Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Nghiên cứu tác động ngại vi (Externalities), Thiếu hàng hóa công cộng(Public Goods), Sự gia tăng quyền lực độc quyền(Monopoly)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.66 KB, 24 trang )

I/Tác động ngoại vi(Externalities)

Con người đang phá hủy môi trường sống của chính mình
Để phát triển triển kinh tế, để thỏa mãn lòng tham vô đáy của mình, con người đang
chặt cây phá rừng, đào khoáng sản dưới lòng đất, chặn dòng nước để làm thủy điện,
xả khí thải vào môi trường…

Trong thiên nhiên liệu có con vật nào “láo toét” với thiên nhiên hơn con người?
Con hổ, con báo sống ẩn mình dưới những lùm cây, trong hang đá để sống và kiếm
mồi. Những con vật đó đã biết nương nhờ vào thiên nhiên để sống. Chắc chỉ có mỗi
con người - một động vật vẫn vỗ ngực tự hào là văn mình - là phá hủy chính môi
trường mà nó đang sống
Thiên nhiên vẫn đang âm thầm chứng kiến những hành động phá hoại của con
người và thiên nhiên vẫn đang âm thầm vận hành theo quy luật cân bằng của nó.
Phải chăng những sự biến đổi về khí hậu, những thiên tai, dịch bệnh… chính là
những hành động qua đó thiên nhiên lập lại cân bằng và để đáp trả lại những hành
động phá hoại của con người.
Con người sống cần không khí để thở, cần nước để uống và cần thực phẩm để
ăn.
Vậy mà chúng ta đang hít thở không khí gì? Có phải chúng ta đang hít căng vào
lồng ngực một bầu không khí trong lành? Những ai đang sống trong những thành
phố lớn đều có chung một nhận xét là bây giờ hàng ngày chúng ta đang hít vào phổi
một bầu không khí độc hại gồm bụi và khói xe máy… quyện vào nhau.
Chúng ta đang uống những nguồn nước gì? Chúng ta dùng phân bón, thuốc trừ
sâu… trên những cánh đồng. Những phân bón, thuốc trừ sâu, nước thải từ các nhà
máy chảy ra các dòng sông và nhiều người đang uống nước từ các dòng sông đó .

Bài học nhiều nước cho thấy,giá phải trả không áp dụng và thực thi luật môi
trường là cao hơn nếu chỉ coi trọng phát triển phát sinh lợi nhuận.Tác nhân thường
không gánh chịu hậu quả mà là xã hội,người dân và thế hệ sau gánh chịu.
Giá tri của một thương hiệu và hình ảnh của thương hiệu qua sự nhận thức và


cảm nhận của người tiêu dùng sẽ chĩ tăng khi thương hiêu đó có những hoạt động
xã hội do công ty chủ trương đề ra và thực hiện.Có nhiều nghiên cứu cho thấy
những hoạt động như vậy có hiệu quả nhiều trong lĩnh vực tiếp thị quản cáo cho
công ty hơn các phương pháp tiếp thị truyền thống cổ điển.Người tiêu thụ hiện nay
ở một số nước đã phát triển bắt đầu có khuynh hướng để ý đến vấn đề môi
trường,môi sinh tác dộng qua các sản phẩm hau dịch vụ kinh tế.Họ sẵn sàng bỏ ra
1
thêm hay trả giá cao hơn cho các sản phẩm,dịch vụ ít ảnh hưởng đến môi trường
mang hiệu quả “sản phẩm xanh”.
Ở Việt Nam thực trạng hiện tại là ít có doanh nghiệp có trách nhiệm về môi
trường và lợi ích xã hội trong chính sách và tôn chỉ của công ty.Sự xuất hiện của
những “làng ung thư”
Liên tục trong thời gian gần đây cho thấy,các giá phải trả cho ô nhiễm môi trường
là quá đắt.Đứng đầu là ô nhiễm môi trường nước do các doanh nghiệp sản xuất đã
thải chất thải không được xử lý tiêu chuẩn.Theo ông Trần Hồng Hà,Cục trưởng Cục
Bảo vệ môi trường-Bộ TN&MT,cho biết tính đến tháng 6/2006,Việt Nam co 134
khu Công Nghiệp,khu chế xuất,trong đó chỉ có 33 khu đã có công trình xử lý nước
thải tập trung.Các khu Công Nghiệp chế xuất này thải ra hàng triệu tấn rác thải mỗi
năm,trong do01 có hàng vạn tấn chất thải nguy hại.
Theo tin tức gần đây,trong số 12 khu Công nghiệp ở Tp.HCM chỉ có 2 khu Công
Nghiệp là có hệ thống xử lý nước thải.Hàng năm,các nhà máy trong khu Công
Nghiệp ,khu chế xuất tại TPHCM thải ra gần 63.000 tấn chất thải rắn.Con số này
tăng lên gấp 10 lần nếu tính cả các nhà máy ngoài khu Công Nghiệp.Đoạn sông Thị
Vải kéo dài trên 10 km từ xã Long Thọ (Nhơn Trạch,Đồng Nai) cho đến thị trấn
Phú Mỹ(Tân Thanh,Bà Rịa –Vũng Tàu)bị ô nhiễm nguồn nước trầm trọng.
Với những thông tin cập nhật như trên ,trước hết chính phủ cần phải có một
chính sách giúp doanh nghiệp thích ứng với những đòi hỏi của xã hội và thế giới
bên ngoài thay đổi theo chiều hướng và nhận thức chung của thế giới trong thời đại
toàn cầu hóa mà Việt Nam bắt đầu tích cực tham dự sau khi gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới(WTO).Thí dụ,các hàng xuất khẩu nông nghiệp và công nghiệp

ở một số nước gần đây đã bị trả về hoặc thu hồi do sự kém chất lượng,tác hại vào
môi trường và an toàn sức khỏe.
Và khuynh hướng hiện nay là để nâng cao chất lượng cho sản phẩm và thương hiệu
của mình trong nước và ngoài nước,các doanh nghiệp vì thế đã dần áp dụng tiêu
chuẩn quốc tế tối thiểu về bảo vệ môi sinh,bảo đảm an toàn trong quá trình sản xuất
từ vật liệu đến sản phẩm sau cùng,thậm chí sao cho sản phẩm cuối đời có thể được
tái chế hay dễ được sinh hủy không gây ô nhiễm đến môi trường.Ngoài luật trong
nước liên quan đến môi trường mà các doanh nghiệp sản xuất phải tuân theo,vai trò
của chính phủ trong lĩnh vực kinh tế là tạo ra một môi trường cạnh tranh với các cơ
chế khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn sản xuất phù hợp,các dịch vụ môi trường và
sự xử dụng các kỷ thuật bảo vệ môi sinh và an toàn sản phẩm có sức mạnh cạnh
tranh trong và ngoài nước.
Hiện nay trong khu vực ASEAN,một số nước như Thái Lan,Mã lai,Singapore,Phi
Luật Tan đã triển khai và bắt đầu áp dụng hệ thống chuẩn nâng cao chất lượng an
toàn thực phẩm,ít tác hại vào môi trường và an toàn cho lao động trong quá trình
2
sản xuất,thâu hoạch,chế biến nông phẩm.Dự định trong tương lai gần ,ASEAN sẽ
đề ra tiêu chuẩn chung gọi là ASEANGAP dựa vào các chuẩn đang được thực hiện
ở các nước trên.Chính phủ Việt Nam vì thế nên đề ra một chuẩn tương tự và khuyến
khích các doanh nghiệp trong nước áp dụng để sửa soạn cho sản phẩm của mình có
chất lượng cao về độ an toàn,không tác hại vào môi sinh và sức khỏe con người.Áp
dụng được chuẩn này sẽ giúp cho nông dân và doanh nghiệp tạo ra được các sản
phẩm có sức cạnh tranh tốt vào thị trường thế giới,nhất là ở các thị trường có tiêu
chuẩn cao như Nhật ,Mỹ và Âu Châu.Không những sản phẩm có sức cạnh tranh về
chất lượng mà giá thành và rủi ro sẽ được giảm nhiều và tạo được tiếng tốt cho
thương hiệu của các doanh nghiệp áp dụng chuẩn GAP.
Hệ thống chuẩn GAP cho sản phẩm nông nghiệp giống như chuẩn ISO 14000 cho
sản phẩm công nghiệp.Hiện nay nhiều doanh nghiệp trong nước đã ý thức tầm quan
trong của chuẩn ISO 14000 và áp dụng vào trong quá trình sản xuất sản phẩm.Ví dụ
như công tư Phong Phú Q9,Việt Tiến,hải sản Bình An(Cần Thơ)đã áp dụng hệ

chuẩn ISO 14000 và có những kết quả khả quan trong sự cạnh tranh ở các thị
trường này.Đây không phải vì luật pháp bắt buộc mà là sự sống còn của thương
hiệu và của chính doanh nghiệp.
Bên cạnh đó còn có chính sách dùng vật liệu tái tạo.Chính quyền trung ương và địa
phương cũng phải có chính sách làm dễ dàng hơn cho doanh nghiệp tham dự vào sự
việc chung bảo vệ môi trường tài nguyên.Thí dụ ở các thành phố,chính sách dùng
vật liệu tái tạo như giấy ,hộp,plastic,chai lọ được khuyến khích và thực thi qua xử lý
hai loại rác từ hộ trong thành phố lớn với hai loại thùng rác khác nhau.Trước hết
chính sách này có thể được áp dụng ở các thành phố lớn,nơi mà xử lý chất thải
rắn(chưa kể việc xử lý chất thải y tế)là một vấn đề lớn rất trầm trọng ở TPHCM và
Hà Nội,để giảm áp lực vào các bải rác chôn.Và từ đó có thể áp dụng các nơi
khác.Song song với việc thực thi chính sách này là sự giáo dục quần chúng qua
nhiếu phương tiện khác nhau để có được hiệu quả cao.Khi đã có nơi cho phép xử lý
khác nhau của các loại phế thải trên,doanh nghiệp cụng vì thế sẽ áp dụng chính sách
này trong phạm vi rác từ doanh nghiệp.Vừa có lợi cho doanh nghiệp vừa có lợi cho
môi trường và xã hội.Điều này có thể mô tả giống như hoạt động được gọi là
marketing xanh(Green Marketing).Marketing môi trường-Marketing sinh thái là
những thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động marketing các loại sản phẩm được cho là tốt
cho môi trường .Marketing xanh bao gồm hàng hoạt các hoạt động doanh nghiệp từ
thay đổi thiết kế sản phẩm,quy trình sản xuất bao bì đóng gói,kể cả hoạt động quản
cáo…nhằm đáp ứng “nhu cầu xanh”của người tiêu dùng và xã hội,từ đó tạo lợi thế
cạnh tranh cho doanh nghiệp trước các đối thủ.
II/Thiếu hàng hóa công cộng(Public Goods)
Hàng hóa tập thể (collective goods) là một trong số những chủ đề gây đau đầu
các nhà kinh tế học nhiều nhất trong vòng 50 năm qua. Không đơn giản chỉ vì là
một trong các nguyên nhân gây nên thất bại thị trường (market failures), việc sản
3
xuất hàng hóa tập thể còn dấy lên vô số câu hỏi về vai trò quản lý kinh tế của chính
phủ, đặc biệt là hiệu quả các chính sách đầu tư và chính sách thuế của nhà nước.
Nếu như việc cung cấp hàng hóa tập thể thể hiện sự quan tâm của nhà nước tới

ngườii dân, nó cũng đồng thời sinh ra vô số mâu thuẫn giữa những “người tiêu
dùng”: mẫu thuẫn về đóng góp xây dựng, mâu thuẫn về bình đẳng sử dụng, thậm
chí mâu thuẫn về quyết định sản xuất. Bài viết này sẽ trình bày những thuộc tính
kinh tế cơ bản nhất của hàng hóa tập thể, ngõ hầu đem đến cho bạn đọc một cái
nhìn hệ thống về một hiện tượng kinh tế mà chúng ta vẫn gặp hàng ngày.
Khái niệm về hàng hóa tập thể được trình bày rõ ràng nhất lần đầu trong một bài
báo của Paul Samuelson viết năm 1954. Trong vỏn vẹn 4 trang Samuelson chứng
minh rằng thị trường thất bại trong việc phân bổ hiệu quả các nguồn tài nguyên để
sản xuất hàng hóa tập thể. Trong bài báo này, Samuelson không gọi hàng hóa là tập
thể mà gọi là công cộng (public goods) Theo Samuelson, hàng hóa công cộng có
hai thuộc tính cơ bản là tính tiêu dùng không đối đầu (non-rivalry) và tính tiêu dùng
không loại trừ (non-excludability) .
Bây giờ chúng ta sẽ cùng xem vì sao việc sản xuất hàng
hóa công cộng , hay hàng hóa tập thể lại là một vấn đề.
Vấn nạn đầu tiên của việc sản xuất hàng hóa công cộng, xin được tạm gọi là vấn
nạn “người lậu vé”, dịch từ tiếng Anh: free-rider. Một người sử dụng phương tiện
giao thông công cộng, như tàu hỏa, ôtô buýt, hoặc tàu điện ngầm thường tìm cách
trốn vé, bởi vì một chiếc tàu chở thêm một người lậu vé có tốn thêm một đồng chi
phí nào đâu. Dù chỉ có một hoặc hai hành khách thì đến giờ tàu vẫn chạy kia mà.
Động cơ free-rider rất phổ biến tại bất cứ trường hợp sử dụng hàng hóa tập thể nào.
Bạn đọc xin phân biệt chuyện lậu vé - vốn bắt nguồn từ động cơ free-rider, và
chuyện mua vé vì sợ bị phạt. Free-rider là việc không tự giác đóng góp khi sử dụng
hàng hóa tập thể, và bởi vì có quá nhiều người lậu vé nên công ty kinh doanh tàu
mới phải phạt để hạn chế lậu vé. Nói bằng ngôn ngữ kinh tế học, free-rider sử dụng
dịch vụ tập thể như một người sử dụng bình thường, nhưng bắt người khác phải trả
chi phí đóng góp xây dựng. Còn nói nôm na thì free-rider là người “dùng đồ chùa”.
Nhìn từ góc độ người sản xuất, nhất là trong trường hợp nhà nước cung cấp dịch
vụ công cộng, free-rider thực sự là một vấn đề nhức nhối. Nếu nhà nước cung cấp
dịch vụ miễn phí thì chắc chắn là sẽ thiệt hại nặng nề, vì người dân sẽ sử dụng vô
tội vạ (sử dụng chung mà). Huống hồ nhà nước đào đâu ra tiền để đầu tư vào sản

xuất nếu không thu phí. Đương nhiên nhà nước có cách thu khác: nhà nước thu
thuế. Thuế về mặt bản chất là một khoản thu trước, để có vốn xây dựng và bảo
dưỡng các dịch vụ công cộng như an ninh, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, xây
đường xá…vv…Tuy nhiên nếu thu thuế thì lại đẻ ra một vấn đề nữa là “bất bình
đẳng” trong đóng góp. Nếu bạn mua một hàng hóa tư nhân, bạn trả tiền tương ứng
4
với nhu cầu thật sự của bạn. Còn nếu bắt bạn đóng thuế, làm sao biết được khoản
đóng góp này có tương ứng với nhu cầu thật của bạn hay không?
Hãy lấy một ví dụ là giao thông công cộng, để hiểu vì sao có những lúc thu thuế là
một giải pháp rất dở nhìn từ kinh tế học. Giả sử nhà nước muốn cung cấp một tuyến
tàu vành đai để giúp người dân di chuyển dễ dàng hơn trong thành phố, hoặc vòng
quanh một sân bay (tàu điện ngầm ở Hồng Kông chẳng hạn). Nhà nước tuyên bố
tuyến tàu này là miễn phí cho mọi người dân. Dân chúng đương nhiên là hài lòng vì
được đi tàu mà không phải trả tiền (sic). Họ sẽ bớt hài lòng đi nhiều nếu biết rằng
để có kinh phí, nhà nước đã nhẹ nhàng sửa vài con số trong mức thuế. Chỉ sửa đổi
chút đỉnh vài con số đứng sau dấu phẩy, nhà nước đã tăng thêm một khoản thu
tương ứng với…thuế xây dựng cơ sở hạ tầng…mà chẳng ai phàn nàn cả. Một việc
làm rất logic, nhưng hậu quả như sau: hai người sử dụng với tần suất khác nhau
rất có thể sẽ phải đóng cùng một khoản thuế. Người sử dụng thường xuyên hàng
ngày sẽ hưởng lợi rất nhiều. Ngược lại, người họa hoằn sử dụng một, hai lần mỗi
tháng sẽ bị thiệt hại to lớn. Đóng thuế trong trường hợp này cũng giống như đi mua
hàng mà phải trả một số tiền chẳng tương ứng chút xíu nào với cái mình trông đợi
cả. Trong rất nhiều trường hợp, nhà nước có thể lạm quyền đặt ra mức thuế, và
người dân cứ đóng mà chẳng bao giờ thắc mắc xem đóng như thế là quá nhiều (hay
quá ít) so với dịch vụ mà mình sử dụng. Nhà nước có thể làm việc này, nhà kinh tế
học không thể.
Nhà nước cũng có thể đặt ra mức phí để bắt người tiêu dùng trả theo mức sử dụng
thật sự. Tuy nhiên việc này phụ thuộc vào bản chất của hàng hóa. Có những hàng
hóa mà ta không thể biết được mức độ sử dụng thật của mỗi cá nhân là bao nhiêu.
Đây là vấn nạn thứ hai của hàng hóa tập thể, tạm gọi là “không tiết lộ lựa chọn”,

dịch từ tiếng Anh: non-revealed preference. Khi chính phủ muốn xây dựng một
công trình công cộng, hay một tập thể muốn đầu tư cho một hàng hóa tập thể, người
ta tìm cách đặt câu hỏi xem có bao nhiêu người sẽ sử dụng? và mỗi người sẽ sử
dụng bao nhiêu (nếu bản chất hàng hóa cho phép)? để thu phí. Tuy nhiên vì người
trả lời đã có sẵn động cơ free-rider nên anh ta thường sẽ trả lời ít hơn so với sự thật,
để sau này hy vọng sẽ “dùng chùa” kiếm lời. Hoặc giả anh ta ước lượng sai nhu cầu
của mình, hoặc giả sau này thất vọng vì chất lượng hàng hóa nên anh ta giảm hẳn
việc sử dụng. Chẳng có gì trừng phạt anh ta vì đã không ước lượng chính xác nhu
cầu của mình cả. Người sản xuất do đó sẽ thu được một tập hợp câu trả lời sai, dẫn
đến việc đưa ra quyết định sản xuất sai lầm.
Hãy tưởng tượng một thành phố khảo sát để xây dựng một khu giải trí công cộng
nhằm nâng cao điều kiện sống cho người dân. Sau khi xây xong thường xuyên
chẳng có ai vào, vì dịch vụ thấp hơn so với những gì họ đã tưởng tượng. Vậy là một
quỹ đất lớn đã bị lãng phí. Trong trường hợp ngược lại, khu giải trí lúc nào cũng
chật cứng vì có quá nhiều người có nhu cầu sử dụng, những người đã trả lời
“Không” khi được khảo sát. Khu giải trí mà đông chen chúc nhau thì chẳng ai lại
5
thỏa mãn cả, cũng là một quỹ đất bị lãng phí. Giả sử thành phố định điều chỉnh diện
tích bằng cách nới rộng quy hoạch, nhưng lần này có quá nhiều người đã thất vọng
với khu giải trí trước nên họ bỏ ngoài tai ý tưởng này. Kết quả là đến lần mở cửa
thứ hai lại có quá ít người vào, chưa kể đến chuyện người ta có thể từ chối việc mua
vé vì chẳng ai lại đi trả tiền cho một dịch vụ mà họ không thỏa mãn cả.
Như vậy có thể thấy cả giải pháp đóng phí và đóng thuế đều chứa những khiếm
khuyết trong việc xác định chính xác quy mô sản xuất. Đóng thuế thật ra là trả tiền
trước, còn đóng phí là trả tiền cùng lúc với việc sử dụng. Dù đóng thuế hay đóng
phí, cả hai động cơ free-rider và non-revealed preference đều sẽ hoạt động hết công
suất. Vấn đề sẽ không tồn tại nếu thế giới này chỉ có toàn hàng hóa cá nhân. Đối với
hàng hóa cá nhân, thị trường sẽ là nơi quyết định sản xuất gì? như thế nào? và với
số lượng bao nhiêu? Giá cả sẽ là tín hiệu chính xác nhất để người mua và người bán
đọc thông tin từ hai phía. Không thể có free-rider vì ai muốn sử dụng phải trả tiền,

không thể không trả tiền mà lại được sử dụng. Cũng không thể có non-revealed
preference, tất cả đều là revealed preference. Mua hàng tức là lựa chọn, không mua
hàng cũng là lựa chọn, trong cả hai trường hợp lựa chọn đều được tiết lộ, và thông
tin này sẽ được nhà sản xuất xử lý để đưa ra quyết định đúng đắn. Tiếc thay đây lại
không phải là thế giới mà chúng ta đang sống. Quyết định thiếu chính xác trong
việc sản xuất dẫn đến việc sử dụng thiếu hiệu quả các nguồn tài nguyên. Bàn tay vô
hình của thị trường vậy là đã thất bại trong việc nắm bắt hàng hóa tập thể.
Tính chất hàng hóa công cộng:
• Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ
tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất
định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không
trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng
hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền
còn không bảo vệ những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công
cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp
hát sẽ ngăn cản những người không có vé vào xem.
• Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu
dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản
những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì
tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này
ngược lại hoàn toàn so với hàng hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà nếu ai
đó đã mua thì người khác không thể tiêu dùng con gà ấy được nữa. Chính vì
tính chất này mà người ta cũng không mong muốn loại trừ bất kỳ cá nhân
nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng.
6
Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu trên như
quốc phòng, ngoại giao, đèn biển, phát thanh...Các hàng hóa đó có chi phí biên để
phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi đã xây dựng
xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng.
Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính

chất đó ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc
nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu
dùng của những người tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc
nghẽn. Một số hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó có thể định giá thì gọi là hàng
hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu...có thể đặt các
trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn
Cung cấp hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả
• Điều kiện Samuelson : muốn xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng một
cách hiệu quả, cần xác định đường cung và đường cầu của nó. Mỗi cá nhân
có một ngân sách nhất định và có nhu cầu khác nhau về hàng hóa công cộng
(G) và hàng hóa cá nhân (X), nếu giá của hàng hóa công cộng là t (mức thuế
cá nhân phỉ trả) và của hàng hóa cá nhân là p thì đường ngân sách của cá
nhân sẽ có dạng: I = pX + tG. Ở mỗi mức thuế khác nhau, cá nhân sẽ có cầu
về hàng hóa công cộng khác nhau và để tối đa hóa lợi ích, mỗi cá nhân sẽ có
tỷ suất thay thế biên giữa hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân bằng tỷ
số giá giữa chúng (t/p). Đường cầu của mỗi cá nhân về hàng hóa công cộng
cũng chính là tỷ suất thay thế biên nên đường cầu tổng hợp của tất cả các cá
nhân là tổng tỷ suất thay thế biên. Mặt khác đường cung về hàng hóa công
cộng phản ánh chi phí biên mà xã hội phải bỏ ra để sản xuất nó và để tối ưu
hóa lợi ích, đường cung này cũng chính là tỷ suất chuyển đổi biên giữa hàng
hóa công cộng và hàng hóa cá nhân. Nhà kinh tế học Paul Samuelson đã
chứng minh rằng, để hàng hóa công cộng được cung cấp một cách hiệu quả
thì tổng tỷ suất thay thế biên của các cá nhân phải bằng tỷ suất chuyển đổi
biên hay tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công
cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm cho xã hội để sản xuất nó. Dó chính
là điều kiện Samuelson về cung cấp hiệu quả hàng hóa công cộng. Tuy vậy,
kể cả khi đã xác định được mức cung cấp hiệu quả thì việc thực thi chúng lại
còn phụ thuộc vào quá trình lựa chọn công cộng nên không phải lúc nào
cũng đạt được mức hiệu quả
• Cân bằng Lindahl : theo các điều kiện của hiệu quả Pareto, hàng hóa công

cộng sẽ được cung cấp một cách hiệu quả nếu tổng giá trị mà các cá nhân
đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng
thêm đối với xã hội để cung cấp nó. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hàng hóa
công cộng thuần túy không có thị trường để trao đổi như hàng hóa cá nhân,
nơi mà cân bằng thị trường do cung cầu quyết định, do vậy việc xác định
7
điểm cân bằng hiệu quả gặp khó khăn. Để giải quyết vấn đề xác định mức
cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy một cách có hiệu quả, nhà kinh tế
học người Thụy Điển Erik Lindahl đã xây dựng một mô hình mô phỏng mô
hình thị trường cho hàng hóa công cộng gọi là cân bằng Lindahl. Mô hình
này xác định nhu cầu của mỗi cá nhân về một loại hàng hóa công cộng thuần
túy tương ứng với mức thuế (chính là giá của hàng hóa công cộng) ấn định
cho cá nhân đó, mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy có hiệu quả là
mức mà cầu của các cá nhân đều như nhau. Lưu ý rằng mức cầu của mỗi cá
nhân tương ứng với những mức thuế khác nhau nên cân bằng Lindahl khác
với cân bằng thị trường hàng hóa cá nhân khi mà ở đó cân bằng thị trường ở
mức giá như nhau đối với mọi cá nhân.
Thế nhưng mô hình cân bằng Lindahl trong thực tế lại vấp phải vấn đề kẻ đi xe
không trả tiền. Để xác định đúng mức cung cấp hàng hóa công cộng hiệu quả, các
cá nhân phải thực hiện nguyên tắc nhất trí và tự nguyện đóng góp đồng thời phải
bộc lộ một cách trung thực nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng. Nếu một cá
nhân biết được số tiền mà cá nhân khác sẵn sàng đóng góp để có hàng hóa công
cộng thì người đó có thể bộc lộ nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng cũng như
số tiền sẵn sàng đóng góp ít hơn thực tế. Trong trường hợp cực đoan, nếu một người
biết rằng việc mình có trả tiền hay không cũng không ảnh hưởng gì đến việc cung
cấp hàng hóa công cộng thì anh ta sẽ không trả tiền - hiện tượng kẻ đi xe không trả
tiền. Nếu có rất ít kẻ đi xe không trả tiền thì hàng hóa công cộng vẫn có thể được
cung cấp một cách hiệu quả. Trong những cộng đồng nhỏ, khi mà mọi cá nhân biết
rõ nhau nên việc che giấu nhu cầu về hàng hóa công cộng khó thực hiện thì dư luận,
áp lực cộng đồng có thể buộc mọi người đóng góp đầy đủ để có hàng hóa công

cộng. Ví dụ: một xóm có thể yêu cầu các hộ gia đình đóng góp để bê tông hóa con
đường chung một cách khá dễ dàng. Tuy nhiên, trong cộng đồng lớn thì vấn đề trở
nên rất phức tạp, không thể hoặc phải tốn chi phí rất lớn mới có thể loại trừ những
kẻ đi xe không trả tiền. Đặc biệt nếu hàng hóa công cộng do tư nhân cung cấp thì họ
không có công cụ, chế tài để buộc những người sử dụng trả tiền. Đây chính là
nguyên nhân quan trọng khiến khu vực tư nhân không muốn cung cấp hàng hóa
công cộng. Vì thế, chính phủ phải đóng vai trò cung cấp hàng hóa công cộng và thu
các khoản đóng góp thông qua thuế. Cùng với sự phát triển của công nghệ, tính chất
không thể loại trừ ngày càng bị hạn chế. Hiện tượng đi xe không trả tiền, vì thế, có
thể ngăn chặn dễ hơn. Ví dụ, nhờ sự phát triển của công nghệ truyền hình, ngày nay
đài truyền hình có thể cung cấp dịch vụ qua đường cáp thuê bao, qua đầu thu có cài
mã khóa, nên có thể ngăn chặn tốt những người không chịu mất tiền mà vẫn xem
được truyền hình. Điều này giải thích tại sao, gần đây, tư nhân ngày càng tham gia
nhiều hơn vào việc cung cấp hàng hóa công cộng.
Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng
8
Cây cầu - một ví dụ về hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá nhưng điều đó
là không được mong muốn
Đối với những hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá thì để ngăn chặn tình
trạng tắc nghẽn, cần áp dụng việc thu phí để những người tiêu dùng có thể được
hưởng đầy đủ lợi ích do hàng hóa công cộng mang lại. Tuy nhiên nếu mức phí quá
cao (chẳng hạn do chi phí giao dịch để thực hiện cơ chế loại trừ lớn) thì số lượng
người sử dụng có thể thấp hơn điểm gây tắc nghẽn quá nhiều dẫn đến tổn thất phúc
lợi xã hội. Trong trường hợp khu vực tư nhân đứng ra cung cấp hàng hóa cộng cộng
thì mức phí họ thu của người tiêu dùng sẽ khiến cho tổn thất phúc lợi xã hội xảy ra.
Hình bên là đồ thị minh họa trường hợp một cây cầu có công suất thiết kế là Qc,
trong khi nhu cầu đi lại tối đa qua đó chỉ là Qm. Nếu việc qua cầu miễn phí thì sẽ có
Qm lượt người đi qua nhưng nếu thu phí ở mức p thì chỉ còn Qe lượt và xã hội bị
tổn thất một lượng bằng diện tích hình tam giác bôi đậm. Do vậy, đối với hàng hóa
công cộng mà chi phí biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể thì hàng hóa đó

nên được cung cấp miễn phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng giá. Một
nguyên nhân nữa khiến cho tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng không hiệu quả là
nó thường có xu hướng được cung cấp với số lượng ít. Một người có vườn bên
đường được trồng hoa thì cả khu vực gần đó sẽ tăng vẻ mỹ quan cũng như nhiều
người cùng được thưởng thức vẻ đẹp của hoa. Thế nhưng người trồng hoa sẽ cân
đối thời gian, chi phí bỏ ra với nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp của hoa của cá nhân
mình chứ không tính đến nhu cầu của những người hàng xóm, chính vì vậy người
đó nhiều khả năng sẽ trồng ít hoa đi.
Hàng hóa công cộng có thể loại trừ nhưng với phí tổn rất lớn
9

×