Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận Cán cân thương mại Việt Nam-Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.93 KB, 30 trang )

LỜI GIỚI THIỆU
Trong mấy năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã trải qua những thăng trầm do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như xuất phát từ nội tại của nền kinh tế: tăng
trưởng cao nhung chưa ổn định, lạm phát tăng cao (năm 2008) và đặc biệt hơn nữa đó là tình
trạng thâm hụt cán cân vãng lai bắt nguồn từ thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng.
Bên cạnh đó, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và hiện trạng môi trường
đầu tư của Việt Nam chưa được cải thiện như mong đợi, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp
nước ngoài vào Việt Nam chưa tăng trưởng vững chắc. Hiện trạng này chắc chắn sẽ gây sức
ép không nhỏ đến cán cân thanh toán quốc tế về khả năng chống đỡ các cú sốc bên ngoài và
tính bền vững của nền kinh tế khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam có xu hướng thu hẹp. Từ
thực trạng trên, Đe tài này với mong muốn làm rõ đâu là nguyên nhân sâu xa tác động đến
trạng thái của cán cân vãng lai và sức chịu đựng thâm hụt của nó đối với cán cân thanh toán
quốc tế để từ đó đưa ra giải pháp cải thiện.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn đề tài vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định,rất mong được sự đóng góp của các bạn sinh viên và các độc giả để hoàn thiện hơn
Thiều Ngọc Anh
Tài chính nhà nước 03k35- đại học Kinh Te TP HCM
I. Lý Thuyết
l. Khái niệm
Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế, ghi chép những giao dịch kinh tế
của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định. Những giao
dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước
hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch
vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có thể là
một tháng, một quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ
phía người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào bên tài sản nợ.
Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước cho người cư trú
ở trong nước được ghi vào bên tài sản có.
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một
quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụgiữa người cư trú trong nước
với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú


trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế
toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người
cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực
đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc
tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một
quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh
lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán
cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân
thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng
thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi
cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị
dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại
mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý
là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại
trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân
thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
2. Nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại
2.1) Xuất khẩu và nhập khẩu
■ Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự
gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là
phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2
nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu.
Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và
hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Neu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị
trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại
Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ
nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.
■ Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì

xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc
vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh
tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
2.2) Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương
đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của
đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong
khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá
đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả
là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế
trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lêm
c)Anh hưởng của dòng von:
Cán cân thương mại là một trong những yếu tố của tài sản quốc gia. Cán cân thương mại phụ
thuộc vào chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong nền kinh tế. Mức chênh lệch giữa tiết
kiệm và đầu tư được bù đắp bởi các dòng vốn đầu tư nước ngoài như FD1, ODA, FPI, kiều
hối và các dòng vốn vay thương mại khác.
2.3) Ảnh hưởng của thu nhập:
Khi thu nhập trong nước tăng, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa cũng đồng thời tăng theo. Trong
khi đó, khi kinh tế nước ngoài tăng trưởng, họ cũng tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ nước
khác và làm cho xuất khẩu của đối tác thương mại tăng lên. Do vậy cán cân thương mại phụ
thuộc vào tăng trưởng kinh tế.
2.4) Các chính sách thương mại và phát triển kinh tế:
Các chính sách thuế, bảo hộ hàng hóa trong nước cũng ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương
mại. Những rào cản này hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng để cải thiện cán cân thương mại.
Các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu khác cũng
sẽ ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương mại. Ngoài ra, cán cân thương mại còn phụ thuộc vào
cơ cấu của nền kinh tế và chiến lược phát triển công nghiệp của quốc gia.
2.5) Tỷ lệ trao đổi
Tỷ lệ trao đổi biểu hiện giá mà một nước có thể chấp nhận trả cho hàng hoa nhập khẩu với giá
xuất khẩu của nước đó.Nói cách khác là tỷ số giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu.Do đó tỷ lệ

trao đổi có ảnh hưởng đến cán cân thương mại.
2.6) Phá giá tiền tệ
Phá giá(hay nâng giá) là giảm bót (hay tăng) tỷ giá hối đoái mà được chính phủ ủng hộ.Phá
giá đưa đến tăng giá hàng nhập khẩu và giảm giá hàng xuất khẩu của quốc gia.Do đó tạo ra
một khoản thặng dư trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán.
II. Thực tiễn tại Việt Nam
l) Ph*ân tích SWOT
l.l) Điểm mạnh
-Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về xã hội, có sức hấp dẫn đối
với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản thân việc Việt Nam tích cực tham gia
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
- Từ sau đổi mới, đặc biệt là từ sau khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, số nước
và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam cũng như nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam bước đầu
được mở rộng.
- Từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết năm 2000 và khi Việt Nam trở
thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, hầu hết các nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam. Cũng vì thế mà kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng.
-Việt nam là nơi có nguồn nhân công,măng bằng rẻ,tài nguyên thiên nhiên phong phú,điều
kiện tự nhiên thuận lợi,có thế mạnh về mặt hàng nông sản như café,tiêu, cà phê, hạt tiêu, nhân
điều, chè, dầu thô, than đá, hàng điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ, xe đạp và phụ
tùng
1.2) Điểm yếu
-Ở nước ta hiện nay “công nghiệp phụ trợ” còn hết sức đơn giản,hầu như chưa có gì nhiều,
quy mô sx nhỏ lẻ,chủ yếu sản xuất các linh kiện chi tiết giản đơn,giá trị gia tăng thấp và còn
có sự chênh lệch về năng lực phụ trợ giữa các DN vừa và nhỏ nội địa của Việt Nam với các
yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu.
- Cơ cấu kinh tế nhìn chung còn yếu kém so với các nước. Thông thường, khi chọn ngành
trọng điểm, phải xem xét đến hai yếu tố là chỉ số lan tỏa nội địa và chỉ số kích thích nhập
khẩu. Nhưng ở nước ta, một số ngành như công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng vốn đầu tư

khá lớn nhưng chỉ số lan tỏa nội địa thấp, trong khi chỉ số kích thích nhập khẩu lại cao bất
thường.
- Trong thực tế, chính sách bảo hộ của Việt Nam còn nhiều cảm tính. Những ngành có thể
cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu hiệu - bảo hộ sản xuất ngày càng giảm, thậm chí có những
nhóm còn có tỷ lệ âm. Ngược lại, với những ngành không thể cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu
hiệu cho sản xuất lại ngày càng tăng
- Việc áp dụng các biện pháp tạo thuận lợi cho thưong mại và nâng cao các dịch vụ hỗ trợ
thưong mại đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho xuất khẩu nhưng cũng đồng thời thúc đẩy cả
hoạt động nhập khẩu.
-Quy mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt mức 473
ƯSD/người là thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
-Xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thưong bởi sự biến động
giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước
ngoài.
- Tỷ lệ nhập khẩu là cấu phần trong xuất khẩu còn rất cao, chiếm khoảng 2/3 giá xuất xưởng.
-Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa họp lý, thể hiện trên cả 3 phương diện: chủng loại hàng hoá
xuất khẩu còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim
ngạch đáng kể; các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, xuất khẩu chủ yếu vẫn phụ
thuộc vào các mặt hàng như khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, trong khi các mặt hàng
công nghiệp như dệt may, da giày, điện tủ’ và linh kiện máy tính chủ yếu vẫn còn mang tính
chất gia công; quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa
diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản, triệt để.
-về thực chất, cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng, chưa
đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai
thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết
chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn
- Khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị
trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Chưa tận dụng triệt để lợi ích tù’ việc gia nhập WTO, các
hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai
thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc.

-Công tác của mạng lưới đại diện, đặc biệt về thương mại ỏ’ nước ngoài còn nhiều yếu kém,
chưa thực sự hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu, các chương trình xúc tiến thương mại nhỏ lẻ,
rời rạc, hiệu quả chưa cao.
-Việt Nam lại là việc lệ thuộc quá nhiều vào việc xuất khẩu vào Mỹ. Trong năm 2009, Mỹ
là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với giá trị tương đương 20% tổng kim ngạch
xuất khẩu.
- Thị trường xuất khẩu tăng trưởng không đều, trong khi thị trường ASEAN, EƯ, Hoa Kỳ
tăng trưởng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như Trung
Quốc, Nhật Bản và Australia
1.3) Cơ hội
-Theo cam kết từ 1/1/2010, các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam vào Trung Quốc và các nước
ASEAN 6 sẽ được hưởng mức thuế nhập khẩu từ 0-5%. Việt Nam được thực hiện cam kết
muộn hơn 5 năm bắt đầu từ năm 2015. Bởi vậy đây là cơ hội rất lớn cho hàng hóa Việt Nam
tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc trong thời gian 5 năm tới. -Sự biến động không ngừng
của nền kinh tế toàn cầu cũng là cơ hội nâng cao các khả năng cạnh tranh và tính thích nghi
của các doanh nghiệp ViệtNam. Các vấn đề quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro, tái cấu trúc
hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như đầu tư vào công nghệ, nâng cao khả năng cạnh
tranh, năng suất lao động, đào tạo kỹ năng cho lao động cần được các doanh nghiệp thực hiện
nghiêm túc mới có hiệu quả.
-Kinh tế của các nước thành viên EU vẫn đang khó khan trong giai đoạn này nhưng nhu cầu
nhập khẩu và tiêu thụ mặt hàng giày dép tại EƯ vẫn đứng ở mức cao tạo cơ hội gia tăng
xuất,khẩu cho doanh nghiệp VN
-Từ năm 2010, khi Hiệp định Đối tác kinh tế Việt - Nhật (VJEPA) được triển khai đồng bộ, sẽ
có trên 800 dòng sản phẩm nông sản và thủy sản Việt Nam vào Nhật với thuế suất 0%. Điều
này đang mở ra những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp chế biến nông, thủy sản. việc giảm
thuế mạnh mẽ các mặt hàng nông sản xuất khẩu vào Nhật đã mở ra cho các doanh nghiệp cơ
hội tăng năng lực cạnh tranh. Cụ thể, theo các cam kết của VJEPA, Nhật Bản đã cam kết giảm
thuế đối với các mặt hàng tương đương với gần 84% giá trị nông sản xuất khẩu của Việt Nam.
Trong đó, ngay khi VJEPA có hiệu lực, trong số 2.020 dòng thuế nông sản, Nhật Bản đã xóa
bỏ ngay đối với 784 dòng, chiếm 36% tổng số dòng thuế nông sản và chiếm 67,6% giá trị

hàng xuất khẩu của Việt Nam.
-Việc ra nhập các tổ chức kinh tế lớn,các hiệp định tự do thương mại .với bạn bè trên thế giới
đã tạo điều kiện tiếp thu kĩ thuật,khoa hoc công nghệ tư đó tạo lợi thế cho xuất khẩu
1.4) Thách thức
-Thường xuyên phải đối đầu với rào cản thương mại của các nước cũng là thách thức không
nhỏ đối với các doanh nghiệp VN trong xu thế hội nhập vì tính cạnh tranh còn thấp. Chính vì
vậy, nguy cơ Việt Nam phải đối mặt với hàng trăm vụ kiện mỗi năm, tranh chấp thương mại
và con số các vụ kiện sẽ ngày càng tăng
- Áp dụng thuế nhập khẩu thấp hơn đối với thương mại hàng hoá theo FTA trong nội khối
ASEAN (AFTA), FTA giữa ASEAN với Trung Quốc (ACFTA), và việc gia nhập WTO trong
2007, làm cho hàng nhập khẩu trở nên rẻ đi tương đối so với các sản phẩm trong nước và phù
họp hơn với túi tiền của dân chúng nên đã tạo ra tỷ lệ tiêu dùng hàng nhập khẩu cao hơn.
-Tỷ giá hối đoái giữ ở mức thấp ở một số nước đặt biệt là Trung Quốc (VN nhập khẩu tói
90%) gây khó khăn trong việc điều chỉnh cán cân thương mại của VN.
- Hàng hoá xuất khẩu chưa đa dạng, tập trung vào một số ngành hàng như dầu thô,dệt may,
thuỷ sản, nông sản và giày dép. Do vậy, Việt Nam dễ chịu ảnh hưởng tiêu cực khi có sự biến
động lớn về giá hàng hoá cũng như biến động trong nhu cầu ở thị trường nước ngoài
- Sự biến động trong giá hàng hoá thế giói dẫn tới hoạt động đầu cơ hàng hoá, nên nhiều hàng
hoá được nhập khẩu để tích trữ trước khi giá tăng.
-Khả năng cạnh tranh của hàng XK Việt Nam còn thấp do nhiều mặt hàng gia công, XK phụ
thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, tiến độ thực hiện các dự án sản xuất nguyên
liệu, phụ liệu, phát triển công nghiệp phụ trợ còn chậm. Tình trạng thiếu hụt lao động, nhất là
lao động có tay nghề cao, có xu hướng gia tăng. Ngoài ra, chi phí nhân công có xu hướng tăng
nhanh cũng khiến hàng hóa sản xuất tại Việt Nam mất dần lợi thế giá nhân công rẻ; năng
lượng cho sản xuất như than, điện, chưa phát triển kịp đáp ứng nhu cầu phát triển các ngành
kinh tế khác
- Việt Nam vẫn phải mất nhiều năm để trở thành một nền kinh tế xuất khẩu trong điều kiện
phải cạnh tranh khốc liệt với người hàng xóm Trung Quốc.Đe làm được điều này, các doanh
nghiệp Việt Nam bắt đầu hướng tới những thị trường khó tính với những sản phẩm đặc thù
thay vì cạnh tranh về giá cũng như nhân công lao động với đối thủ lớn Trung

Quốc
-Nhiều nhóm hàng đã chạm ngưỡng, khó tăng tiếp. Bên cạnh đó, xuất khẩu Việt Nam cũng
phải sẽ đối mặt thêm với nhiều rào cản thương mại mới quá trình phục hồi của kinh tế thế
giới chứa đựng nhiều rủi ro, khó lường. Những vấn đề hậu khủng hoảng như bảo hộ mậu dịch,
biến động giá cả, lạm phát, khan hiếm nguyên liệu, năng lượng có thể xảy ra, sẽ tác động
xấu đến phát triển kinh tế các nước, nhất là các nước đang phát triển như nước ta.
- Hoạt động của hệ thống tài chính của Việt Nam còn nhiều rủi ro, lạm phát có nguy cơ tăng
lên cũng như đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Sức cạnh tranh của cả nền kinh tế và của
các doanh nghiệp còn ở mức thấp. Bên cạnh đó, tình hình thiên tai, dịch bệnh có thể còn diễn
biến phức tạp nhiều cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO đến thời hạn thực thi, nhất là
cam kết về mở cửa lĩnh vục dịch vụ, tài chính, bán lẻ, tạo ra thách thức không nhỏ đối với các
doanh nghiệp Việt Nam
-Chiến lược hướng mạnh ra xuất khẩu một cách quá mức có thể đưa tới những khó khăn
nghiêm trọng một khi thị trường ngoài nước chao đảo, do đó có thể sẽ diễn ra xu thế cơ cấu lại
thị trường theo hướng cân bằng hơn giữa thị trường trong nước và ngoài nước, nhất là ở các
nền kinh tế có dung lượng thị trường nội địa lớn.
2) Cán cân thương mại ở Việt Nam hiện nay-Thực trạng và phân tích
2.1) Nhìn lại năm 2010
Hoạt động xuất khẩu năm 2010 với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 71,63 tỷ USD, tăng
25,5% so với mức thực hiện năm 2009, đồng thời là mức tăng trưởng cao, vượt xa chỉ tiêu
Quốc hội đề ra.
Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu 32,8 tỷ USD giá trị hàng hóa (không kể dầu thô),
còn DN có von nước ngoài đạt kim ngạch 33,8 tỷ USD. Cơ cấu ngành hàng xuất khẩu đã
có sự chuyển dịch từng bước, theo hướng tích cực trong bối cảnh giá cả trong khu vực và
trên thị trường quốc tế tăng nhanh. Phần lớn các loại hàng xuất khấu chủ lực của ta đều
có mức tăng trưởng cao, như gạo, dệt may, da giày, đồ go, máy tính
Một số mặt hàng xuất khẩu tiêu biểu 2010
2010 Việt Nam có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD cho thấy, năng lực
cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu đã đuợc nâng lên rõ rệt.
Hàng dệt may đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu (đạt 11 tỷ USD, tăng 21,3% so với năm truớc

và chiếm 15,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nuớc), vuợt 8% so với mục tiêu xuất khẩu
đặt ra từ đầu năm.
về đích thứ hai là mặt hàng da giầy, thuỷ sản. Tuy bị áp thuế bán phá giá ở một số thị
truờng, đặc biệt là thuỷ sản còn chịu sự kiểm tra khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm, song
do chúng ta chủ động đầu tu chiều sâu, tạo mặt hàng mới và mở rộng thị truờng nên kim
ngạch xuất khẩu của hai mặt hàng trên đều đạt trên 4,9 tỷ USD, lần luợt vuợt 13,4% và 8,1%
mục tiêu xuất khẩu đặt ra từ đầu năm. Tiếp theo, mặt hàng gạo đạt kim ngạch hơn 3 tỷ USD
và vuợt 8,6% so với mục tiêu đầu năm.
Đặc biệt, so với năm 2009, chúng ta có thêm 5 mặt hàng mới có kim ngạch xuất khẩu trên
1 tỷ USD gồm hạt điều, xăng dầu các loại, sản phẩm chất dẻo, dây điện cáp điện và phương
tiện vận tải, đưa tổng số mặt hàng có kim ngạch 1 tỷ USD trở lên là 18 mặt hàng. Bên cạnh
các mặt hàng truyền thống là thế mạnh của Việt Nam nói trên, nhiều mặt hàng xuất khẩu mới
như máy móc thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, hóa chất, sản phẩm hóa chất, sản phẩm
cao su, sản phẩm thủy tinh kim ngạch xuất khẩu đã tăng mạnh, điều này khẳng định chủ
trương phát triển mặt hàng xuất khẩu mới từng bước phát huy hiệu quả trong năm qua, đồng
thời cho thấy năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của nền kinh tế ngày càng được mở rộng.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tiếp tục
xếp thứ hạng cao so với các nước xuất khẩu trên thế giới, có khả năng ảnh hưởng đến thị
trường thế giới như gạo và cà phê (đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu), cao su, hạt tiêu, hạt điều.
Giá xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều tăng do giá thị trường thế giới tăng
mạnh, đồng thời nhò' hàm lượng chế biến trong sản phẩm xuất khẩu được nâng lên. Thị
trường xuất khẩu được mở rộng và toàn bộ các thị trường xuất khẩu đều vượt mục tiêu tăng
trưởng. Cụ thể, xuất khẩu sang Àn Độ tăng 133%, Đài Loan tăng 28%, Hồng Kông tăng 46%,
Hàn Quốc tăng 38%, Trung Quốc tăng 45%.
Trong số 11 mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu chủ yếu, chiếm hơn 83% tổng kim ngạch nhập
khẩu hàng tiêu dùng, thì kim ngạch của 5 mặt hàng tăng khá cao là sữa và sản phẩm từ sữa
tăng 59,5%; rau và một số loại củ, quả tăng 44,9%; dầu mỡ động thực vật tăng 29,6%; đường
Tên hàng Trị giá(đv 1000 đ)
Tỷ lệ phần trăm trong xuất khẩu(%)
Dệt may 11209676 15.5

Thủy sản 5016297 6.9
Dày da 5122259 7
Gạo 3247860 4.5
Cà phê 1851358 2.5
Nguồmtổng cục thống kê
và các loại kẹo đường tăng 105,8%; máy móc thiết bị điện sử dụng trong gia đình tăng 23,9%.
Có thể thấy nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng là do nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng cần
thiết (không phải hàng xa xỉ, cao cấp) tăng mạnh, như đường, sữa, dầu ăn. Những mặt hàng
này trong nước đã sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và cả về chất lượng.
Nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng xa xỉ, cao cấp đã có xu hướng giảm hoặc chỉ tăng nhẹ so
với năm 2009, như nhập khẩu quả giảm 13,4%, đồ uống, rượu giảm 34,7%, ô tô nguyên chiếc
dưới 10 chỗ giảm 7,4%; điện thoại di động tăng nhẹ 2,8% và nước hoa và mỹ phẩm tăng
14,8%
Nhập khẩu nhiều mặt hàng nguyên nhiên vật liệu tăng mạnh về lượng trong thời gian gần đây
cho thấy sản xuất, xuất khẩu đang trên đà tăng trưởng. Tuy nhiên, giá nhập khẩu nhiều mặt
hàng tăng mạnh ảnh hưởng không nhỏ đến đầu vào của sản xuất kinh doanh, trong khi đó giá
hàng hóa xuất khẩu lại tăng không bằng giá nhập khẩu, gây nhiều khó khăn cho DN sản xuất
xuất khẩu. Nhập khẩu nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu (hàng tiêu dùng, ô tô từ 9 chỗ trở
xuống, xe máy) tăng 13%, thấp hơn so với mức tăng truởng chung 18,4%.
2.2) Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu:
a. Nhóm hàng khoáng sản, nhiên liệu:
Thuờng năm chỉ riêng hai mặt hàng dầu thô và than đá đã chiếm gần 20% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nuớc. Sản luợng xuất khẩu dầu thô và than đá tăng truởng không ổn định. Khối
luợng xuất khẩu dầu thô chỉ tăng nhẹ trong những năm đầu của giai đoạn 2001-2007 rồi giảm
dần về sau này. Sở dĩ có sự sụt giảm này là do các mỏ dầu cũ dần cạn kiệt trong khi công tác
thăm dò và mua lại mỏ dầu mới của các nuớc khác không đạt nhiều tiến triển.
Đe tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi truờng, trong những năm tới kim ngạch xuất khẩu các
mặt hàng này sẽ giảm dần. Trong đề án xuất khẩu 2006-2010, Bộ thương mại đã điều chỉnh
mục tiêu xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu xuống còn 9,6% vào năm 2010, trong đó giá trị
xuất khẩu dầu thô còn 6,1 tỷ USD và than đá còn 325 triệu USD.

b. Nhóm hàng nông lâm thủy sản
Đây là những mặt hàng chịu nhiều tác động của thị trường thế giới. Trong những năm 2001-
2003, do ảnh hưởng của kinh tế thế giới suy giảm, nhu cầu về nông sản, thủy sản giảm làm
giảm giá hàng loạt mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu tăng rất
chậm trong giai đoạn này. Những năm còn lại do tình hình kinh tế thế giới phục hồi và chi phí
sản xuất gia tăng; giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã tăng nhanh. Trong năm 2007, khối
lượng xuất khẩu các mặt hàng nông sản có phần giảm hoặc tăng không nhiều. Tuy nhiên, giá
trị xuất khẩu lại tăng rất cao so với năm 2006. Nguyên nhân là giá nông sản thế giới đang trên
đà lên giá. Đầu năm 2008, thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng lương thực khi giá hầu hết
các nông sản chính như: bắp, lúa mì, gạo đều tăng gấp 2-3 lần trong vòng chưa đầy hai năm.
*Tóm lại, do đã có quá trình phát triển lâu dài, đã khai thác phần lớn tiềm năng nên hoạt động
xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam những năm qua có xu hướng tăng trưởng chậm
lại về khối lượng, nhưng vẫn gia tăng nhanh về giá trị do giá cả thế giới có xu hướng tăng lên.
Việc gia nhập WTO đã đặt ngành xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trước những thời cơ và thách
thức mới.
Đe các mặt hàng này thực sự trở thành thế mạnh của xuất khẩu Việt Nam, về lâu dài cần phát
triển theo hướng: nâng cao dần chất lượng sản phẩm, gia tăng hàm lượng chế biến, đẩy mạnh
hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu, phát triển hạ tầng pháp lý.
c. Nhóm hàng chế biến:
Đây là nhóm hàng gồm nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: dệt may, giày dép, sản phẩm
cơ khí, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, điện tử, thủ công mỹ nghệ Có thể phân chia các mặt
hàng này thành hai nhóm
+ Hàng chế biến chính: thủ công mỹ nghệ, dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến, hóa phẩm
tiêu dùng, sản phẩm cơ khí - điện, vật liệu xây dựng, sản phẩm gỗ.
+ Hàng chế biến cao: điện tử và linh kiện máy tính, phần mềm.
(1) Dệt may, da giày:
Tình hình xuất khẩu dệt may, da giày của Việt Nam luôn ổn định. Tốc độ tăng trưởng bình
quân của ngành dệt may là 23%, da giày là 15,3%. Hai ngành này có chung đặc điểm là sử
dụng nhiều lao động, phù họp với lợi thế lao động giá rẻ ở Việt Nam. Những hạn chế của các
ngành này là phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu của nước ngoài (60%-70%), hao phí điện năng

lớn.
(2) Sản phẩm gỗ
Các sản phẩm gỗ gia tăng giá trị xuất khẩu một cách đều đặn, Năm 2004 có tốc độ tăng
trưởng kỉ lục 81%, qua đó đưa gỗ vào nhóm hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Gia nhập
WTO mở ra những thuận lợi và cả khó khăn cho ngành chế biến gỗ xuất khẩu.
(3) Máy tính và linh kiện điện tử:
Ngành xuất khẩu hàng điện tử và linh kiện máy tính đang ngày càng có vai trò quan trọng
trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Neu như không tính năm 2002 xuất khẩu mặt hàng này
giảm đi do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình
quân của mặt hàng này gđạt 29,4%, cao nhất trong số các mặt hàng chủ lực *Tóm lại, vấn đề
nan giải đối vói các sản phẩm chế biến: dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa là
nguồn nguyên, phụ liệu phần lớn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Do vậy, giá trị gia tăng của
sản phẩm xuất khẩu chưa cao, các doanh nghiệp chưa thực sự chủ động trong việc kí kết các
họp đồng. Nhiều sản phẩm chế biến còn mang tính chất gia công
Cùng với quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, trong hơn một thập niên qua,
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có mức tăng trưởng rất cao (trung bình trên
20% mồi năm), trừ năm 2009 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Theo đó, tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng từ 30% năm 1996 lên tới 68,5% năm 2010, trong khi tỷ
lệ nhập khẩu/GDP còn tăng mạnh hơn, từ 45,6% lên đến 80% trong cùng thời kỳ, khiến tổng
giá trị thương mại/GDP đã đạt 150% - thể hiện độ mở khá lớn của nền kinh tế. Có thể nói,
chiến lược hướng về xuất khẩu bắt đầu từ giữa thập kỷ 1990 đã có những đóng góp đáng kể
đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong nhiều năm.
Tuy nhiên, do tốc độ tăng nhập khẩu nhanh hơn nhiều so với xuất khẩu, cán cân thương mại
ngày càng thâm hụt, và đặc biệt trở nên nghiêm trọng kể từ năm 2007 - khi Việt Nam chính
thức trở thành thành viên chính thức của WTO. Trung bình giai đoạn 2001-2010, nhập siêu
chiếm đến 12% GDP, và tăng lên gần 17% giai đoạn 2007-2010. ^
Nhập siêu tăng cao và dai dẳng trong thời gian dài mà không có bất kỳ dấu hiệu cải thiện
nào khiến thị trường ngoại hối luôn trong trạng thái căng thẳng, tiền đồng luôn đối diện sức ép
giảm giá, cán cân thanh toán không ổn định, tình trạng đô la hóa gia tăng, Điều này, cùng
với một số diễn biến vĩ mô bất lợi khác, đã kích hoạt cho những bất ổn kinh tế vĩ mô kéo dài

trong một vài năm gần đây.
Hình 1: Tỷ trọng thương mại quốc tế trên GDP
Nguồn: GSO và tính toán của TVSC
2.3) Điều hành tỷ giá, tỷ giá thực và nhập siêu
Bên cạnh nguyên nhân cốt lõi liên quan đến mô hình tăng truởng kinh tế dựa vào đầu tu, đặc
biệt là đầu tu công hiệu quả chua cao, khiến chênh lệch tỷ lệ đầu tu và tiết kiệm trong nuớc
ngày càng nới lỏng, thì điều hành tỷ giá, tác động đến tỷ giá thực - năng lực cạnh tranh về giá
của hàng hóa trong nuớc, vẫn đuợc xem là một nguyên nhân khiến thâm hụt cán cân thuơng
mại quốc tế gia tăng.
Cách thức điều hành tỷ giá truớc năm 2010 của Việt Nam - giữ nguyên tỷ giá liên ngân hàng
một thời gian dài và đột ngột điều chỉnh với mức độ không lớn - đã khiến tiền đồng luôn bị
định giá cao.
20000
1500
O O O « H i - H i - t C ' J C M r « i c 0cr>r0* T ^ f ^ f ư ì ư " » L n \ D v ^ c D r ^ r ^ r ^00 00 00ơ ì ơ ì ơ ì O O O * - i
Ọ O Ọ Ọ Ọ Ọ Ọ Ọ Q Ọ Ọ Ọ Ò Ọ Ộ Ọ Ọ O Ọ Ọ Ọ Ọ O Ọ Õ Ọ Õ Ọ Ọ Ọ ^ r H ^ ^
o ọ o o o o ọ o o o o o o o ọ o o o ọ o ọ o o o o o o o o o o o o o
C ' a c N r v j r ' J O ' j i N C M C ' j r ' i o i r v j r s r ' i r M r ' - a r ' j C ' j c N O ' J c ^ C ' j r ^ r ' i P ^ r ' i r a r a r M r M r v i r N r ^ C ' J O J rH ư*> ƠI H Ưì Oì *“H
¿J"J ơ“s T-» l/> Ơ“» T-* U*1 rH LH ơì «H ‘-T) Oì TH ư"> O'* H ư"> ơ“' TH U"Í ƠI r-i U“J ơì t-H
Hình 2: Tỷ giả danh nghĩa, tỷ giả thực và nhập siêu
Nguồn: SB V, GSO và tính toán của TVSC
Hình 2 (tính tỷ giá thực so với thời điểm đầu năm 2000) cho thấy, trước năm 2004, tỷ giá
tương đối ổn định, lạm phát trong nước thấp, tỷ giá thực tăng và bám sát tỷ giá danh nghĩa.
Tuy nhiên, từ năm 2007, khi lạm phát gia tăng, việc điều chỉnh tỷ giá ít linh hoạt đã khiến tỷ
giá thực bắt đầu rời xa dần tỷ giá chính thức, và tiền đồng đã bị định giá thực cao.
Một số quan điểm cho rằng, việc điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa chưa đủ tầm, khiến tỷ giá thực
giảm, làm hàng hóa Việt Nam giảm sút tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế, và tác động
tiêu cực đến thâm hụt thương mại.
Tuy nhiên, sau giai đoạn giảm mạnh trong năm 2007, tỷ giá thực hầu như rất ít biến động
kể từ đầu năm 2008, nhưng nhập siêu lại biến động rất mạnh trong cùng thời kỳ.

Điều này dẫn đến những nghi ngờ rằng ở Việt Nam, liệu việc thay đổi mạnh tỷ giá danh
nghĩa (như lần điều chỉnh ngày 11/2 vừa qua), làm tăng tỷ giá thực, có cải thiện được cán cân
thương mại hay không?
2.4) Định lượng tác động của điều chỉnh tỷ giá đến xuất nhập khẩu và cán cân
thương mại
Ket quả đầu tiên của các mô hình là ước lượng phần trăm thay đổi gộp của giá trị xuất
khẩu và nhập khẩu theo 1% thay đổi của tỷ giá (hệ số co giãn) ở các tháng sau khi tỷ giá
được điều chỉnh tăng (Hình 3)
Theo lý thuyết, khi phá giá đồng nội tệ, giá hàng nhập khẩu sẽ giảm tính cạnh tranh dẫn
đến “ảnh hưởng sản lượng” (volume effect) - số lượng hàng nhập khẩu sẽ giảm xuống. Tuy
nhiên, phá giá còn dẫn đến “ảnh hưởng giá hàng nhập khẩu” (import value effect) - giá mỗi
đơn vị hàng nhập khẩu sẽ gia tăng.
Hình 3 cho thấy khi tỷ giá bị điều chỉnh tăng 1 %, nhập khẩu trong tháng đầu tiên giảm
không đáng kể (-0,04%), và quá trình giảm sẽ kết thúc trong vòng 8 tháng - khoảng thời
gian “ảnh huởng sản luợng” chiếm ưu thế so với “ảnh hưởng giá hàng nhập khẩu”.
Tuy nhiên, từ tháng thứ 9, nhập khẩu bắt đầu tăng do tác động của tỷ giá, và tính gộp sau 1
năm, giá trị nhập khẩu được ước lượng tăng 0.06%.
Hình 3: Tác động gộp của điều chỉnh l%tỷ giả đến xuất nhập khấu
Nguồn: Ket quả các mô hình của TVSC
Kim ngạch nhập khẩu không giảm sau khi điều chỉnh tỷ giá được giải thích bởi đặc điểm cơ
cấu hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam. Phần lớn hàng nhập khẩu là máy móc thiết bị và
nguyên nhiên vật liệu, chiếm đến khoảng 85-90% giá trị nhập hàng năm trong suốt giai đoạn
1995-2010, để phục vụ cho quá trinh sản xuất trong nước.
Neu ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế thì cơ cấu này có thể được cho là họp lý, nhưng việc
cơ cấu này không thay đổi và duy trì quá lâu lại bộc lộ yếu điểm quan trọng là Việt Nam
không phát triển được các ngành công nghiệp phụ trợ. Vì vậy, nền kinh tế vẫn bị lệ thuộc quá
nhiều vào nhóm hàng đầu vào nhập khẩu, dễ tổn thương trước những cú sốc bên ngoài, và
khiến nhập khẩu khó giảm.
Giá trị xuất khẩu, theo mô hình, cũng sẽ không được cải thiện sau khi điều chỉnh tăng tỷ
giá. Theo lý thuyết, tỷ giá tăng có thể khiến giá hàng hóa Việt Nam cạnh tranh hơn và vì thế

tăng được xuất khẩu. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng ở 3 tháng đầu tiên, tác động tiêu cực của
điều chỉnh tỷ giá bắt đầu thể hiện từ tháng thứ 4 và các tháng tiếp theo.
Sau 1 năm điều chỉnh tăng tỷ giá 1%, giá trị xuất khẩu được ước lượng sẽ giảm 0,15%, do
đó, điều chỉnh tang tỷ giá chưa chắc đã cải thiện cán cân thương mại.Xuất khẩu không tăng
như kỳ vọng được giải thích bởi phần lớn hàng hóa xuất khẩu chính của Việt Nam đều sử
dụng tỷ trọng các yếu tố đầu vào nhập khẩu lớn (ví dụ các ngành lương thực - nhập khẩu
phân bón, thuốc trừ sâu; dệt may - nhập khẩu bông vải sợi, ngành điện tử - nhập khẩu máy
móc và linh kiện, ).
2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 22 24
Sau khi “ảnh hưởng giá hàng nhập khẩu” lấn át, chi phí đầu vào của các ngành sản xuất
hàng xuất khẩu sẽ gia tăng, giá đầu ra tăng theo và trung hòa lại tác động của giá hàng hóa
nội địa cạnh tranh hon lúc ban đầu.
Hình 4 cho thấy tác động gộp của cú sốc dương tỷ giá đến cán cân thương mại chỉ tích cực
trong 8 tháng, nhưng tính chung cho cả 1 năm, cán cân thương mại không được cải thiện,
thậm chí theo chiều hướng tăng nhập siêu. Cán cân thương mại gần như quay trở lại trạng
thái ban đầu sau 14 tháng điều chỉnh tỷ giá. Với những phản ứng của giá trị xuất khẩu và
nhập khẩu do điều chỉnh tỷ giá như phân tích ở trên, diễn biến này của cán cân thương mại là
hoàn toàn có thể hiểu được.
.12 .
10 .
08 .
06 .
04 .
02 .
00
02
04
Hình 4: Tác động gộp của củ sốc dương tỷ giả đến cán cân thương mại
Nguồn: Ket quả các mô hình của TVSC
Hình 5:Cán cân thương mại của Việt Nam theo các khu vực kinh tế

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009
Từ sau giai đoạn mở cửa kinh tế, thương mại của Việt Nam tăng lên rất nhanh. Tính trung
bình từ năm 1990 đến 2009, xuất khẩu của Việt Nam tăng trung bình hàng năm 18.7%/năm,
trong khi đó nhập khẩu tăng trung bình 20.1%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu từ mức chỉ
bằng 76% GDP vào năm 1990 tăng lên 162% GDP vào năm 2008. Thâm hụt thương mại theo
đó cũng ngày càng lớn, từ mức 0.6 tỷ USD năm 1990, và lên đỉnh điểm vào năm 2008 là
17.51 tỷ USD.
Sự tăng mạnh của kim ngạch xuất nhập khẩu làm cho nền kinh tế Việt Nam có độ mở ngày
càng cao. Tuy nhiên, tiềm ẩn sau đó là những rủi ro. Tổng thâm hụt thương mại của Việt
Nam từ năm 1990 đến 2009 đã lên tới 84 tỷ USD, tương đương với GDP của năm 2007.
Thâm hụt thương mại/GDP liên tục tăng cao trong những năm gần đây và lên tới hơn 20%
GDP vào năm 2008. Đây là mức cao vượt xa trung bình của các nước trên thế giới.
về cơ cấu nhập khẩu, phần lớn các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam là máy móc thiết bị và
nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng chỉ chiếm chưa đến 10%. Từ năm 2000 đến nay, nhập khẩu
mặt hàng tiêu dùng chỉ chiếm 6-8%, nguyên nhiên vật liệu chiếm 60-67%, còn lại là máy móc
thiết bị.
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế giá trị
gia tăng thấp chiếm một tỷ lệ khá lớn. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản (dầu thô và khoáng
sản khác) từ năm 2000 đến nay vẫn luôn chiếm từ 30 - 40%. Những mặt hàng liên quan đến
nông nghiệp sơ chế như nông lâm thủy hải sản chiếm trên 15-17%. Những mặt hàng chế biến
chiếm tỷ trọng 43-50%, trong đó một tỷ trọng khá lớn là gia công may mặc, giầy da. Hơn
70% nguyên liệu gia công xuất khẩu là từ nhập khẩu và giá trị gia tăng từ mặt hàng này tương
đối thấp. Những mặt hàng có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao chiếm một tỷ lệ
— EU — Mỹ ASEAN ĩóngsó NhãĩBan^— Trung Quóc
khá thấp trong mặt hàng xuất khẩu.
Trong một số năm gần đây tỷ trọng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm hơn 90% tổng nhập
siêu của Việt Nam. Tuy vậy, đây mới chỉ là con số chính thức. Neu thống kê cả hàng hóa
nhập lậu qua biên giới và bằng con đường tiểu ngạch thì con số này có thể còn cao hơn. Điều
đáng quan ngại là tốc độ gia tăng nhập khẩu từ Trung Quốc ngày càng nhanh, trong khi xuất
khẩu sang nước này hầu như không thay đổi.

Hình 6
2.5) Quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại
về mặt lý thuyết như đã trình bày ở trên, giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại có quan
hệ đồng biến với nhau. Biểu đồ sau thể hiện khá rõ mối quan hệ này.
Với số liệu theo năm, chúng ta thấy giữa tỷ lệ X/M có một mối quan hệ khá rõ ràng, trừ giai
đoạn từ 2002 đến 2004 thì mối quan hệ này đã bị suy yếu.
Trường họp khác, xét dữ liệu theo quý từ năm 1999 đến 2009 thì chúng ta thấy mối quan hệ
này có ý nghĩa hơn khi đường xu thế có giá trị R2=0.52. Như vậy, biểu đồ khá trực quan này
cho thấy giữa tỷ giá hối đoái thực và cán cân thương mại có một mối quan hệ đồng biến.
Thâm hụt thương giữa Việt Nam với một quôc gia năm 2009
Pháp
Triệu
USD
(56) 1
Anh
H 934
Ma-lai-xi-a
(823) ■
Hàn Guổc
(4.912) ^■
Thái Lan
(3,248) ^■
Đức -
1 298
Đài Loan
(5,132) ^ã
Xin-ga-po
(2,172)
Ô-xtrày-H-a
(n532)

Tri
1 1
'ầri ểii
1
Ár
-
M 1.227
1 1 lll l«J LIIIỰL
My

Nhật Đan
(1.176) B
(12,000) (7,000) (2,000) 3,000 8,000
Nguôn: TCTK, IMF, FED và tính toán của Vietstock
Giai đoạn 1992 đến 2009 (số liệu nãm) Giai đoạn 1999 đến 2009 (số liệu quý)
». ». 9 » . » » »- 9 ' o o Õ o Ỏ Ó o o Ó Ò
» • » • » » • » ¿ . » » . 0 0 0 0 0 0 0
0 0 0
Nguồn: TCTK, IMF, vả tính toán của Vỉetstock

M» ♦ ♦
IM ậ
♦* u
♦ ♦
1*0
^ *

• M
1* . 4
%

+
V
OSÍMi* 0.S66
•00 IH «0.517
í ♦
•K

ệH _
IM
lết 11» 0 n IM Ott IM
IM IM 1
• 6f l £ R —lmNf|8RíKl
Nguốn:TCTK, IMF, vả tính toán của Vietstock
Quan hệ giữa tỷ giá thực và tỷ lệ xuát kháu/nhập khâu
Biểu đồ 7:quan hệ giữa tỷ giá thực và tỉ lệ xuất khẩu/nhập khẩu
Các kết quả hồi quy bằng mô hình kinh tế luợng cũng cho thấy có mối quan hệ giữa tỷ giá
thực và cán cân thuơng mại. Điều này cho thấy việc phá giá đồng tiền đóng góp vào việc
giảm nhập siêu.
Thâm hụt thương mại cao gây nên rất nhiều rủi ro cho nền kinh tế và gây sức ép mạnh lên tỷ
giá. Do vậy, chính sách điều hành tỷ giá không những có vài trò trong vấn đề ổn định thị
trường tiền tệ mà còn đóng vai trò trong việc kiềm chế nhập siêu.
Không ít ý kiến cho rằng cần phải phá giá đồng nội tệ để giải quyết vấn đề nhập siêu của Việt
Nam. Tuy nhiên, phân tích trên đã chỉ ra rằng dù tỷ giá và nhập siêu có mối quan hệ với nhau,
nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác. Đe giảm nhập siêu cần một bài toán
tổng thể hơn chứ không phải là một giải pháp riêng lẻ.
III. Biện pháp
l) Biện pháp ngắn hạn và dài hạn
Khó khăn về cán cân thương mại ở Việt Nam chủ yếu có nguồn gốc từ cơ cấu kinh tế
(là
hệ quả của cơ cấu đầu tư) và các điều kiện kinh tế vĩ mô. Vì vậy, tái cấu trúc nền kinh tế,

chuyển đổi mô hình tăng trưởng và sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô chính là các giải pháp
phù hợp nhất để đối phó với tình trạng hiện nay hơn là các công cụ chính sách thương mại,
mặc dù công cụ chính sách thương mại có thể dùng để giải quyết khó khăn
của một số ngành nghề cụ thể. Các biện pháp được đề xuất dưới đây để đối phó với khó khăn
cán cân thanh toán được phân loại theo tính chất của vấn đề bất cập là ngắn hạn hay dài hạn.
Đe xuất biện pháp ngắn hạn
Công cụ kinh tế vĩ mô có thể sử dụng để điều chỉnh sự mất cân đối bên ngoài thông qua 2
kênh chính, đó là áp dụng chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ:
Thắt chặt tài khoá hoặc tiền tệ có thể sử dụng để giảm tiêu dùng trong nước, từ đó sẽ giúp
giảm nhu cầu đối với hàng nhập khẩu.
-Chính phủ có thể khuyến khích người tiêu dùng thay đổi cơ cấu chi tiêu theo đó ưu tiên tiêu
dùng các mặt hàng trong nước, giảm tiêu dùng nhập khẩu thông qua giảm tỷ giá thực của
đồng nội tệ. Đồng nội tệ giảm giá sẽ có tác dụng làm cho giá các hàng hoá sản xuất trong
nước trở nên rẻ hơn so với hàng hoá nước ngoài -Một cách khác để giải quyết bất cập cán cân
tài khoản vãng lai đó là giảm nhu cầu nhập khẩu thông qua tăng thuế nhập khẩu. Trong khung
khổ WTO, thành viên được phép tăng thuế nhập khẩu lên tói mức cam kết trần. Trong trường
họp của Việt Nam, dư địa thuế suất (phần chênh lệch giữa thuế suất cam kết trần với
Biểu đồ 8: Dư địa thuế suất nhập khẩu trong một số ngành trong năm 2009
Bound Rate
■ Average Applied
I I I
I
I I I I . . 1 . 1 - I I
I I . ■ I I
Nguồn: WTO/ITC (2008) số liệu Thuế Nhập khẩu Thế giói 2008, Geneva
thuế suất áp dụng) là tương đối đáng kể và có thể sử dụng như một chiếc phanh để hãm bớt
đà gia tăng nhập khẩu. Biểu đồ 8 cho thấy còn dư địa thuế suất nhập khẩu trong nhiều ngành
khác nhau. Không gian chính sách còn tương đối rộng với Việt Nam trong các ngành thiết bị
vận tải, đồ uồng và thuốc lá và thực phẩm chế biến. Việt Nam cũng có thể vận dụng các biện
pháp hạn chế nhập khẩu trên cơ sở khó khăn về cán cân thanh toán theo các điều kiện chặt

*: Clothing already exceeds the final bound rate
chẽ. Tuy nhiên, việc áp dụng thuế suất cao hơn trong khung cam kết đuợc phép hoặc áp dụng
các biện pháp hạn chế nhập khẩu trên cơ sở điều kiện khó khăn về cán cân thanh toán sẽ đi
kèm với các ảnh huởng tiêu cực lâu dài cho Việt Nam. Tác động của các lựa chọn chính sách
này bao gồm
(i) ảnhhuởng tới kết quả xuất khẩu vì xuất khẩu phụ thuộc khá chặt chẽ vào nhập khẩu;
(ii) làmtăng cán cân thương mại nếu hệ số co giãn của nhập khẩu nhỏ hơn
(iii) ảnh hưởng đếnlợi ích của người tiêu dùng vì chi phí tiêu dùng tăng lên;
(iv) làm môi trường kinh doanhở Việt Nam bị giảm khả năng đoán định do thay đổi chính
sách, và có thể ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài;
(v) giảm niềm tin của các nhà đầu tư đặt vào Việt Nam nếu việc áp dụng các biện pháp bảo
hộ bị các nhà đầu tư coi là tín hiệu của khủng hoảng.
Ngoài ra, sử dụng phụ thu nhập khẩu cũng có tác dụng giống như phá giá đồng tiền trong
cắt giảm nhập khẩu, nhưng biện pháp này sẽ không đạt được lợi ích cho hoạt động xuất
khẩu.
Đề xuất biện pháp dài hạn
Đe giải quyết bất cập mang tính cơ cấu trong dài hạn, báo cáo khuyến nghị Việt Nam tập
trung vào nâng cao triển vọng cán cân thanh toán của mình dựa trên các gợi ý sau đây: -Đánh
giá kỹ lưỡng lợi ích từ các FTA mà Việt Nam dự kiến sẽ ký với các nước khác để đảm bảo
thu được lợi ích thực sự từ các FTA này và đảm bảo không làm gia tăng đột biến nhập khẩu
thuần. Điều này là vô cùng quan trọng đối với các FTA như ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-
Hàn Quốc (AKFTA) và ASEAN-Nhật Bản (AJFTA), nhất là các FTA mà Việt Nam dự kiến
sẽ tham gia.
-Tìm cách nâng cao giá trị gia tăng trong hoạt động sản xuất ở Việt Nam và đa dạng
hoá diện mặt hàng xuất khẩu nhằm giảm tác động tiêu cực từ biến động giá hàng hoá
và thay đổi nhu cầu trên thị trường thế giói.
-Giải quyết sự mất cân đối kinh tế vĩ mô bằng cách điều chỉnh mức thâm hụt ngân
sách và củng cố chính sách tiền tệ vũng mạnh.
-Tiếp tục củng cố các dịch vụ hỗ trợ trong nước, nâng cao các biện pháp tạo thuận li
cho thương mại, phát triển hơn nữa mạng lưới vận tải và dịch vụ hỗ trợ và tiếp tục cải

cách thể chế và thủ tục hành chính để giảm chi phí giao dịch nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hóa xuất khẩu.
- Duy trì môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh của
Việt Nam.
-Nâng cao năng lực vốn con người ở Việt Nam thông qua đầu tư giáo dục vì nguồn vốn con
người là yếu tố then chốt để thúc đẩy các hoạt động có giá trị gia tăng cao ở Việt Nam.
- Giảm thiểu tình trạng buôn lậu qua đường biên giói của Việt Nam và nâng cao công tác
giám sát, quản lý chất lượng hàng hoá nhập khẩu cũng như theo dõi sát sao hoạt động phá
giá.
-Giám sát và vận động việc xoá bỏ các biện pháp bảo hộ hoặc hình thức bảo hộ trá hình do
các nước G-20 áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ Việt Namló.
2) Một số biện pháp cải thiện thếu xuất khẩu và thếu nhập khẩu - Đối vói thuế xuất
khẩu:
Đe đảm bảo khuyến khích tối đa hoạt động xuất khẩu, chỉ thực hiện thu thuế xuất khẩu đối
với các mặt hàng xuất khẩu mà VN đã có thị trường ổn định hoặc là nguyên liệu thô cần cho
sản xuất trong nước như quặng thô, phế liệu kim loại cần điều chỉnh theo hướng giảm và
tiến tới bỏ thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng như may mặc, da giày, nông sản chế biến
để khuyến khích xuất khẩu.
- Thuế nhập khẩu:
(1) giảm bớt số mức thuế nhập khẩu và mức thuế cao nhất: hiện nay nước ta có 18 mức thuế
nhập khẩu, mức thuế cao nhất là 60%. Đe phù hợp với yêu cầu hội nhập ta phải giảm dần
mức thuế cao nhất và giảm số lượng mức thuế, về lâu dài, mức thuế phù hợp với yêu cầu
AFTA là 0 - 5%, nhưng trước mắt ta phải giảm dần, song đối với các mặt hàng mà nước ta
không có tiềm năng lợi thế và chưa có khả năng sản xuất trong những năm sắp tới, những mặt
hàng là nguyên liệu vật tư quan trọng và chủ yếu cho sản xuất các ngành có thế mạnh cạnh
tranh và xuất khẩu thì cần xây dựng mức thuế nhập khẩu thấp hơn mức bảo hộ cấp I. Trong
tương lai, biểu thuế nhập khẩu hoàn thiện là 8 mức 0%, 3%, 5%, 10%, 20%, 30%, 40% và
50%. Đồng thời mức thuế cao nhất là 60% cũng được giảm xuống còn 50%.
(2) cần xác định rõ mức thuế nhập khẩu tạm thời cho các loại hàng hóa đặc biệt: trong luật
thuế hiện hành chúng ta chưa có quy định về mức thuế tạm thời đối với một số loại hàng nhập

khẩu mà giá bán của nước xuất khẩu quá thấp so với giá thành của hàng hóa nhằm gây rối
hoặc có tính chất đe dọa sự phát triển sản xuất trong nước. Vì vậy cần phải có quy định về
thuế suất tạm thời nhằm chống lại tình trạng bán phá giá, hoặc hộ giá để nhằm cạnh tranh
không lành mạnh.
Đây là những biện pháp đối phó với những hành động cạnh tranh không lành mạnh trong
thương mại quốc tế được nhiều nước áp dụng.
- Cần rà soát biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để phát hiện những điều bất họp lý, trên cơ
sơ đó hiệu chỉnh danh mục, mức thuế xuất khẩu nhập khẩu cho phù hợp, chuẩn xác nhằm hạn
chế việc áp dụng sai thuế suất.
- Tiến hành thực hiện Hiệp định xác định trị giá hải quan theo WTO. Giá tính thuế nhập khẩu
phải dựa trên cơ sơ mức giá trung bình trên thị trường thế giới hoặc mức giá được ghi trong
họp đồng nhập khẩu.
- Tăng cường bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ nhận thức, khả năng vận dụng và tổ chức
thực hiện luật pháp của các cán bộ ngành thuế và ngành hải quan. Bên cạnh các biện pháp
giáo dục, kỷ luật hành chính, cần chú ý tới việc gắn trách nhiệm với lợi ích vật chất đối với
các cán bộ này. cần đổi mới, trang bị
phương tiện làm việc của đội ngũ tuần tra chống buôn lậu trốn thuế. Cải tiến quy trình thu
thuế xuất nhập khẩu, góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu họp lý phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
3) Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ
Bên cạnh những biện pháp ngắn hạn và dài hạn một điều cần lưu ỷ đã nêu ở trên đó là đặc
điếm cơ cẩu hàng hóa nhập khau của Việt Nam. Phần lớn hàng nhập khâu là máy móc thiết
bị và nguyên nhiên vật liệu, chiếm đến khoảng 85-90% giá trị nhập hàng năm trong suốt giai
đoạn 1995-2010, đê phục vụ cho quá trinh sản xuất trong nước và Tỷ lệ nhập khấu là cẩu
phần trong xuất khau còn rất cao, chiếm khoảng 2/3 giá xuất xưởng dân đến tỷ lệ nhập khâu
trong sản phấm xuất khâu ở mức khá cao tạo ra thực tế là nếu xuất khâu muốn tăng lên thì
nhất thiết nhập khâu sẽ tảng.
Nguyên nhân được giải thích ở đây là nếu ở giai đoạn đầu phát triên kinh tế thì cơ cẩu này
có thế được cho là hợp lý, nhưng việc cơ cẩu này không thay đoi và duy trì quá lâu lại bộc lộ
yếu điếm quan trọng là Việt Nam không phát triên được các ngành công nghiệp phụ trợ. Vì

vậy, nền kinh tế vân bị lệ thuộc quá nhiều vào nhóm hàng đầu vào nhập khấu, dê ton thương
trước những cú sốc bên ngoài, và khiến nhập khâu khó giảm.
Một số giải pháp thúc đẩy phát triển ngành CNPT Việt Nam
Đe có thể tạo ra những sự thay đổi lớn,phát triển mạnh mẽ đối với CNPT ở nước ta hiện
nay thì giữa các chủ thể SXKD với nhà nước cần có sự hợp tác và thực hiện đồng bộ các
giải pháp tổng thể.
về phía nhà nước:
Hiện nay trong hệ thống luật pháp nước ta vẫn chưa có định nghĩa về ngành CNPT, điều
đó dẫn đến việc trong các quy định pháp quy không hề có chính sách khuyến khích đầu tư và
phát triển ngành CNPT. Bởi vậy vấn đề đầu tiên đặt ra là Chính phủ cần phải xây dựng khái
niệm CNPT trong hệ thống luật pháp. Hơn nữa thì Chính phủ cũng cần phải nhận diện lại vấn
đề và tham gia tích cực vào cuộc chơi này hơn nữa bằng cách lập ra một cơ quan đầu mối để
mối lái cho các DN cung cấp chi tiết linh kiện. Trên thực tế, nước láng giềng Thái Lan đã làm
rất tốt việc này trong thời kỳ CNH của họ. Họ đã có một cơ quan nhà nước luôn theo dõi việc
hỗ trợ DN vừa và nhỏ để "chui" vào các hãng chính. Trong khi ở nước ta thì vẫn chưa có một
cơ quan nào phụ trách công việc này.
Ngoài ra các cơ quan chính sách phải xây dựng và công khai chiến lược, quy hoạch đối với
CNPT. Đe tận dụng hiệu quả các nguồn lực còn hạn hẹp. cần có các chính sách xác định rõ
các lĩnh vực cần được ưu tiên để phát triển CNPT. Chẳng hạn như hiện nay các lĩnh vực như
cán thép, đúc, xử lý nhiệt và chế tạo là những lĩnh vực còn tương đối lạc hậu, nên có thể tập
trung phát triển CNPT trong những lĩnh vực này.
Một vấn đề quan trọng khác theo nhận định của các chuyên gia kinh tế nước ngoài, thì Việt
Nam cần có những điều chỉnh với các DNNN vì đây là những DN đã tồn tại rất lâu, cần phải
tận dụng, định hướng sản xuất theo xu hướng chuyên môn hóa, tập trung vào một ngành. Mặt
khác, một số ngành thuộc CNPT cần vốn đầu tư rất lớn, không phải DN tư nhân nào cũng làm
được, bởi vậy công việc này cần được thúc đẩy nhanh chóng hơn.
Đầu tư vốn phát triển cho CNPT.
Hiện cả nước có khoảng 30 ngành kinh tế kỹ thuật cần đến CNPT, trong đó có một số
ngành chủ yếu như dệt may, da giày, cơ khí lắp ráp, điện tử-tin học CNPT đòi hỏi có sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Phía Nhà nước nên đầu tư vào CNPT đối vói những

ngành quan trọng cần chi phối, những ngành công nghệ cao, những ngành tạo ra nhiều công
ăn việc làm cho xã hội Các DNNN cũng có thể liên doanh liên kết để thành lập các DN vệ
tinh, sản suất sản phẩm phụ trợ phục vụ cho bản thân DN và cho xã hội.
Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, hỗ trợ về thuế và về thông tin và sự họp tác quốc tế ở bình diện quốc
gia. Đặc biệt cần phải nâng cao khả năng cấp tín dụng cho DN đầu tư CNPT, đồng thòi với
nó là đưa ra những ưu đãi về chính sách kết hợp giữa tín dụng và chính sách hỗ trợ cho
CNPT, tín dụng ưu đãi kết hợp giữa chế độ bảo đảm tín dụng và bù lãi suất đối với ngành
CNPT.
Một điểm mấu chốt nữa đó là cần có chiến lược vĩ mô trong việc đầu tư vào khoa học công
nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành CNPT. Đây có thể nói là giải pháp quan trọng
nhất trong giai đoạn hiện nay, nâng cao trình độ công nghệ chính là chìa khoá để phát triển
CNPT ở Việt Nam. Bên cạnh việc tiếp thu và nhận chuyển giao công nghệ từ các đối tác, các
nhà đầu tư nước ngoài thì chúng ta phải có chiến lược đầu tư xây dựng các khu công nghệ
cao, công nghệ ứng dụng để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài trên lĩnh
vực điện tử, tin học, lắp ráp Xây dựng các trung tâm đào tạo kinh doanh và công nghệ cũng
như các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật,trung tâm dữ liệu của các DN trong ngành CNPT cho các
DN vừa và nhỏ.
về phía doanh nghiệp
Có thể dễ dàng nhận thấy yếu tố quan trọng trong việc hình thành và thúc đẩy sự phát triển
của ngành CNPT là nhận thức của bản thân các DN về tầm quan trọng của nó đối với việc
nâng cao sức cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam. Mặc dù gần đây, các cơ quan nhà nước
mới bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển CNPT, nhưng các DNNN
(chủ thể chính trong lĩnh vục này) từ trước đến nay lại thường hoạt động theo kiểu trọn gói
(sản xuất từ A đến Z). Do đó, họ hầu như không có khái niệm về ngành CNPT. Khi tham gia
sản xuất từ A đến z, hiệu quả sản xuất của công ty đó sẽ không cao vì cần rất nhiều vốn đầu
tư. Và vì thế vốn đầu tư của họ buộc phải dàn trải Do đó các công ty hoạt động trong ngành
CNPT chỉ nên chọn, tham gia vào một lĩnh vực sản xuất.
Các DN cần đa dạng hoá trong họp tác, liên doanh liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài
nhất là với các DN nhỏ và vừa của Nhật. Đó là những công ty có trình độ kỹ thuật cao và có
bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực này vào Việt Nam để cung ứng các linh kiện, sản phẩm

phụ trợ, tiếp nhận sự chi viện về công nghệ từ nước ngoài. Đây cũng là chính sách cần thiết
để tăng khả năng cạnh tranh của các DN trong nước với những DN của Trung Quốc sẽ đầu tư
vào nước ta trong thòi gian tới. Do vậy chỉ có đa dạng hoá liên doanh liên kết, họp tác đầu tư
thì các DN Việt Nam mới là một mắt xích trong dây chuyền sản xuất toàn cầu.
Từ trước đến nay chúng ta mới quan tâm đến liên doanh thông qua việc góp vốn đầu tư, gia
công sản phẩm đơn giản thì đã đến lúc các DN cần phải coi trọng liên doanh, liên kết dưới
dạng đối tác chiến lược, DN vệ tinh, chuyển nhượng bản quyền, thương hiệu. Trước mắt với
những chi tiết tương đối dễ gia công, chế tạo, các DN Việt Nam có đủ khả năng đảm nhận
được ngay và điều này cũng rất quan trọng bởi việc hỗ trợ cho các DN Việt Nam phát triển
trình độ kỹ thuật của mình, sẵn sàng đón nhận chuyển giao kỹ thuật, sản xuất từ các DN có
vốn nước ngoài là hết sức cần thiết còn việc sản xuất những chi tiết quan trọng, đòi hỏi kỹ
thuật gia công cao ở Việt Nam sẽ do các DN có vốn nước ngoài đảm nhận. Trong tương
laicông việc đó sẽ chuyển sang cho các DN Việt Nam.
4) Một số giải pháp cải thiện cán cân thương mại vói Trung Quốc
Vấn đề cải thiện cán cân thương mại với bạn hàng Trung Quốc(chiếm 90% giá trị nhập
khẩu của Việt Nam).
Trung quốc là đổi tác thương mại lớn nhất của Việt nam với tong kim ngạch xuất nhập
khấu liên tục tăng cao trong nhiều năm qua. Tông kim ngạch mậu dịch hai chiều tăng nhanh,
bình quân khoảng 40%/năm. Năm 2008 con so này đạt 21,659 tỷ USD, năm 2009 đạt 20,751
tỷ USD, hết quỷ I năm 2010 là 5,37 tỷ USD, tăng 37,8% so vỏn cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên
nhập siêu của Việt nam từ thị trường Trung quốc ngày càng lỏm về giá trị, năm 2005 nhập
siêu là 2,82 tỷ USD, năm 2007 là 9,15 tỷ USD, năm 2008 là 11,12 tỷ USD, năm 2009 11,53
tỷ USD, và quỷ I năm 2010 là 2,55 tỷ USD. (Nguồn: Tổng cục thong kê). Mặt khác nhập siêu
từ Trung quốc chiếm phần lớn tống nhập siêu của Việt nam, theo so liệu của bộ công thương
công bo và bảo cáo tổng hợp của tác giả Nguyễn Duy Nghĩa, nguyên Phó Văn phòng bộ
Thương mại cho thấy tỷ lệ nhập siêu từ Trung quốc so với nhập siêu của cả nước đã và đang
duy trì ở mức rất cao, năm 2001 là 18,7 %>, năm 2007 là 73,7%), năm 2008 là 69,8%, năm
2009 là 97,1% và dự đoản năm 2010 là 94,4%). Đây thực sự là những khó khăn của ngoại
thương nước ta, trong khỉ ta luôn xuất siêu với các thị trường như Mỹ, Anh, Đức, úc, song
nhập siêu từ thị trường Trung quốc ngày một tăng và duy trì ở mức cao chưa từng có. Do đó,

muốn hạn chế nhập siêu của Việt nam thì phải có những biện pháp thực sự hiệu quả đê giảm
thâm hụt thương mại với Trung quốc.
Các biện pháp cần thiết để giảm nhập siêu với Trung quốc:
Thứ nhất: Việt nam cần tăng cường quản lý và phân công các cửa khẩu chuyên nhập hàng
Trung quốc, như cách làm mà Trung quốc đã thực hiện với hàng xuất khẩu của Việt nam.
Thứ hai: cần Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hoá, an toàn thực phẩm đối với hàng
nhập từ Trung quốc, bằng cách bố trí đủ lực lượng cán bộ kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập
khẩu từ Trung quốc, đồng thời đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá theo tiêu chuẩn
quốc tế.
Thứ ba: cần tăng cường công tác quản lý chống nhập lậu, buôn lậu tại các vùng biên giới giáp
với Trung quốc.
Thứ tư: cần thực hiện chính sách tỷ giá, tiền tệ phù họp với tình hình thực tế của Việt nam.
Cơ chế điều hành tỷ giá của chúng ta không theo tỷ giá thả nổi, không theo tỷ giá cố định,
chúng ta phải điều hành tỷ giá linh hoạt, dựa trên quan hệ cung cầu và có sự điều chỉnh của
nhà nước.
Thứ năm: về trung, dài hạn cần thực hiện các biện pháp điều chỉnh cung, để giảm hệ số sử
dụng hàng nhập khẩu. Cụ thể là cần có biện pháp để dịch chuyển từ công nghiệp gia công, lắp
ráp, sang công nghệ cao phục vụ xuất khẩu, cần có chính sách un tiên khuyến khích đầu tư
vào các ngành sản xuất máy móc thiết bị thay thế hàng nhập khẩu để hạn chế nhu cầu nhập
khẩu lớn cho mặt hàng này.
Việc giảm thâm hụt thương mại nói chung và giảm thâm hụt thương mại với Trung quốc nói
riêng là vấn đề cấp bách đối với Việt nam, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh tranh thương mại
quốc tế ngày càng gia tăng. Chỉ khi nào chúng ta cải thiện được cán cân thương mại, khắc
phục được những điểm yếu về cơ cấu thương mại, cơ cấu mặt hàng, cơ cấu sản xuất sản phẩm
thay thế thì các chính sách về tỷ giá, tiền tệ mới có thể phát huy đầy đủ được tác dụng
IV. Lòi Kết
Trong một nền kinh tế mở, nhập siêu từ một khu vực kinh tế nào đó là chuyện bình
thường; ngay cả nhập siêu tổng thể cũng chưa hẳn là điều đáng ngại. Sự tập trung của dư
luận vào những con số nhập siêu cũng như đối tác nhập siêu có thể khiến cho giới làm chính
sách hướng vào những chính sách sai lầm như xây dựng thêm các hàng rào bảo hộ thương

mại thay vì tập trung giải quyết nguyên nhân đích thực gây ra nhập siêu dai dẳng và ngày
một lớn như hiện nay. Điều quan trọng là phải biết nhìn nhận điểm yếu,thách thức qua đó
kết hợp với những cơ hội,điểm mạnh vốn có để xây dựng cơ chế,biện pháp phù hợp.Rõ ràng
để hạn chế tình trạng nhập siêu không thế dung biện pháp riêng lẻ mà phải có sự phối hợp
kết hợp đồng bộ giữa các giải pháp thì mới có hiệu quả.
Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình kinh tế quốc tế-Thạc sỹ Nguyễn Hữu Lộc
2. Cán cân thương mại Việt Nam-TS Đỗ Văn Tính
3. Báo cáo thâm hụt thương mại của Việt Nam và các điều khoản về cán cân thương mại
của Việt Nam-Peter Naray
4.SỐ liệu Của tổng cục thống kê
5. Bộ Thưiơng mại (2000) Chiến lược phát triển xuất nhập khấu thời kì 2001 - 2010
6. Bộ Thương mại (2005), Đề án phát triển xuất khẩu 2006 - 2010
MỤC LỤC
Trang
2.Nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại 2
2.1)Xuất khẩu và nhập khẩu 2
2.2)Tỷ giá hối đoái 2
2.5)Tỷ lệ trao đổi 3
2.6)Phá giá tiền tệ 3
II.Thực tiễn tại Việt Nam 3
1.2)Điểm yếu 3
1.3)Cơ hội 4
1.4)Thách thức 5
2)Cán cân thương mại ở Việt Nam hiện nay-Thực trạng và phân tích 6
2.1)Nhìn lại năm 2010 6
Một số mặt hàng xuất khẩu tiêu biểu 2010 6
2.3)Điều hành tỷ giá, tỷ giá thực và nhập siêu 10

×