BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KHOA KINH TẾ
==== ====
PHẠM THÀNH LONG
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
QUYẾT ĐỊNH CHỌN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA HỌC
SINH LỚP 12 THPT TRONG TỈNH KHÁNH HÒA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
GVHD: LÊ KIM LONG
Nha Trang, tháng 7 năm 2013
i
LỜI CẢM ƠN
Em chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đối với Thầy TS. Lê Kim Long,
Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các Giảng viên Khoa Kinh tế đã cung cấp,
chia sẻ nhiều kiến thức về nghiên cứu, đặc biệt là những kiến thức về nghiên cứu
định lượng.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Sở Giáo dục & Đào tạo Khánh Hòa,
phòng Khảo Thí Chất lượng Đào tạo, bộ phận Tuyển sinh thuộc Sở Giáo dục & Đào
tạo Khánh Hòa, Ban Giám hiệu, các Thầy (Cô) giáo và các em học sinh tại các
trường THPT trong tỉnh đã động viên tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình điều
tra khảo sát và thực hiện đề tài.
Vì đề tài hoàn thành trong thời gian ngắn nên không tránh khỏi những sai sót,
hạn chế. Kính mong quý Thầy (Cô) đóng góp ý kiến để em có thể làm tốt hơn ở
những nghiên cứu về lĩnh vực này trong thời gian sắp tới.
Sinh viên
Phạm Thành Long
ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮTNỘI DUNG
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
CĐ Cao đẳng
ĐH Đại học
TCCN Trung cấp chuyên nghiệp
GDHN Giáo dục hướng nghiệp
iii
MC LC
LỜI CẢM ƠN i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ii
DANH MỤC BẢNG vii
DANH MỤC HÌNH ix
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.1 Mục tiêu tổng quát 3
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 3
1.3 Câu hỏi nghiên cứu 4
1.4 Phương pháp nghiên cứu 4
1.4.1 Nghiên cứu sơ bộ 4
1.4.2 Nghiên cứu chính thức 4
1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
1.5.1 Đối tượng nghiên cứu 5
1.5.2 Phạm vi nghiên cứu 5
1.6 Ý nghĩa của đề tài 5
1.7 Kết cấu của đề tài 6
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 7
2.1 Giới thiệu 7
2.2 Hướng nghiệp 7
2.3 Giáo dục hướng nghiệp 9
2.3.1 Quan điểm truyền thống và quan điểm mới về GDHN 9
2.3.2 Ý nghĩa của công tác GDHN 9
2.3.3 Nội dung của công tác GDHN 10
2.3.4 Nhiệm vụ của GDHN trong nhà trường THPT 10
2.4 Tư vấn hướng nghiệp 11
2.5 Nghề nghiệp 11
iv
2.5.1 Khái niệm nghề nghiệp 11
2.5.2 Lựa chọn nghề nghiệp và tính chất của nó 12
2.5.2.1 Tính chủ thể của quá trình lựa chọn 12
2.5.2.2 Tính khách thể của quá trình lựa chọn 12
2.5.2.3 Tính mục đích của quá trình lựa chọn 13
2.5.2.4 Tính cấu trúc của quá trình lựa chọn 13
2.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh 13
2.6.1 Yếu tố về đặc điểm cá nhân 13
2.6.2 Yếu tố gia đình 14
2.6.3 Yếu tố bạn bè 14
2.6.4 Yếu tố hướng nghiệp của trường THPT 15
2.6.5 Lý Thuyết căn cứ khoa học. Yếu tố phương tiện thông tin và các tổ
chức xã hội 16
2.7 Mô hình về các bước trong quá trình quyết định lựa chọn trường 16
2.8 Mô hình nghiên cứu liên quan các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa
chọn trường ĐH của học sinh 18
2.8.1 Đặc điểm của học sinh 20
2.8.2 Các ảnh hưởng bên ngoài 21
2.9 Tóm tắt các nghiên cứu liên quan 22
2.9.1 Các nghiên cứu trong nước 22
2.9.2 Các nghiên cứu nước ngoài 24
2.10 Mô hình nghiên cứu và giả thuyết của đề tài 27
2.10.1Mô hình nghiên cứu đề xuất 27
2.10.2 Nhóm giả thuyết thứ nhất 28
2.10.3 Nhóm giả thuyết thứ hai 31
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32
3.1 Giới thiệu 32
3.2 Thiết kế nghiên cứu 32
3.2.1 Thiết kế nghiên cứu 32
3.2.2 Quy trình nghiên cứu 33
v
3.3 Xây dựng thang đo 34
3.3.1 Thang đo về “Đặc điểm cá nhân học sinh” 34
3.3.2 Thang đo về các cá nhân có ảnh hưởng 34
3.3.3 Thang đo về đặc điểm trường ĐH 35
3.3.4 Thang đo về danh tiếng trường ĐH 35
3.3.5 Thang đo về đáp ứng mong đợi trong tương lai 36
3.3.6 Thông tin về trường ĐH 36
3.3.7 Thang đo về cơ hội trúng tuyển 37
3.3.8 Thang đo về hướng nghiệp 37
3.3.9 Thang đo cho biến phụ thuộc “Quyết định chọn trường” 38
3.4 Đánh giá sơ bộ thang đo 38
3.4.1 Hệ số tin cậy Cronbach Alpha 39
3.4.2 Phân tích nhân tố khám phá EFA 41
3.5 Điều chỉnh mô hình nghiên cứu 44
3.6 Giới thiệu nghiên cứu chính thức 45
CHƯƠNG 4 PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ 47
4.1 Giới thiệu 47
4.2 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu 47
4.3 Thực trạng công tác hướng nghiệp ở các trường THPT 49
4.4 Mô tả mẫu 50
4.5 Phân tích và đánh giá thang đo 57
4.5.1 Đánh giá độ tin cậy thang đo 57
4.5.2 Kiểm định giá trị thang đo 60
4.6 Thực hiện một số kiểm định 63
4.6.1 Thống kê mô tả các thang đo 63
4.6.2 Xem xét ma trận tương quan 68
4.6.3 Phân tích hồi quy và kiểm định sự phù hợp mô hình 68
4.6.4 Kiểm định các giả thuyết của mô hình 74
4.7 Phân tích phương sai (ANOVA) 75
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 78
vi
5.1 Tóm tắt nghiên cứu 78
5.2 Kết quả nghiên cứu 79
5.3 Các gợi ý về giải pháp 81
5.3.1 Nâng cao khả năng đáp ứng mong đợi sau khi ra trường đối với
sinh viên của trường ĐH: 81
5.3.2 Đổi mới công tác hướng nghiệp cho học sinh lớp 12 83
5.3.3 Tăng cường quảng bá hình ảnh trường ĐH 85
5.3.4 Đẩy mạnh tư vấn cho phụ huynh học sinh 86
5.4 Tính mới của nghiên cứu 87
5.4.1 So sánh với nghiên cứu của Trần Văn quí & Cao Hào Thi (2009) 87
5.4.2 So sánh với nghiên cứu của Nguyễn Phương Toàn (2011) 88
5.5 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHỤ LỤC 1 92
PHỤ LỤC 2 93
PHỤ LỤC 3 99
PHỤ LỤC 4 104
PHỤ LỤC 5 108
PHỤ LỤC 6 115
PHỤ LỤC 7 121
PHỤ LỤC 8 125
PHỤ LỤC 9 129
PHỤ LỤC 10 133
PHỤ LỤC 11 135
PHỤ LỤC 12 138
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Tổng kết các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của học
sinh
26
Bảng 3.1: Các bước nghiên cứu của đề tài 33
Bảng 3.2: Thang đo về đặc điểm cá nhân học sinh
34
Bảng 3.3 Thang đo về các cá nhân có ảnh hưởng
35
Bảng 3.4 Thang đo về đặc điểm trường ĐH
35
Bảng 3.5 Thang đo về danh tiếng trường ĐH
36
Bảng 3.6 Thang đo về đáp ứng mong đợi trong tương lai
36
Bảng 3.7 Thang đo về nổ lực giao tiếp với học sinh của trường ĐH
37
Bảng 3.8 Thang đo về cơ hội trúng tuyển
37
Bảng 3.9 Thang đo về hướng nghiệp
38
Bảng 3.10 Kết quả đánh giá sơ bộ Cronbach Alpha
39
Bảng 3.11 Kết quả đánh giá sơ bộ EFA
42
Bảng 4.1 Số lượng hồ sơ đăng ký dự thi ĐH, CĐ năm 2011, 2012 tỉnh Khánh
Hòa 48
Bảng 4.2 Số lượng thí sinh dự thi phân theo khối thi năm 2011, 2012 tỉnh
Khánh Hòa
48
Bảng 4.3 Mô tả mẫu theo đơn vị trường THPT
51
Bảng 4.4 Mô tả mẫu theo trình độ học vấn của cha mẹ
55
Bảng 4.5 Mô tả mẫu theo nghề nghiệp của cha mẹ
56
Bảng 4.6 Mô tả mẫu theo thu nhập của cha mẹ
57
Bảng 4.7 Kết quả tổng kết phân tích Cronbach Alpha
59
Bảng 4.8 Kết quả kiểm định KMO và Bartlett
61
Bảng 4.9 Kết quả phân tích EFA
61
Bảng 4.10 Thống kê mô tả thang đo “Đáp ứng mong đợi trong tương lai”
63
Bảng 4.11 Thống kê mô tả thang đo “Danh tiếng trường ĐH”
64
Bảng 4.12 Thống kê mô tả thang đo “Đặc điểm trường ĐH”
65
Bảng 4.13 Thống kê mô tả thang đo “Thông tin về trường ĐH” 66
Bảng 4.14 Thống kê mô tả thang đo “Cơ hội trúng tuyển”
66
viii
Bảng 4.15 Thống kê mô tả thang đo “Hướng nghiệp”
67
Bảng 4.16 Thống kê mô tả thang đo “Các cá nhân có ảnh hưởng”
67
Bảng 4.17 Model Summary, Anova và Coefficients
68
Bảng 4.18 Kết quả phân tích ANOVA sự khác biệt trong quyết định chọn
trường theo giới tính
76
Bảng 4.19 Kết quả phân tích ANOVA sự khác biệt trong quyết định chọn
trường theo học lực
76
ix
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1 Mô hình các bước trong quá trình quyết định lựa chọn trường ĐH
của Chapman R.C (1984) 17
Hình 2.2 Mô hình các bước trong quá trình quyết định chọn trường của
Hossler và Gallagher 1987 17
Hình 2.3 Mô hình tổng quát các bước để hoàn thành một quyết định phức tạp
của Kotler & Fox 1995 18
Hình 2.4 Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường ĐH của
D.W Chapman (1981) 20
Hình 2.5 Mô hình nghiên cứu đề xuất về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết
định chọn trường của học sinh lớp 12 THPT trong tỉnh Khánh Hòa 27
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu 33
Hình 3.2 Mô hình nghiên cứu điều chỉnh các nhân tố ảnh hưởng đến quyết
định chọn trường 44
Hình 4.1: Biểu đồ thể hiện mẫu theo giới tính 52
Hình 4.2: Biểu đồ biểu diễn mẫu theo học lực 52
Hình 4.3: Biểu đồ biểu diễn thời điểm học sinh 12 bắt đầu chọn trường ĐH 53
Hình 4.4: Biểu đồ biểu diễn dự định sau khi tốt nghiệp THPT 53
Hình 4.5: Biểu đồ biểu diễn mức độ chắc chắn trong quyết định chọn trường 54
Hình 4.6 Biều đồ phân phối phần dư 70
Hình 4.7 Biểu đồ P- P Plot 70
Hình 4.8 Đồ thị phân tán 71
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Chiến lược giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009- 2020 đã khẳng định “Trong
vòng 20 năm tới, phấn đấu xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại, khoa
học, dân tộc, làm nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển bền vững đất nước… phải đào tạo được những con người Việt Nam có năng
lực tư duy độc lập và sáng tạo…có năng lực giải quyết vấn đề, có kiến thức và kỹ
năng nghề nghiệp, có thể lực tốt…gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội”. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi có sự phấn đấu không ngừng, nổ
lực học tập của thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên trong cả nước. Tuy nhiên,
trước bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam đang đứng trước những
thách thức vô cùng to lớn, đất nước ngày càng tụt hậu về mặt kinh kế; phân hóa
giàu nghèo ngày càng gia tăng, tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục
giữa các vùng miền và giữa các đối tượng người học; trình độ lực lượng lao động
nước ta còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
1
. Hơn bao giờ
hết, rất cần có sự quan tâm của nhà trường, gia đình và xã hội trong việc định
hướng nghề nghiệp, ngành học cho học sinh, để góp phần chung vào phát triển
kinh tế đất nước.
Hằng năm, cứ đến mùa tuyển sinh ĐH- CĐ có khoảng 1,1 triệu học sinh lớp
12 trong cả nước bận rộn với vấn đề chọn trường thi, ngành thi (Trần Văn Quí &
Cao Hào Thi 2009). Hàng loạt các trường ĐH, CĐ, TCCN đến tư vấn tuyển sinh,
hướng dẫn học sinh 12 làm hồ sơ đăng ký dự thi, giới thiệu ngành đào tạo, điểm
chuẩn, tỷ lệ chọi… Số lượng trường THPT trong cả nước tăng qua các năm, từ
2192 (năm 2008), tăng lên 2267 (năm 2009) và 2288 (năm 2010), 2350 (năm
2011)
2
. Hơn nữa, tỉ lệ tốt nghiệp THPT các năm gần đây tăng đột biến, năm học
2008- 2009 cả nước có tỉ lệ học sinh tốt nghiệp so với tổng số dự thi chiếm
1
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009-2020
2
Số liệu Tổng Cục Thống kê năm 2010
2
83,82%; năm học 2009- 2010, tỷ lệ này tăng lên 92,57% và đến năm 2012 thì tỷ
lệ đỗ tốt nghiệp là 97,63%
1
, trong khi đó tổng chỉ tiêu hằng năm cả ĐH và CĐ
chỉ hơn 500.000 chỉ tiêu (Báo Lao động). Thực trạng này gây ra áp lực nặng nề
cho học sinh trong kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ những năm sắp tới.
Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng 88,2% số bạn học sinh đã có những quyết
định về ngành nghề hoặc trường ĐH sau này dự thi; tuy nhiên, chỉ có 36,4% số
học sinh hoàn toàn tin tưởng rằng những ngành nghề mà các em đã chọn và dự
định sẽ học là hoàn toàn phù hợp; 40,9% còn băn khoăn không biết ngành nghề
đã chọn có thật sự phù hợp với các em không; 12,1% không biết sau này có xin
được việc làm đúng nghề đã học không và 10,6% số học sinh cảm thấy khó trả
lời (Khoa Tâm lý – Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2005). Như vậy, còn nhiều học
sinh không hiểu biết về năng lực, sở thích học tập hoặc không hiểu biết về ngành
học mà mình đã chọn. Do đó, công tác hướng nghiệp có vai trò cực kỳ quan
trọng giúp học sinh 12 định hướng nghề nghiệp đúng đắn, xác định rõ tương lai
của mình, lựa chọn con đường lập nghiệp sau này của chính bản thân họ.
Tuy nhiên, thực tế giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, công
tác hướng nghiệp và tư vấn chọn trường chưa được xem trọng, chỉ đến khi kỳ thi
tuyển sinh ĐH- CĐ sắp cận kề thì giáo viên và ngay cả các trường ĐH- CĐ mới
thực hiện tư vấn hướng nghiệp, tuyển sinh. Mặt khác, tình trạng không có việc
làm của một bộ phận không nhỏ sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH có “danh
giá” là một minh chứng cho nhu cầu của thị trường lao động đang vốn rất cần
một lượng đông các người thợ có tay nghề giỏi chứ không phải những người chỉ
có bằng cấp cao (Nguyễn Văn Hộ & Nguyễn Thị Thanh Huyền 2006). Theo một
nghiên cứu thì yếu tố ảnh hưởng chính đến quyết định của học sinh trong việc
chọn trường kỹ thuật dạy nghề đó là học xong và tìm được một công việc. Ngoài
ra, yếu tố theo học các trường kỹ thuật dạy nghề vì sự yêu thích là yếu tố không
quan trọng, cho thấy học sinh 12 đang dần có sự thiên lệch không muốn học nghề
nữa (Cao Thị Châu Thủy 2010).
Mặt khác, các trường ĐH ở Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong thu
hút các em học sinh lớp 12 đăng ký dự thi, nhiều trường, nhiều ngành có nguy cơ
1
Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo
3
phải ngừng hoạt động giảng dạy do không đủ chỉ tiêu tuyển sinh. Trong khi,
nhiều ngành khác lại có số lượng đăng ký tăng quá mức, chất lượng dạy và học
không tương xứng, gây khó khăn cho chính các em học sinh trong vấn đề xin
việc sau này.
Khánh Hòa là một trung tâm văn hóa và du lịch lớn của cả nước, đặc biệt là
ngành thủy sản phát triển khá mạnh, nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ phát triển
kinh tế là rất cao. Khánh Hòa hiện có 31 trường THPT, hằng năm có hơn 12.000
thí sinh đăng ký tham dự kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ. Vấn đề chọn ngành, chọn
trường dự thi luôn là những thắc mắc, băn khoăn của học sinh lớp 12 trong các
buổi tư vấn tuyển sinh ĐH, CĐ. Hiện tại, trong tỉnh Khánh Hòa chưa có một
nghiên cứu nào thực hiện về vấn đề chọn trường, chọn ngành của học sinh lớp
12. Ngoài ra, các trường ĐH, CĐ trong tỉnh đang gặp khá nhiều khó khăn trong
thu hút học sinh dự thi và học tập tại địa phương.
Trước những thực trạng trên, thiết nghĩ việc chọn đề tài “Phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường ĐH của học sinh lớp 12
THPT trong tỉnh Khánh Hòa” là cần thiết và hữu ích.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định và đánh giá mức độ tác động của các
nhân tố chính ảnh hưởng đến quyết định chọn trường ĐH của học sinh lớp 12
THPT trong tỉnh Khánh Hòa. Từ đó, giúp gia đình, nhà trường và các tổ chức
giáo dục có những biện pháp thiết thực nhằm định hướng cho học sinh chọn
trường ĐH phù hợp.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu thực trạng công tác hướng nghiệp ở các trường THPT trong tỉnh
Khánh Hòa;
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường ĐH của học
sinh lớp 12 THPT trong tỉnh Khánh Hòa;
- Đánh giá mức độ tác động của từng nhân tố đến quyết định chọn trường
ĐH của học sinh lớp 12 THPT trong tỉnh Khánh Hòa;
4
- Phân tích sự khác biệt trong quyết định chọn trường giữa các nhóm đặc
điểm cá nhân học sinh;
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng công tác hướng nghiệp cho học sinh lớp 12 ở các trường
THPT trong tỉnh Khánh Hòa như thế nào?
- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến quyết định chọn trường ĐH của học
sinh lớp 12 THPT trong tỉnh Khánh Hòa?
- Mức độ tác động của từng nhân tố đến quyết định chọn trường ĐH của
học sinh lớp 12 THPT trong tỉnh Khánh Hòa ra sao?
- Liệu có sự khác biệt trong quyết định chọn trường ĐH giữa các nhóm đặc
điểm cá nhân học sinh hay không?
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu trên, nghiên cứu này được tiến hành theo hai giai
đoạn là nghiên cứu sơ bộ sử dụng phương pháp định tính và nghiên cứu chính
thức sử dụng phương pháp định lượng.
1.4.1 Nghiên cứu sơ bộ
Đầu tiên tiến hành thu thập, tổng hợp tài liệu từ các nguồn khác nhau như:
các bài báo trong và ngoài nước; các đề tài nghiên cứu, số liệu thống kê và các tài
liệu khác có liên quan. Thực hiện kỹ thuật thảo luận tay đôi với các chuyên gia là
Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng để tìm hiểu thực trạng công tác hướng nghiệp ở
trường THPT và khám phá ra các nhân tố mới có ảnh hưởng đến quyết định chọn
trường ĐH của học sinh lớp 12 THPT trong tỉnh Khánh Hòa.
Tiếp đến, tiến hành điều tra với kích thước mẫu n = 100 để đánh giá sơ bộ
thang đo bằng hệ số tin cậy Cronbach Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA.
1.4.2 Nghiên cứu chính thức
Nghiên cứu chính thức được tiến hành bằng phương pháp định lượng, thông
qua kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp và thực hiện phát phiếu điều tra bằng bảng câu
hỏi soạn sẵn với kích thước mẫu n = 550 nhằm thu thập thông tin cho đề tài. Tiếp
đến, sử dụng phần mềm SPSS 18.0 để xử lý số liệu thống kê, phân tích Cronbach
Alpha, phân tích EFA, kiểm định mô hình và giả thuyết của đề tài.
5
1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.5.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường ĐH của học
sinh lớp 12 THPT trong tỉnh Khánh Hòa trong kỳ thi tuyển sinh ĐH năm học
2012 - 2013.
1.5.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành khảo sát 31 trường THPT trong tỉnh Khánh
Hòa. Bằng phương pháp chọn mẫu phân tầng, tiến hành điều tra tại 10/31 trường
THPT:
1. Trường THPT Khánh Sơn
2. Trường THPT Lạc Long Quân
3. Trường THPT Lý Tự Trọng
4. Trường THPT Nguyễn Văn Trỗi
5. Trường THPT Hà Huy Tập
6. Trường THPT Nguyễn Huệ
7. Trường THPT Ngô Gia Tự
8. Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng
9. Trường THPT Tôn Đức Thắng
10. Trường THPT Nguyễn Thái Học
Nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 7/2012 đến tháng 3/2013.
1.6 Ý nghĩa của đề tài
Đề tài mang lại ý nghĩa cho các nhà nghiên cứu, các trường THPT, ĐH và
các em học sinh lớp 12. Cụ thể như sau:
Một là, kết quả nghiên cứu giúp các trường ĐH biết được những nhân tố
chính ảnh hưởng đến quyết định chọn trường ĐH của học sinh lớp 12 THPT
trong tỉnh Khánh Hòa. Từ đó, các trường ĐH có những biện pháp thích hợp,
đồng bộ, hiệu quả trong công tác tư vấn tuyển sinh nhằm thu hút được các em
học sinh giỏi, có năng lực đăng ký dự thi vào trường mình.
Hai là, kết quả nghiên cứu góp phần giúp các em học sinh lớp 12 hiểu biết
sâu sắc hơn về các nhân tố chính ảnh hưởng đến quyết định dự thi vào trường
ĐH của mình. Từ đó, các em có thể chuẩn bị kỹ hơn, định hướng đúng đắn hơn
6
trong vấn đề chọn trường, chọn ngành, đưa ra quyết định sáng suốt, có căn cứ
khoa học.
Ba là, mô hình nghiên cứu cũng góp phần giúp cho các nhà nghiên cứu tiếp
tục điều chỉnh, bổ sung và sử dụng chúng cho những nghiên cứu tiếp theo.
1.7 Kết cấu của đề tài
Ngoài danh mục lời cảm ơn, mục lục, danh mục bảng, danh mục hình, danh
mục sơ đồ thì kết cấu của báo cáo nghiên cứu này bao gồm năm chương. Chương
1 giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu. Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết
về hướng nghiệp ở trường THPT, các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng lựa chọn
nghề nghiệp của học sinh, mô hình các bước trong quá trình quyết định lựa chọn
và mô hình lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của D.
W Chapman (1981) và đề xuất mô hình nghiên cứu lý thuyết và các giả thuyết
của đề tài. Chương 3 trình bày phương pháp nghiên cứu, xây dựng và đánh giá sơ
bộ thang đo. Chương 4 phân tích và thảo luận kết quả. Chương 5 trình bày kết
luận, các gợi ý về giải pháp nhằm định hướng cho các em học sinh lớp 12 THPT
trong tỉnh Khánh Hòa chọn trường phù hợp.
7
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1 Giới thiệu
Chương 1 giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu. Chương 2 trình bày cơ
sở lý thuyết nhằm mục đích xây dựng mô hình nghiên cứu đề xuất các nhân tố
ảnh hưởng đến quyết định chọn trường ĐH của học sinh lớp 12 THPT trong tỉnh
Khánh Hòa. Phần đầu tiên sẽ tóm lược lý thuyết liên quan về hướng nghiệp ở
trường THPT và các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh. Tiếp theo, trình bày lý thuyết về các bước trong quá trình quyết định
lựa chọn trường và mô hình lý thuyết phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết
định chọn trường của D. W Chapman (1981). Trên cơ sở lý thuyết đã được phân
tích ở trên tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu và đưa ra các giả thuyết của
đề tài.
2.2 Hướng nghiệp
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã nhen nhóm cho sự ra đời của “hướng
nghiệp”, đặc biệt là kể từ sau sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản. C.Mác đã mô tả
quá trình thầm lặng phân hóa và phân chia lao động thành từng nhóm đã cho thấy:
rất nhiều người trong số họ sẽ phải làm những công việc không phù hợp với những
đặc điểm tâm lý của họ. Trải qua thời gian thì những yêu cầu nghề nghiệp đối với
con người cũng đã thay đổi: điều hành kỹ thuật cao đòi hỏi phải khéo léo và thận
trọng, các sự cố trong sản xuất đã đem đến cho các nhà tư bản những tổn thất nặng
nề, những sai sót trong việc tuyển lựa công nhân, việc chọn lựa những nhân viên
thiếu năng lực, việc đào tạo nhân viên có tay nghề kém đã dẫn đến những giảm sút
lớn về kinh tế…. Điều đó cho ta thấy rằng nếu trong khi tiếp nhận một nguồn lực
vào lao động sản xuất mà không tính đến năng lực cá nhân của họ, không kiểm tra
sự phù hợp của họ đối với nhu cầu nghề nghiệp thì không thể giữ được sự bình ổn
sản xuất chứ chưa nói tới nâng cao năng suất lao động (C. Mác, F. Angghen 1959;
theo Nguyễn Văn Hộ & Nguyễn Thị Thanh Huyền 2006).
Năm 1849, ở Pháp đã xuất hiện cuốn sách nhan đề “Hướng dẫn lựa chọn
nghề”. Vào đầu thế kỷ XX, ở Mỹ, Anh, Pháp, Thụy Điển đã xuất hiện các cơ sở
8
dịch vụ hướng nghiệp. Ở nước Nga xuất bản cuốn sách về hướng nghiệp có tựa
đề “Lựa chọn khoa và điểm qua chương trình ĐH tổng hợp”, trong đó nêu rõ ý
nghĩa khi lựa chọn nghề khi thi vào trường ĐH được xuất bản lần đầu tiên vào
năm 1897. Nhưng việc chọn nghề ở nhiều nước trên thế giới chỉ giới hạn trong sự
bất bình đẳng xã hội. Tất cả những tác phẩm về hướng nghiệp chỉ nhằm mục đích
tăng cường lợi nhuận qua việc bóc lột tối đa sức lực của người lao động.
Từ những năm 20, 30 của thế kỷ XX thì công tác hướng nghiệp được triển
khai trên đất nước Xô viết nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa
thông qua việc đào tạo nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ.
Năm 1930, ở Maxcơva đã thành lập phòng thí nghiệm trung ương về tư vấn
nghề và lựa chọn nghề trực thuộc Trung ương đoàn thanh niên cộng sản Lênin.
Hoạt động tư vấn này sẽ giúp cho tuổi trẻ hiểu rằng muốn cho đất nước ổn định
và phồn vinh thì không chỉ cần sự đóng góp sức lực và khả năng của mình mà
còn giúp cho mỗi người lựa chọn vị trí trong cơ cấu nghề nghiệp xã hội phù hợp
với đặc điểm tâm lý và năng lực về kỹ năng, kỹ xảo lao động nghề nghiệp.
Dựa vào các quan điểm trên thì ta có thể thấy rằng nếu sớm thực hiện
hướng nghiệp cho thế hệ trẻ thì đó là cơ sở giúp cho họ chọn nghề đúng đắn, có
sự phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội.
Vậy “Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp tâm lý- giáo dục, y học, Nhà
nước giúp cho con người đi vào cuộc sống thông qua việc lựa chọn cho mình một
nghề nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu xuất hiện, vừa phù hợp với năng lực của bản
thân” (Platônốp 1996; theo Nguyễn Văn Hộ & Nguyễn Thị Thanh Huyền 2006).
Hoặc “Hướng nghiệp là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục, về y
học, kinh tế học nhằm giúp thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp với hứng thú,
năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của
các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân” (Phạm Tất Dong 1989; theo
Phạm Văn Khanh 2012).
Như vậy, hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp sư phạm nhằm giúp thế
hệ trẻ làm quen với các ngành nghề phổ biến trong xã hội, để các em có thể lựa
chọn nghề nghiệp cho mình một cách tốt nhất trên cơ sở phù hợp với năng lực, sở
trường và nguyện vọng cá nhân.
9
2.3 Giáo dục hướng nghiệp
2.3.1 Quan điểm truyền thống và quan điểm mới về GDHN
- Quan điểm truyền thống: theo quan điểm này, GDHN gắn với khâu chọn
nghề. Về phạm vi, GDHN chỉ diễn ra ở trường phổ thông. Về đối tượng, là học
sinh phổ thông nhưng chủ yếu là học sinh THCS đến hết cấp THPT.
- Quan điểm mới: theo quan điểm này, GDHN gắn liền với quá trình phát
triển nghề nghiệp gồm có chọn nghề và thích ứng nghề. Về phạm vi, công tác
GDHN không chỉ diển ra ở trường phổ thông mà ở cả trường dạy nghề và trường
TCCN, CĐ, ĐH và cả ở những cơ sở sản xuất kinh doanh. Về đối tượng, bao
gồm cả học sinh phổ thông, học sinh học nghề và TCCN, sinh viên CĐ, ĐH và cả
người lớn tuổi học thêm nghề hoặc chuyển đổi nghề do thay đổi công nghệ, cổ
phần hóa doanh nghiệp, môi trường sống…(Phạm Văn Khanh 2012)
2.3.2 Ý nghĩa của công tác GDHN
- Ý nghĩa giáo dục: GDHN là một bộ phận của công tác giáo dục. Đây là
công tác điều chỉnh động cơ chọn nghề của học sinh, điều chỉnh hứng thú nghề
nghiệp cho các em theo xu thế nhu cầu lao động xã hội và sự phân công lao động
xã hội. Tác động của giáo dục trong quá trình hướng nghiệp có ý nghĩa rất lớn
đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Kết quả của GDHN là giúp học sinh
chọn nghề trên cơ sở phù hợp với nguyện vọng của bản thân, phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh gia đình của mình và phù hợp với nhu cầu xã hội…
- Ý nghĩa kinh tế: GDHN luôn hướng vào việc sử dụng hợp lý tiềm năng lao
động trẻ tuổi của đất nước từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội, đồng thời
đưa đúng thanh thiếu niên vào đúng vị trí lao động nghề nghiệp, giúp họ phát huy
đúng sở trường lao động. Phát triển cao hứng thú nghề nghiệp, làm tăng khả năng
sáng tạo trong lao động. Đây là việc làm hết sức có ý nghĩa trong công tác
GDHN. Từ đó, biến nghề nghiệp không chỉ là nơi kiếm sống đơn thuần mà còn là
nơi cá nhân thể hiện nhân cách, phát triển tài năng, cống hiến hết sức lực và trí
tuệ cho công cuộc xây dựng đất nước.
- Ý nghĩa chính trị - xã hội: GDHN là hoạt động hướng nghiệp có chức
năng thực hiện hóa đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước, của đời sống xã
hội. GDHN được coi là điều kiện đảm bảo chất lượng và hiệu quả giáo dục.
10
GDHN sẽ tạo nên yếu tố mới trong con người lao động – yếu tố cơ bản của việc
tăng năng suất lao động xã hội. Làm tốt GDHN, sẽ có những lớp người mới đủ
năng lực và phẩm chất cách mạng để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2.3.3 Nội dung của công tác GDHN
GDHN phải cung cấp cho học sinh sự hiểu biết về hệ thống nghề nghiệp
trong xã hội, đặc biệt những nghề phổ biến và quan trọng nhất của nền kinh tế,
đồng thời cũng phải giúp cho học sinh quen biết những nghề chính của địa
phương và những nghề có tính chất truyền thống. Ngoài ra, trong các giờ hướng
nghiệp cũng phải cho học sinh hiểu biết về các trường nghề, TCCN…
Nội dung GDHN là giáo dục thái độ lao động và ý thức đúng đắn đối với
nghề nghiệp, thấy rõ trách nhiệm của mình đối với xã hội, đánh giá đúng những
khó khăn và thuận lợi của đất nước, của địa phương nhằm tạo ra cho mình tâm lý
sẵn sàng để đi vào nghề.
Nội dung GDHN phải khơi dậy chí hướng và hứng thú nghề nghiệp cho học
sinh vì đây được coi như “một chỉ số quan trọng hàng đầu để xét sự phù hợp
nghề của con người”.
Nội dung GDHN tiến hành trong các bộ môn khoa học cơ bản sẽ tạo cho
học sinh có điều kiện hiểu được sự vận dụng tri thức trong lĩnh vực nghề nghiệp
nhất định, thấy rõ tiềm năng và triển vọng của địa phương, của đất nước đối với
sự phát triển kinh tế và tương lai của một số ngành nghề. Đồng thời hướng dẫn
học sinh đi vào những nghề, những nơi đang cần lao động trẻ tuổi.
2.3.4 Nhiệm vụ của GDHN trong nhà trường THPT
- Nâng cao nhận thức nghề nghiệp cho học sinh phù hợp với trình độ phát
triển tâm lý và lứa tuổi các cấp học, đầu tiên là qua hướng nghiệp học sinh được
làm quen với những nghề cơ bản trong xã hội, những nghề có vị trí then chốt
trong nền kinh tế quốc dân, những nghề cần thiết phải phát triển ngay tại địa
phương. Đồng thời, học sinh còn phải biết những yêu cầu tâm lý, sinh lý mà nghề
đặt ra, những điều kiện vào nghề và học nghề.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh được trực tiếp tham gia vào hoạt
động xã hội nhằm bước đầu hình thành năng lực thích ứng nghề nghiệp cho học
11
sinh. Đối với học sinh phổ thông, con đường hình thành năng lực thích ứng nghề
nghiệp là tổ chức lao động sản xuất và dạy nghề.
- Giáo dục cho học sinh thái độ tôn trọng người lao động thuộc các ngành
nghề khác nhau, ý thức tiết kiệm, bảo vệ của công.
- Thực hiện xã hội hóa GDHN nhờ việc phối hợp, liên kết các tổ chức, các
cơ sở sản xuất nằm trong các thành phần kinh tế ngoài xã hội.
2.4 Tư vấn hướng nghiệp
Có thể nói tư vấn hướng nghiệp là một hoạt động cực kỳ quan trọng không
thể thiếu ở các trường THPT nhằm giúp học sinh nâng cao sự hiểu biết về nghề
nghiệp và điều chỉnh xu hướng lựa chọn nghề nghiệp cho phù hợp với sở thích,
nguyện vọng của bản thân và quá phát triển chung của đất nước.
Theo tác giả Phan Thị Tố Oanh (Oanh, 1996; theo Nguyễn Thị Trường Hân
2011) thì tư vấn hướng nghiệp là một hệ thống những biện pháp tâm lý – giáo
dục nhằm đánh giá toàn bộ năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối
chiếu những năng lực đó với những yêu cầu do nghề đặt ra đối với người lao
động, có cân nhắc với nhu cầu nhân lực của địa phương và xã hội trên cơ sở đó
cho họ những lời khuyên về chọn nghề có căn cứ khoa học, loại bỏ những trường
hợp may rủi, thiếu chín chắn trong khi chọn nghề.
Tư vấn hướng nghiệp là một bộ phận quan trọng của hoạt động hướng
nghiệp nói chung. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã
hội nhằm giúp cho các bạn học sinh chuẩn bị đầy đủ kỹ năng và tâm thế để bước
vào quá trình lao động góp phần xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
2.5 Nghề nghiệp
2.5.1 Khái niệm nghề nghiệp
“Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức mạnh vật chất và tinh thần của
con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao động
xã hội mà có), nó tạo cho mỗi con người khả năng sử dụng lao động của mình để
thu lấy những phương tiện cho việc tồn tại và phát triển (Klimốp 1969; theo
Nguyễn Văn Hộ & Nguyễn Thị Thanh Huyền 2006).
Như vậy, ta có thể hiểu nghề nghiệp như một dạng lao động vừa mang
tính chất xã hội (sự phân công xã hội), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản thân),
12
trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thỏa mãn những
nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân.
2.5.2 Lựa chọn nghề nghiệp và tính chất của nó
Việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh là một quá trình lâu dài và phức
tạp, nó được biểu hiện ở các mức độ khác nhau ngay trong những lớp đầu của
trường THCS, được tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần ở những lớp sau, nhất là
ở cuối cấp THPT (Nguyễn Văn Hộ & Nguyễn Thị Thanh Huyền 2006). Với tư
cách là một quá trình hoạt động, lựa chọn nghề nghiệp bao gồm những tính chất
cơ bản sau:
2.5.2.1 Tính chủ thể của quá trình lựa chọn
Quá trình lựa chọn nghề nghiệp của học sinh diễn ra với sự chi phối của
những mối quan hệ xã hội phức tạp (giữa học sinh với gia đình; học sinh với tập
thể lớp, trường, đoàn đội; học sinh với cộng đồng ). Những mối quan hệ này tác
động tới nhận thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú, sở thích nghề nghiệp của học
sinh. Tuy nhiên để đi tới một quyết định lựa chọn nghề thì hầu hết đó là quyết
định do chính chủ thể đưa ra và khẳng định. Tỷ lệ ảnh hưởng của những tác động
khách quan tới sự lựa chọn trên mỗi cá nhân là nhiều ít khác nhau, song quyết
định cuối cùng của quá trình lựa chọn nghề bao giờ cũng thuộc về một con người
cụ thể.
2.5.2.2 Tính khách thể của quá trình lựa chọn
Khi nói đến quá trình lựa chọn nghề là nói tới sự kết hợp giữa nhu cầu,
nguyện vọng cá nhân với yêu cầu do nghề nghiệp và xã hội đòi hỏi. Không phải
bất cứ nguyện vọng nghề nghiệp nào của chủ thể lựa chọn cũng được xã hội chấp
nhận. Trong xã hội mỗi cá nhân có một vị trí xác định, với vị trí đó, cá nhân vừa
được hưởng những quyền lợi đồng thời cũng cần có trách nhiệm đối với cộng
đồng và xã hội.
Mối quan hệ giữa quyền lợi và trách nhiệm trong lựa chọn nghề được
biểu hiện qua mối quan hệ giữa nguyện vọng cá nhân với đòi hỏi về số lượng
và chất lượng mà nhu cầu nguồn nhân lực hoạt động trong các lĩnh vực nghề
nghiệp đòi hỏi. Khi đó chủ thể của sự lựa chọn trở thành đối tượng của sự
13
lựa chọn. Phần chính yếu phụ thuộc vào những gì có được nhờ vào hoạt động
của chủ thể lựa chọn.
2.5.2.3 Tính mục đích của quá trình lựa chọn
Lựa chọn nghề là một hoạt động có đối tượng. Đối tượng ở đây chính là
những nghề mà học sinh sẽ chọn. Nghề được chọn trở thành mục đích hoạt động
của học sinh. Để đạt tới mục đích, học sinh cần phải hiểu rõ đối tượng (nghề). Sự
hiểu biết này càng cặn kẽ sâu sắc, đầy đủ bao nhiêu thì khả năng chiếm lĩnh nghề
nghiệp càng nhanh chóng trở thành hiện thực bấy nhiêu. Một khi đã hiểu rõ nghề
nghiệp, học sinh sẽ dần thiết lập được kế hoạch cụ thể, có những biện pháp,
phương pháp thích hợp trong học tập, rèn luyện để chiếm lĩnh được nghề lựa chọn
ở những mức độ khác nhau. Việc xác định mục đích cho sự lựa chọn nghề của học
sinh là rất đa dạng và phức tạp. Muốn xác định được nghề sẽ chọn phù hợp với
mình, ngoài việc hiểu biết về nghề đó, học sinh phải tự hiểu mình. Chỉ có trên cơ
sở này, bản thân học sinh mới đáp ứng với những yêu cầu của nghề nghiệp.
2.5.2.4 Tính cấu trúc của quá trình lựa chọn
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giai đoạn lựa chọn nghề được coi là
một bộ phận, một mắt xích trong cấu trúc đời sống của con người. Khi xác định
cho mình một hướng đi, một vị trí hoạt động trong đời sống xã hội chính là lúc
con người ta lựa chọn nghề. Quá trình lựa chọn nghề không phải là chốc lát,
không phải diễn ra chỉ một lần mà nó nảy sinh trong các mối quan hệ phức tạp,
lựa chọn nghề được đặt trong một hệ thống các mối quan hệ giữa chủ thể (người
lựa chọn) và những điều kiện khách quan có mối quan hệ trực tiếp đối với nghề
nghiệp. Nếu như việc xem xét và lựa chọn nghề nghiệp của học sinh tách khỏi
các dạng lựa chọn trong đặc trưng của cuộc sống con người thì sẽ dẫn tới sự hạn
chế kết quả thực tế của các biện pháp hướng nghiệp, giới hạn khả năng điều
khiển quá trình tái sản xuất nguồn nhân lực cho đất nước.
2.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh
2.6.1 Yếu tố về đặc điểm cá nhân
Để có thể chọn được một nghề nào đó, mỗi người trước trước tiên phải
“hiểu mình” để có được một bức tranh toàn cảnh về chính mình, từ đó có sự cân
nhắc kỹ càng về sự phù hợp hay không phù hợp giữa những gì vốn có và nhu cầu
14
đòi hỏi của nghề nghiệp. Nhu cầu, nguyện vọng của cá nhân để chiếm lĩnh một
nghề nào đó có trở thành hiện thực không chỉ phụ thuộc vào sự nhận biết nghề
mà cùng với nó, cá nhân phải hiểu rằng nghề nghiệp đó đặt ra những điều kiện
nào về thể chất, về tâm lý, về năng lực, về kỹ năng, về phẩm chất đạo đức mà
chính mình cần phải có. Bởi vậy, học sinh cần có sự hiểu biết cần thiết về nhu
cầu năng lực, khí chất, các nét tình cách của mình để làm cơ sở cho sự so sánh
đối chiếu với yêu cầu do nghề nghiệp đặt ra (Nguyễn Văn Hộ & Nguyễn Thị
Thanh Huyền 2006).
2.6.2 Yếu tố gia đình
Gia đình ảnh hưởng rất lớn đến quyết định lựa chọn nghề nghiệp của các
em học sinh. Cha mẹ có sự hiểu biết, kinh nghiệm nhất định về các nghề trong xã
hội. Sau khi ra trường, nhiều khi các em phải phụ thuộc vào mối quan hệ, khả
năng tài chính của gia đình mới có được một công việc ổn định. Tuy nhiên, sự
ảnh hưởng của cha mẹ có tính hai mặt của nó, nếu cha mẹ có kiến thức, có trình
độ, hiểu rõ năng lực, hứng thú nghề nghiệp, sở thích của con thì sẽ định hướng
cho con mình những ngành nghề phù hợp. Nếu cha mẹ không có trình độ, kiến
thức, áp đặt nghề nghiệp cho con cái mình theo ý thích, xu hướng của gia đình thì
như vậy dễ dẫn đến những sự lựa chọn sai lầm của học sinh.
Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng: đa số học sinh nói rằng hình thức giúp đỡ
của cha mẹ và những người thân trong gia đình đối với việc lựa chọn nghề của
học sinh là định hướng phân tích, khuyên các em nên chọn nghề theo nghề của
cha mẹ hoặc nghề sau khi học xong dễ xin được việc hoặc có thu nhập cao.
Ngoài ra, cha mẹ, người thân còn giúp các em tìm kiếm những tài liệu, sách báo
có liên quan đến nghề. Kết quả khảo sát cho thấy có 69,7% số học sinh lựa chọn
nghề nghiệp cho mình do ảnh hưởng của cha mẹ và người thân trong gia đình
(Nguyễn Thị Thanh Huyền 2006, theo Trần Đình Chiến 2008).
2.6.3 Yếu tố bạn bè
Khi tham gia vào môi trường học tập thì quan hệ bạn bè là một nhu cầu
không thể thiếu. Bạn bè giúp các em chia sẻ những niềm vui, nổi buồn, giải tỏa
những tâm tư nguyện vọng trong quá trình định hướng và lựa chọn nghề nghiệp.
Khi lựa chọn bạn, các em phải cân nhắc kỹ càng trên cơ sở phù hợp với sở thích,
15
tính cách, lối sống…các mối quan hệ này rất bền chặt, tồn tại trong suốt cuộc đời
của các em. Do đó, bạn bè cùng lớp, cùng trường cũng là một nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của các em học sinh THPT. Thực tế,
nhiều học sinh chọn nghề do lời khuyên của bạn bè, thấy các bạn chọn thì mình
cũng chọn theo hoặc các em chơi thân với nhau rồi cùng rủ nhau lựa chọn một
nghề, thi chung một trường… Hầu hết việc chọn nghề do ảnh hưởng của bạn bè
không mang lại hiệu quả do bị chi phối bởi cảm tính và không có sự so sánh đối
chiếu giữa sở thích, điều kiện và năng lực của bản thân với yêu cầu của nghề
hoặc do sự hào nhoáng bề ngoài của nghề, tâm lý chạy theo số đông. Theo số liệu
điều tra thì có tới 52,33% số học sinh lựa chọn nghề do sự ảnh hưởng của bạn bè
(Trần Đình Chiến 2008).
2.6.4 Yếu tố hướng nghiệp của trường THPT
Nhà trường THPT là nơi dạy dỗ, diều dắt và hướng dẫn các em học sinh
bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Thông qua các hoạt động hướng nghiệp ở trường
THPT, mỗi học sinh có sự hiểu biết về tính chất và đòi hỏi của ngành nghề mà
mình hướng tới, biết phân tích thị trường hoạt động và sự đào tạo nghề tương
ứng, tự sàng lọc những nguồn tư vấn để tự mình tháo gỡ vướng mắc hoặc rèn
luyện bản thân. Từ đó, mỗi học sinh tự xác định được đâu là nghề nghiệp phù
hợp hoặc không phù hợp với mình (Nguyễn Văn Hộ & Nguyễn Thị Thanh
Huyền 2006).
Tuy nhiên trong thực tế, thì hoạt động hướng nghiệp của nước ta đang bị bỏ
ngỏ, chưa được quan tâm đúng mức. Tính ra, mỗi trường phổ thông cần 1 giáo
viên hướng nghiệp thì trên cả nước thiếu tới 10.000 người. Hoạt động dạy nghề,
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông còn chưa hợp lý cả về chất lượng và thời
lượng, hiện tại đang chỉ đạt 4% chương trình giáo dục trong khi các quốc gia
khác chiếm khoảng 7- 8% chương trình (Trần Đình Chiến 2008). Từ thực tế trên,
nhà trường THPT cần có những hoạt động thiết thực hơn nữa để giúp cho các em
học sinh có thế bước vào tương lai một cách tốt nhất.
Hiện nay, đang rầm rộ các hoạt động tư vấn tuyển sinh ĐH, CĐ, TCCN tại
các trường THPT, chương trình này thực sự bổ ích cho các em học sinh trong
việc giải đáp các thắc mắc trong đăng ký hồ sơ thi ĐH, CĐ; việc chọn ngành