điểm quá thấp sẽ thủ tiêu sự cố gắng của
sinh viên. Phải đánh giá cả quá trình học thay vì căn cứ vào kết quả của một bài
kiểm tra, nên khuyến khích sinh viên bằng cách cho điểm cộng thay vì những
điểm trừ, cộng điểm qua những bài nhận xét, thuyết trình…
3.2. Đối với Khoa, Bộ môn
- Khoa, Bộ môn định kỳ hàng tháng tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn,
sermina, ngoại khóa chuyên đề nhằm mục đích nâng cao năng lực chuyên môn
cho giảng viên.
- Tổ chức thao giảng, dự giờ đánh giá, rút kinh nghiệm nhằm góp ý cho
giảng viên về kiến thức chuyên môn, phương pháp giảng dạy từ đó góp phần
nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Trong điều kiện cơ sở thí nghiệm, thực hành thực tập của Nhà trường còn
hạn chế, Khoa, Bộ môn chủ động liên hệ, liên kết với các cơ sở sản xuất trong và
ngoài tỉnh để cho cán bộ giảng viên, sinh viên có thể tham quan, thực tế sản xuất,
thực tập nghề nghiệp (nhiều năm qua, Khoa Nông – Lâm – Ngư đã làm rất tốt
vấn đề này).
- Thường xuyên tổ chức rà soát, cập nhật và biên soạn mới chương trình đào
tạo, chương trình chi tiết cho phù hợp với sự phát triển của Khoa học công nghệ,
sự phát triển của ngành nghề.
- Đào tạo theo học chế tín chỉ đòi hỏi người học tăng cường tự học, do đó
ngoài nguồn tài liệu có được ở Trung tâm học liệu, Khoa – Bộ môn cần thiết
phải xây dựng thư viện điện tử nhằm cung cấp những tài liệu – bài giảng chuyên
ngành cho sinh viên và cả những bạn đọc quan tâm (hiện nay, Khoa Nông – Lâm
– Ngư đang triển khai vấn đề này).
6
- Triển khai hệ thống tư vấn học tập cho sinh viên: giáo vụ khoa, giáo viên
chủ nhiệm và cả giảng viên từng bộ môn nhằm giải đáp thắc mắc về vấn đề học
tập cho sinh viên, mặt khác có thể thu thập những phản ánh của sinh viên đến
từng giảng viên của Bộ môn, của Khoa và của Nhà trường.
3.3. Đối với Nhà trường
- Hiện nay, trong tình hình giảng viên Khoa Nông – Lâm – Ngư còn thiếu
tiết giảng, Nhà trường cần tạo điều kiện hơn nữa cho giảng viên các bộ môn khối
ngành nông lâm ngư thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học. Giải pháp đưa ra
đó là: có thể cho xét duyệt bổ sung các đề tài, tăng kinh phí thực hiện (lý do như
đã đề cập ở phần nguyên nhân).
- Đối với các ngành học mới mở, giảng viên còn thiếu, Nhà trường cần
mạnh dạn đầu tư mời các giảng viên đầu ngành, có học hàm - học vị cao về
giảng dạy một số học phần vừa góp phần tạo uy tín đào tạo, vừa để các giảng
viên trong Khoa tham gia dự giờ, học tập kinh nghiệm từ đó có thể nâng cao chất
lượng giảng dạy.
- Vai trò của các cơ sở thực hành, trại thực nghiệm sản xuất trong các
trường đại học có đào tạo khối ngành Nông Lâm Ngư là vô cùng quan trọng, nó
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng đào tạo. Do vậy, Nhà
trường sớm hỗ trợ Khoa Nông – Lâm – Ngư, Trung tâm Nghiên cứu - Ứng dụng
Nông Lâm đẩy nhanh tiến độ xây dựng đề án, triển khai xây dựng vườn rèn
nghề, trại thực nghiệm làm cơ sở thí nghiệm, thực hành thực tập cho giảng viên,
sinh viên các ngành đào tạo trong Khoa.
Thay cho lời kết: Với tâm huyết mong muốn Trường Đại học Quảng Bình,
Khoa Nông – Lâm – Ngư và từng bộ môn, giảng viên trong khoa ngày càng phát
triển, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, tôi mạnh dạn đưa ra những quan
điểm cá nhân nêu trên. Chắc chắn rằng sẽ có những điều thiếu sót và chưa hợp
lý, tôi rất mong sự đóng góp quý báu của quý đồng nghiệp, điều này sẽ giúp
chúng ta có thể nâng cao chất lượng giảng dạy khối ngành Nông Lâm Ngư nói
riêng và chất lượng giảng dạy tại Trường Đại học Quảng Bình nói chung nhằm
thực hiện tốt nhiệm vụ năm học và nhiệm vụ đào tạo trong thời gian tới. Xin
chân thành cảm ơn!
7