MỤC LỤC:
I. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA HÌNH THỨC ĐẦU TƯ THEO HỢP
ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH (BCC)………………………………
- 1
1. Ưu điểm……………………………………………………….. - 2
2. Hạn chế………………………………………………………… - 2
II. PHÂN BIỆT HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH VÀ HỢP
ĐỒNG LIÊN DOANH…………………………………………………..
- 3
1. Giống nhau…………………………………………………….. - 3
2. Khác nhau……………………………………………………… - 3
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) là hình thức đầu tư được quy định
trong pháp luật nhiều nước, gọi tắt là hợp doanh. Ở Việt Nam, định nghĩa khái
quát về hợp đồng hợp tác kinh doanh được quy định trong Luật Đầu tư 2005:
“Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu
tư nhằm hợp tác kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà
không thành lập pháp nhân”. Quy định này được hướng dẫn cụ thể bằng Nghị
định của Chính phủ số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư. Trong quá trình thực hiện
hợp đồng, các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp lí của chính mình, nhân danh
mình để thực hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng.
I. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA HÌNH THỨC ĐẦU TƯ THEO
HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH (BCC).
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) là mô hình khá phổ biến hiện
nay, khi đó các bên tham gia góp vốn đầu tư vào dự án sẽ cùng nhau thỏa
thuận và thống nhất ký vào một bản hợp đồng trong đó có đầy đủ các điều
khoản về tỷ lệ góp vốn, phương thức hạch toán, các quyền lợi và nghĩa vụ của
các bên góp vốn...
Với cơ chế đàm phán để chia sẻ lợi ích cũng như nghĩa vụ trong hoạt
động đầu tư, đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh có tính linh hoạt, do
không có ràng buộc vể tổ chức bằng một pháp nhân chung của các tổ chức, cá
nhân có quan hệ đầu tư với nhau.
Các bên không phải thành lập pháp nhân mới, không phải tiến hành thủ
tục thành lập doanh nghiệp nên nhanh chóng chóng tiến hành hoạt động kinh
doanh đặc biệt với dự án có vốn đầu tư nước ngoài.
Giúp các nhà đầu khắc phục được điểm yếu của mình và sử dụng được
hầu hết các lợi thế trong kinh doanh.
2
Khi ký hợp đồng BCC các bên độc lập và nhân danh chính mình trong
quá trình hoạt động.
1. Ưu điểm.
Đối với nước đầu tư thì tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của
đối tác nước sở tại vào được những lĩnh vực hạn chế đầu tư; thâm nhập được
những thị trường truyền thống của nước chủ nhà; không mất thời gian và chi
phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ; không
bị tác động lớn do khác biệt về văn hoá; chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư.
Đối với nước tiếp nhận thì giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu
công nghệ, tạo ra thị trường mới nhưng vấn đảm bảo được an ninh quốc gia
và nắm được quyền đièu hành dự án.
Ngoài ra, nếu các bên sớm đồng thuận được tỷ lệ góp vốn (thường đồng
nghĩa với tỷ lệ phân chia lợi nhuận) thì hợp đồng sẽ nhanh chóng được ký kết.
Việc ký kết hợp đồng này các thuận lợi nếu chỉ có 2 đơn vị góp vốn và dự án
có quy mô nhỏ.
2. Hạn chế.
Đối với nước đầu tư thì không được trực tiếp quản lý điều hành dự án,
quan hệ hợp tác với đối tác nước sở tại thiếu tính chắc chắn khiến các nhà đầu
tư e ngại.
Các nước tiếp nhận khó thu hút đầu tư, chỉ thực hiện được đối với một
số ít lĩnh vực dễ sinh lời.
Nhiều điều khoản quan trọng của hợp đồng hợp tác kinh doanh cần
thông qua Đại hội cổ đông hoặc ít nhất là Hội đồng quản trị của các bên, do
vậy có thể phải tiến hành một đại hội cổ đông bất thường để thông qua nội
dung của hợp đồng, việc ký hợp đồng có thể bị chậm hơn dự kiến.
Việc thương lượng phân chia tỷ lệ góp vốn đồng nghĩa với tỷ lệ lợi
nhuận được hưởng sẽ kéo dài vì bên nào cũng muốn có nhiều quyền lợi, việc
3
làm sao cân bằng hài hòa được quyền lợi của mỗi bên sẽ dẫn đến việc chậm
ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh. Về sau, nếu có việc điều chỉnh tỷ lệ góp
vốn trong hợp đồng hợp tác kinh doanh sẽ không dễ, vì trong quá trình triển
khai dự án có thể có những sự biến động làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
các bên góp vốn.
Việc phê duyệt dự án phải có tất cả các bên góp vốn (hợp doanh) cùng
phê duyệt cũng là một trở ngại gây chậm quá trình thực hiện dự án.
II. PHÂN BIỆT HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH VÀ HỢP
ĐỒNG LIÊN DOANH.
1. Giống nhau.
Chủ thể của hai loại hợp đồng này đều có hai bên hoặc nhiều bên, và
đều bao gồm các đối tượng là nhà đầu tư theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
Nội dung của hợp đồng đều chứa đựng thỏa thuận làm hình thành
quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng đầu tư.
Đều là hình thức đầu tư trực tiếp
2. Khác nhau.
* Về chủ thể của hợp đồng:
Hơp đồng hợp tác kinh doanh không giới hạn các nhà đầu tư, có thể là
nhà đầu tư trong nước kí kết hợp tác kinh doanh với nhà đầu tư nước ngoài
hoặc những nhà đầu tư trong nước kí kết hợp đồng với nhau.
Hợp đồng liên doanh thì bắt buộc phải có sự kí kết của một hoặc nhiều
nhà đầu tư trong nước với một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài, sự tham gia
của nhà đầu tư trong nước là cần thiết, là điều kiện bắt buộc để hình thành nên
hợp đồng liên doanh.
* Về bản chất của hợp đồng:
4
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là sự thỏa thuận của các bên để tiến hành
hợp tác kinh doanh với nhau và được pháp luật coi là một hình thức đầu tư, nó
tồn tại độc lập với các hình thức đầu tư khác.
Hợp đồng liên doanh không được coi là hình thức đầu tư, nó chỉ là cơ
sở pháp lí ghi nhận quan hệ đầu tư. Hệ quả của quá trình kí kết hợp đồng liên
doanh là một doanh nghiệp liên doanh ra đời. Do đó đây sẽ là một văn bản bắt
buộc phải có trong hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư.
* Về nội dung thỏa thuận:
Trong hợp đồng hợp tác kinh doanh, vì việc kí kết hợp đồng không dẫn
đến thành lập một pháp nhân mới tại Việt Nam phải hoạt động theo luật
Doanh nghiệp. Do vậy trong hợp đồng này các bên cùng thỏa thuận những nội
dung liên quan đến: thể thức góp vốn, phân chia lợi nhuận, kết quả kinh
doanh…
Còn hợp đồng liên doanh thì việc kí kết hợp đồng dẫn đến việc thành
lập một pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam nên nội dung của sự
thỏa thuận phải có: loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh,
điều kiện chấm dứt và giải thể doanh nghiệp – điều khoản này rất quan trọng,
nó coi như là “bùa” cứu cánh cho doanh nghiệp lúc cần thiết.
* Về việc triển khai hợp đồng:
Trong hợp đồng hợp tác kinh doanh thì các nhà đầu tư phải tự tiến hành
hoạt động đầu tư với quy chế do chính họ đặt ra và thỏa thuận trong hợp
đồng, có thể coi sự thỏa thuận trong hợp đồng thể hiện sự nhất trí cao độ.
Còn trong hợp đồng liên doanh thì tính hiệu quả trong quá trình đầu tư
của nhà đầu tư (đối với hình thức thành lập doanh nghiệp liên doanh) sẽ được
phản ánh qua chính tình hình hoạt động của doanh nghiệp liên doanh đó.
* Về việc sử dụng dấu, tư cách giao dịch:
5