Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Cơ sở khoa học cho tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên huyện Sóc Sơn, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.5 MB, 139 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




Giang Văn Trọng



CƠ SỞ KHOA HỌC CHO TỔ CHỨC LÃNH THỔ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VÀ SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
HUYỆN SÓC SƠN, HÀ NỘI




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC








Năm 2012

2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




Giang Văn Trọng



CƠ SỞ KHOA HỌC CHO TỔ CHỨC LÃNH THỔ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VÀ SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
HUYỆN SÓC SƠN, HÀ NỘI

Chuyên ngành: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên môi trường
Mã số: 60 85 15


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Trương Quang Hải




Năm 2012

i


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN 6
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu 6
1.2. Cơ sở khoa học của tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế và sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên 15
1.2.1. Khái niệm, bản chất của tổ chức lãnh thổ kinh tế 15
1.2.2. Các lý thuyết tổ chức lãnh thổ kinh tế 18
1.2.3. Các hình thức tổ chức lãnh thổ có thể vận dụng vào huyện Sóc Sơn 21
1.2.4. Mối quan hệ giữa tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế và sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên 24
CHƢƠNG 2: ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VÀ SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN 27
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ 27
2.1.1. Các nhân tố tự nhiên 27
a) Vị trí địa lý và vị thế kinh tế của Sóc Sơn 27
b) Địa chất 32
c) Địa hình 34
c) Khí hậu-thuỷ văn 40
d) Thổ nhưỡng 43
e) Thảm thực vật 46
2.1.2. Các nhân tố kinh tế xã hội 48
a) Dân cư và nguồn lao động 48
b) Kinh tế 50
c) Cơ sở hạ tầng 55
d) Văn hoá, y tế, giáo dục 58
ii


2.1.3. Đánh giá tổng hợp thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức (SWOT) của huyện
Sóc Sơn: 62
2.2. Hiện trạng tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế và sử dụng tài nguyên thiên
nhiên huyện Sóc Sơn 64
2.2.1. Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế 64
2.2.2. Hiện trạng tổ chức lãnh thổ theo định hướng phát triển của huyện 67
2.2.3 Đóng góp của các hình thức tổ chức lãnh thổ vào phát triển kinh tế: 68
2.2.4 Tổ chức lãnh thổ nông thôn và đô thị: 76
2.3. Hiện trạng sử dụng tài nguyên thiên nhiên huyện Sóc Sơn 80
2.3.1. Hiện trạng sử dụng tài nguyên đất 80
2.3.2. Hiện trạng sử dụng tài nguyên nước 83
2.3.3. Hiện trạng sử dụng tài nguyên đa dạng sinh học 85
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG TỔ CHỨC KHÔNG GIAN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN HUYỆN SÓC
SƠN 88
3.1. Phân vùng chức năng lãnh thổ 88
3.1.1. Các tiêu chí phân vùng chức năng 88
3.1.2. Phân vùng chức năng 91
3.2. Định hướng tổ chức không gian 94
3.2.1. Định hướng chung 94
3.2.2. Định hướng theo ngành 108
a) Ngành công nghiệp 108
b) Ngành dịch vụ 110
c) Ngành nông nghiệp 113
KẾT LUẬN 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO 119
PHỤ LỤC

iii


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Tổng kết xu hướng định vị trên thế giới 8
Bảng 2.1: Sóc Sơn trong khu vực Hà Nội 29
Bảng 2.2: Vai trò của Sóc Sơn trong thành phố Hà Nội 30
Bảng 2.3: Các sông chảy qua huyện Sóc Sơn 41
Bảng 2.4: Tổng hợp các chỉ số kinh tế xã hội 48
Bảng 2.5: Giá trị sản xuất ngành nông-lâm-ngư nghiệp, 2006-2011 51
Bảng 2.6: Chỉ số phát triển các ngành công nghiệp 52
Bảng 2.7: Doanh thu sản xuất công nghiệp 53
Bảng 2.8: Số lượng, chiều dài của các tuyến giao thông chính 55
Bảng 2.9: Phân tích SWOT hệ thống giao thông 56
Bảng 2.10: Tổng hợp một số chỉ tiêu văn hóa, y tế, giáo dục 60
Bảng 2.11: Giá trị và cơ cấu giá trị sản xuất của Sóc Sơn 64
Bảng 2.12: Biến đổi tỷ lệ lao động trong các ngành kinh tế 66
Bảng 2.13: Các ngành kinh tế phân theo tiểu vùng 67
Bảng 2.14: Giá trị sản xuất công nghiệp tạo ra theo lao động 71
Bảng2.15: Tính chỉ số chuyên môn hóa ngành công nghiệp của huyện Sóc Sơn 72
Bảng 2.16: Số trang trại phân theo tiểu vùng 73
Bảng 2.17: Một số chỉ tiêu chủ yếu về trang trại 73
Bảng 2.18: So sánh giữa Thành thị / Nông thôn 76
Bảng 2.19: Hiện trạng sử dụng đất huyện Sóc Sơn giai đoạn 2008-2011 80
Bảng 3.1: Các chỉ số đưa vào mô hình phân tích hồi quy và phân tích nhóm 89
Bảng 3.2: Các chức năng đề xuất trong từng tiểu vùng 92
Bảng 3.3: Phân tích các quy hoạch gần đây của huyện Sóc Sơn 96
iv

Bảng 3.4: Đánh giá các kết quả đạt được so với mục tiêu đặt ra 97
Bảng 3.5: Phân tích SWOT cho ngành công nghiệp của huyện 108
Bảng 3.6: mục tiêu, chiến lược và hành động đề xuất cho ngành công nghiệp 109
Bảng 3.7: Phân tích SWOT ngành dịch vụ 110

Bảng 3.8: Mục tiêu, chiến lược và hành động đề xuất ngành dịch vụ 111
Bảng 3.9: Phân tích SWOT ngành nông nghiệp huyện 113
Bảng 3.10: Mục tiêu, chiến lược và hành động đề xuất phát triển nông nghiệp 113
Bảng 3.11: Kiến nghị các dự án phát triển 115

v

DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Sơ đồ hành chính huyện Sóc Sơn 28
Hình 2.2: Sơ đồ Sóc Sơn trong vùng Thủ đô 31
Hình 2.3. Bản đồ địa mạo huyện Sóc Sơn 36
Hình 2.4 Bản đồ thổ nhưỡng huyện Sóc Sơn 44
Hình 2.5: Bản đồ Thảm thực vật huyện Sóc Sơn 47
Hình 2.6: Cơ sở hạ tầng huyện Sóc Sơn 59
Hình 2.7: Biểu đồ Giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất huyện Sóc
Sơn 65
Hình 2.8 Bản đồ các tiểu vùng theo định hướng phát triển KTXH của huyện 69
Hình 2.9: Biến đổi dân số khu vực nông thôn và thành thị 2000-2011 77
Hình 2.10: Bản đồ phân tích khả năng phát triển, mở rộng xây dựng 78
Hình 2.11: Biểu đồ cơ cấu sử dụng đất huyện Sóc Sơn 82
Hình 3.1: Kết quả phân tích nhóm 90
Hình 3.2 Bản đồ phân vùng phát triển kinh tế xã hội huyện Sóc Sơn 92
Hình 3.3: Bản đồ định hướng phát triển kinh tế xã hội huyện Sóc Sơn 107


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới hiện nay có nhiều biến chuyển mạnh mẽ, ở các nước công nghiệp

phát triển đã và đang đối mặt với nguy cơ suy thoái kinh tế, tình trạng cạn kiện tài
nguyên gia tăng cộng thêm với biến đổi khí hậu thách thức sự phát triển bền vững
toàn cầu, tạo nên sức ép đến các quốc gia phải thay đổi chính sách nông nghiệp chú
trọng tới vấn đề an ninh lương thực.
Sóc Sơn là huyện có diện tích đất nông nghiệp lớn thứ hai của Hà Nội, kể từ
lần quy hoạch gần đây năm 2007 đến nay, trên địa bàn đã có nhiều thay đổi quan
trọng. Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, Sóc Sơn được xác định là một trong
năm đô thị vệ tinh, nhiều dự án mới như đường cao tốc Hà Nội- Thái Nguyên, Hà
Nội – Lào Cai, đường 5 kéo dài, sân bay quốc tế Nội Bài mở rộng, sự mở rộng của
vùng Thủ Đô
1
, UNESCO công nhận du lịch đền Sóc là Di sản Văn hóa Thế giới,
chính sách của thành phố Hà Nội về sử dụng rừng phòng hộ Sóc Sơn, các quy
hoạch ngành và liên ngành như Y tế, giáo dục… đã làm xáo trộn đến hoạt động
kinh tế ở nơi đây. Những thay đổi này đã tác động đến sự phân dị trong nội vùng và
phá vỡ tính liên kết ngoại vùng trước đây, làm xuất hiện những mâu thuẫn cản trở
phát triển bền vững của huyện. Thực tế, Sóc Sơn đang tồn tại mất cân bằng trong
phát triển, thứ nhất khoảng cách phát triển giữa Sóc Sơn với khu vực khác của Hà
Nội, ngay trong bản thân huyện sự chênh lệch giàu nghèo vẫn còn cao. Thứ hai, sự
phát triển công nghiệp và dịch vụ đang làm giảm mạnh diện tích đất nông nghiệp
gây ra lo ngại tới an ninh lương thực.
Xét về vị trí, Sóc Sơn được coi là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội, là cầu nối, là
mắt xích giúp Hà Nội phát triển lan tỏa ra các khu vực lân cận, đảm nhận trách
nhiệm của thủ đô với sự phát triển của đất nước. Để thực sự trở thành động lực phát
triển của Vùng Thủ đô và phụ cận, Hà Nội cần phải quan tâm đến mắt xích này để

1
Vùng Thủ đô hiện có Hà Nội và 9 tỉnh lân cận theo quyết định 1758/QĐ – TTg, Mở rộng thêm 3 tỉnh là Phú
Thọ, Thái Nguyên và Bắc Giang so với Quyết định số 490/2008/QĐ-TTg.
2


tạo nên sự liên kết vững chắc trong liên kết vùng. Thực tế trên đòi hỏi bức thiết phải
bố trí, sắp xếp lại các đối tượng phát triển trên lãnh thổ, tuy nhiên thế và lực của
Sóc Sơn đã thay đổi đáng kể so với những lần tổ chức trước nên việc xác lập lại cơ
sở khoa học cần phải đi trước một bước. Vì vậy học viên chọn đề tài: ―Cơ sở khoa
học cho tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên huyện Sóc Sơn, Hà Nội‖.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục tiêu của đề tài
Áp dụng những kinh nghiệm tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế, sử dụng hợp
lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện địa lý, môi trường cho định
hướng tổ chức lãnh thổ, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên phù hợp với yêu cầu
phát triển trong giai đoạn mới ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
Nhằm đạt được mục tiêu trên, luận văn cần thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Tổng quan cơ sở lí luận và thực tiễn về TCLT, SDHL tài nguyên thiên
nhiên.
- Điều tra khảo sát thực địa, thu thập số liệu về các hợp phần tự nhiên, kinh
tế-xã hội, hiện trạng sử dụng tài nguyên, phân tích các quy hoạch tổng thể, chi tiết
liên quan đến khu vực.
- Phân tích hiện trạng TCLT và sử dụng TNTN huyện Sóc Sơn
- Bài học kinh nghiệm từ hiện trạng TCLT và sử dụng TNTN huyện Sóc Sơn
- Phân vùng phát triển và định hướng tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế và
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên huyện Sóc Sơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Đề tài tiến hành trên địa bàn huyện Sóc Sơn gồm 25 xã
và 1 thị trấn.
Phạm vi khoa học: Tổ chức lãnh thổ và sử dụng hợp lý tài nguyên là những
3


nội dung lớn của địa lý học, vì vậy trong luận văn, học viên chỉ đề cập đến một số
vấn đề của tổ chức lãnh thổ, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, áp dụng một số lý luận
liên quan đến chuyên ngành địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế - xã hội.
4. Quan điểm và Phương pháp nghiên cứu
4.1 Quan điểm nghiên cứu
- Quan điểm hệ thống: Quan điểm này được vận dụng khi nghiên cứu tổ chức
lãnh thổ huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Khu vực huyện Sóc Sơn được coi là một
hệ thống tự nhiên, tạo thành từ nhiều yếu tố tự nhiên (địa hình, khí hậu, thuỷ văn, thổ
nhưỡng, sinh vật,…), và một hệ thống kinh tế xã hội (dân cư, lao động, công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ), có ranh giới xác định, ở đó có sự tương tác giữa các hợp phần
tự nhiên cũng như giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, khi
nghiên cứu cần phải đặt nó trong hệ thống và mối quan hệ qua lại mật thiết giữa các
nguồn lực tự nhiên và nguồn lực nhân văn trong tổng thể với lãnh thổ xung quanh.
- Quan điểm tổng hợp: Vận dụng quan điểm tổng hợp trong việc nghiên cứu
tổ chức lãnh thổ, cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện, tổng
hợp tất cả các yếu tố cũng như các mối quan hệ tương tác giữa các hợp phần trong
tổng thể đó, phân tích tổng hợp các nhân tố tự nhiên, nhân tố kinh tế - xã hội ảnh
hưởng đến sự hình thành và phát triển của các đối tượng tổ chức lãnh thổ cũng như
tác động tổng hợp của tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội,
môi trường.
- Quan điểm lãnh thổ: Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại và phát triển trong
một không gian nhất định. Các sự vật hiện tượng địa lý cũng không nằm ngoài quy
luật tự nhiên này. Ở đó có sự phân hóa và thống nhất nội tại nhưng đồng thời lại có
mối quan hệ lãnh thổ với các vùng xung quanh cả về đặc điểm địa lí tự nhiên và
kinh tế -xã hội. Trong nghiên cứu địa lý, bất kỳ một sự vật hiện tượng nào cũng đều
phải gắn với một không gian lãnh thổ nhất định. Mỗi đối tượng tổ chức lãnh thổ đều
được phát sinh, hình thành, phát triển trên một vùng cụ thể.
- Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững: Địa lý học đã vận dụng quan
điểm này vào việc nghiên cứu, đánh giá tổng hợp các nhân tố điều kiện địa lí tự
4


nhiên và kinh tế- xã hội. Sử dụng hợp lý tài nguyên không phải chỉ khai thác, tận
dụng triệt để các nguồn tài nguyên trên lãnh thổ phục vụ phát triển kinh tế mà còn
phải đảm bảo sự cân bằng về sinh thái và bền vững về môi trường. Nếu tác động con
người dưới mức cho phép thì đó là động lực tạo cơ sở cho sự phát triển của hệ địa
sinh thái theo chiều hướng ổn định trong trạng thái cân bằng và phát triển của toàn hệ
thống. Nhưng nếu tác động quá mức cho phép sẽ làm cho hệ địa sinh thái bị đảo lộn
và phát triển theo chiều hướng xấu, gây mất cân bằng sinh thái và gây nhiều hậu quả.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát thực địa: Đây là phương pháp truyền thống, rất quan
trọng với tất cả các ngành nghiên cứu thiên nhiên, nhất là đối với địa lí tự nhiên
tổng hợp. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đến khảo sát theo tuyến và theo
điểm, tìm hiểu, chụp ảnh những đối tượng và địa điểm cần thiết. Quá trình khảo sát
chủ yếu nghiên cứu các đặc điểm địa lí tự nhiên, sự phân hoá không gian lãnh thổ,
đặc điểm kinh tế xã hội, khu công nghiệp, khu du lịch, tuyến giao thông,… Kết hợp
với các phương pháp khác, so sánh đối chiếu với kết quả nghiên cứu trong phòng để
nắm vững đặc trưng cơ bản của lãnh thổ nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh vùng: Phương pháp so sánh vùng là một trong những
phương pháp nghiên cứu địa lý quan trọng trong phân tích vùng, vì đặc trưng của
các yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội của vùng phần lớn đều là tương đối, thông
qua so sánh mới có thể phân biệt sự khác nhau giữa các vùng. Trong phân tích
vùng, thường nói tới phát triển và lạc hậu, tập trung và tản mạn, tất cả đều là so
sánh. Nếu không tiến hành so sánh để tham khảo, thì rất khó đưa ra kết luận một
vùng là lạc hậu hay phát triển [12, 13, 14]. Nhưng, trước khi so sánh vùng, phải chú
ý đến tính có thể so sánh giữa các vùng, bao gồm: tính có thể so sánh về phạm vi
vùng, chỉ tiêu thống kê, giá trị tiền tệ, cơ cấu hoặc trình độ của chúng. Nếu như điều
kiện so sánh không thống nhất, sẽ không thể đưa ra kết luận đúng. Trong công tác
thực tế, nhất thiết phải chú ý đến sự sai khác do thay đổi về phân vùng hành chính,
thay đổi các chỉ tiêu thống kê, biến đổi về tỷ giá tiền tệ và ngoại hối, giá cả giữa các
vùng đều có thể tạo thành tính không thống nhất của chỉ tiêu.

5

- Phương pháp thống kê toán học: Các số liệu thống kê về điều kiện tự nhiên
và kinh tế - xã hội của huyện Sóc Sơn là những thông tin dữ liệu đầu vào về khu
vực nghiên cứu. Nguồn dữ liệu được thống kê bao gồm: Thống kê qua tài liệu, báo
cáo và sổ sách lưu trữ; Thống kê qua các số liệu khảo sát, đo đạc ngoài thực địa;
Thống kê qua đo đạc, tính toán trên bản đồ; Thống kê qua các bảng điều tra nông
hộ với hệ thống chỉ tiêu đã định; Thực tế cho thấy rằng đây là phương pháp không
thể thiếu được, vì các số liệu thu thập theo phương pháp này có tính đồng bộ cao và
giảm bớt thời gian đi thực địa [14].
Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lý: Để xác lập sự đồng nhất hay
phân dị lãnh thổ của các nhân tố sinh thái và các yếu tố kinh tế xã hội cũng như việc
thể hiện chúng thì không còn cách nào khác là phải sử dụng bản đồ. Bản đồ được
coi là ―ngôn ngữ của địa lý học‖, vì chúng có khả năng thể hiện rõ nhất, trực quan
nhất các đặc trưng không gian của các đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra, phương
pháp bản đồ còn là phương pháp duy nhất thể hiện sự phân bố không gian các
phương án quy hoạch và tổ chức lãnh thổ, đồng thời giúp cho các nhà quản lý đưa
ra những quyết định về tổ chức sử dụng lãnh thổ một cách nhanh chóng và hiệu quả
hơn nhiều so với việc đọc các bảng thống kê dài [12,14].
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế và sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên
Chương 2: Đánh giá hiện trạng tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế và sử dụng
tài nguyên
Chương 3: Định hướng tổ chức không gian phát triển kinh tế sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên huyện sóc sơn


6


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ:
* Trên thế giới
- Các lý thuyết kinh điển về định vị:
+ Lý thuyết về sử dụng đất (Von Thünen/ Alonso), lý thuyết định vị công
nghiệp (Weber/ Smith/ Isard/ Moses), lý thuyết điểm trung tâm (Christaller/ Lösch),
Lý thuyết cạnh tranh không gian (Hotelling). Lý thuyết về chi phí thấp nhất (Weber,
1929) (least cost theory) [49] liên quan đến phí vận chuyển, phí lao động và phí do
nền kinh tế tập trung. Sự tập trung kinh tế dẫn đến chi phí cao đối với người lao
động và tác động đến nền kinh tế. Weber kết luận, phí giao thông là yếu tố chính
quyết định đến vị trí sản xuất, vị trí tốt nhất là nơi có chi phí vận chuyển nguyên
liệu và sản phẩm với giá thấp nhất. Ý tưởng đơn giản này trở thành lý thuyết nền
tảng của định vị hiện đại. Phát triển lý thuyết của Weber, Isard, Walter 1956 phát
triển lên một lĩnh vực được biết đến như khoa học vùng, một nhánh của khoa học xã
hội [61], nghiên cứu tác động của không gian đối với việc ra quyết định kinh tế.
Khung phương pháp phân tích vùng và liên vùng sau đó vào năm 1960 và 1998 với
những mô hình phân tích chi phí so sánh, phân tích input-output… đã trở thành
những tiêu chuẩn trong quy hoạch vùng [56, 57].
Lý thuyết về vị trí phụ thuộc (Hotelling, 1931) [48] cho rằng, khi có yếu tố
cạnh tranh, yếu tố về vị trí phụ thuộc sẽ xuất hiện, lý thuyết quan tâm đến phân tích
doanh thu hơn là phân tích chi phí của weber, phân tích khoảng cách người tiêu
dùng đến nơi bán sản phẩm hoặc chi phí phân phối sản phẩm đến người mua,
Harold Hotelling cho rằng khi thị trường không co giãn xuất hiện nhiều nhà phân
phối. Thị trường trở nên nhạy cảm về giá cả và lượng khách hàng, nhà phân phối
phải tìm kiếm lượng khách hàng đối đa bằng cách phân bố lại thị trường. Ông kết
luận, khi có sự cạnh tranh trong thị trường không co giãn, trường hợp hàng hóa
7


nhạy cảm với giá cả, khi đó khoảng cách phân phối xa sẽ không thuận lợi, khi đó
các nhà phân phối cần phân chia lại thị trường.
Không hài lòng với 2 phương pháp trên, Agust Losch đưa ra cách tiếp cận
mới dựa trên lợi nhuận nhà sản xuất (Phương pháp lợi nhuận tối đa) [49]. Nguyên
tắc thay thế (Substitution Principle) cho thấy nhiều quy trình sản xuất công nghiệp
thay đổi để giảm chi phí đầu vào (lao động, nguyên liệu…). Và với sự tăng đầu tư
thiết bị, tăng phí vận chuyển để giảm giá đất thuê, nhà sản xuất sẽ tìm được vị trí
thích hợp.
Các nghiên cứu định vị gắn với yếu tố đô thị có dung lượng nhiều hơn cả và
được chia ra theo nhiều hướng. Đầu tiên là nghiên cứu cấu trúc không gian đô thị
của Alfred Marshall (1890), William Alonso, 1964 (dựa trên mô hình của Thünen)
[59] đề cập đến giá thuê đất, thành phố đơn tâm và đa tâm. Hướng tiếp theo nghiên
cứu chiều thứ 3 của lý thuyết định vị đô thị: chiều cao của các tòa nhà
2
. Georg Kohl
(1850), Alfred Marshall (1890) sau này là Jean Gottmann (1966), Irving Hoch
(1968) [58] đã phân tích chiều cao tối ưu của các toàn nhà và vấn đề sử dụng
khoảng không của các thành phố. Đề cập đến vấn đề thuế đất, nhưng David Ricardo
(1820), Henry George (1879) lại đưa ra khái niệm về thuế dựa trên độ màu mỡ của
đất và giá trị đất đai; 2 ông đã đưa ra một hệ thống các thuế phải đóng dựa trên quan
điểm này. Tiếp tục các vấn đề về đô thị là các nghiên cứu về chức năng đô thị.
Colin Clark (1951, 1967) là người đầu tiên khám phá phát hiện mật độ dân số có xu
hướng giảm dần so với khoảng cách từ thành phố trung tâm. Sau đó Newling (1969,
1971) đã áp dụng thông số được phát triển bởi Muth (1969) chỉ ra mối tương quan
mạnh giữa mật độ với tỷ lệ tăng trưởng, ông đã xác định mức mật độ tiêu chuẩn cho
thành phố để đảm bảo tốc độ tăng trưởng, qua đó ông đề xuất đưa mật đô dân số
vào trong tính toán quy hoạch thành phố. Cuối cùng, bàn về vấn đề ngoại ô và ranh
giới của đô thị là những đóng góp của C.Harris & E.L.Ullman (1945), Rodney
Erickson (1986), Garreau (1991), Giuliano & Small (1991) về vùng ven đô, những

khu dân cư cao cấp ở ngoại ô; R.L.Morrill (1966), M.Batty & P.Longley (1994)

2
Có nhiều tác giả đồng nhất khái niệm tổ chức không gian với tổ chức lãnh thổ, tuy nhiên khái niệm không
gian rộng hơn nhiều, bao gồm cả vùng dưới lòng đất, bề mặt đất, vùng trời so với tổ chức lãnh thổ theo chiều
ngang
8

[59] nghiên cứu ranh giới đô thị tiếp cận chiều fractal (Fractal dimension) và rìa đô
thị (Urban fringe).
Các nghiên cứu về không gian và thời gian đã đưa lý thuyết định vị trở thành
công cụ ra quyết định. Howard Stafford (1969/74) và Krumme (1981) đã đặt ra câu
hỏi các đối tượng tổ chức lãnh thổ nên định vị bây giờ hay về sau, từ đó các ông
đưa ra và phát triển lý thuyết trì hoãn (Procrastination). Nói đến định vị, không ít
suy nghĩ đề cập ngay đến không gian, đây thực sự là một sự thiếu sót lớn. Thời gian
trong lý thuyết định vị đề cập đến các khía cạnh: giá trị thời gian trong lưu thông,
quỹ thời gian, sự hội tụ không gian và thời gian (Time-Space Convergence)… do
D.G.Janelle (1968), Abler (1971), Forer (1974), Gary Becker (1965), Hägerstrand
(1970)… đề xuất.
Về tiếp cận cấu trúc thu hút một số lượng lớn các nghiên cứu trên nhiều khía
cạnh. Nghiên cứu mối quan hệ liên vùng, mạng lưới hợp tác và các khối liên minh
chiến lược có Duncan (1972), F.E.Emery & E.L.Trist (1965), Fleming & Krumme
Bảng 1.1: Tổng kết xu hướng định vị trên thế giới
Pha I
Cách mạng công nghiệp
Pha II
Từ 1950 -1990
Pha III
Từ 1990 đến nay
Nhân tố cơ bản

(Primary factors)
Nhân tố thứ 2
(Secondary factors)
Nhân tố 3
(Tertiary factors)
Chi phí vận tải với chi phí
sản xuất, giá nhân công
Sự gần gũi thị trường
Sự gần gũi đến nguồn cung/
nhà cung cấp dịch vụ
Những nhân tố tích tụ khác
Chính sách chính phủ
Khía cạnh môi trường, tri thức
của lực lượng lao động, định vị
kinh doanh bền vững, chất lượng
cuộc sống, môi trường đầu tư
Tân cổ điển (chi phí thấp
nhất)
Lý thuyết định vị
Tập trung vùng
Lý thuyết cực tăng trưởng/
Lý thuyết nhân quả tích lũy
3

Quần cư đô thị (Urban
agglomeration)
Lý thuyết cơ quan và cư xử
(Behavioural and institutional
theories)
Khuyết tán không gian (Spatial

diffusion)
Nguồn: [57]

3
Mô hình nhân quả tích luỹ (Cumulative causation model): Một phương pháp phân tích tăng trưởng kinh tế khu vực do
G.MYRDAL đưa ra. Mô hình này cho rằng các lực lượng thị trường có khuynh hướng làm tăng bất bình đẳng về kinh tế
giữa các khu vực của một nền kinh tế. Nó cũng cho rằng nếu một khu vực có tỷ lệ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác
sẽ khiến cho các yếu tố sản xuất trong khu vực tăng tưởng chậm chảy sang khu vực tăng trưởng nhanh
9

(1968), B.Kogut (1988), Rowena Ahern (1993). Nghiên cứu về cấu trúc không gian
tổ chức có đề cập đến vị trí đặt trụ sở cơ quan điều hành, văn phòng (Johnston &
Rimmer), Hymer (1972), Allan Pred (1977) [57].
Định vị có xu hướng chuyển từ chuyển từ các nhân tố cứng như chi phí vận
chuyển, chi phí lao động… sang các nhân tố mềm hơn như chính sách, môi trường,
chất lượng cuộc sống… Thực tế trên thế giới giai đoạn gần đây, cá doanh nghiệp
chọn lựa vị trí do ưu đãi lớn về thuế thu nhập doanh nghiệp, phí môi trường và một
thị trường lao động, tiêu thụ tiềm năng tại các nước đang phát triển. Các nước đang
phát triển tận dụng cơ hội thu hút FDI bằng cách cải thiện môi trường đầu tư, đưa ra
chính sách ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, phí môi trường đối với doanh nghiệp nước
ngoài
4
.
Pha 1: Ban đầu lý thuyết định vị được phát triển bởi Weber (1929) sau đó là
Edgar Hoover (1937), Melvin Greenhut (1956) và Walter Isard (1956), tập trung
chính vào các mô hình toán học về sự tối ưu hóa trong định vị liên quan đến chi phí
vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm. Những công ty có xu hướng định vị gần
nguồn nguyên liệu khi khối lượng của nguyên liệu lớn hơn rất nhiều so với khối
lượng của sản phẩm và ngược lại. Tuy nhiên, một vấn đề xảy ra đối với lý thuyết
của trường phái Weber, Marshall (1961) đã chỉ ra rằng có nhiều lợi ích khi các công

ty tập trung gần gũi với nhau, thay vì phân tán như trước kia. Lúc này định vị có thể
phân bố tập trung về phía nguồn cung hoặc nguồn cầu (pha 2) [51].
* Ở Việt Nam
Xuất hiện từ những năm 1960, tổ chức lãnh thổ ở Việt Nam chịu ảnh hưởng
bởi lịch sử, cùng với đòi hỏi khách quan từ nhu cầu phát triển kinh tế đất nước, cho
đến nay có thể tạm phân ra thành các thời kỳ sau [14, 30, 31]:
Trước năm 1975: công tác tổ chức lãnh thổ diễn ra chủ yếu ở miền Bắc, tập
trung vào quy hoạch các vùng để thành lập các nông, lâm trường quốc doanh, các
khu kinh tế mới phát triển nông lâm nghiệp, khai hoang và phân bố lại dân cư nông

4
Việt Nam là quốc gia có nhiều ưu đãi để thu hút đầu tư FDI, Thời gian gần đây, dư luận đang đặt ra nhiều
nghi vấn chuyển giá, chốn thuế, đối với một số doanh nghiệp lớn của nước ngoài như Coca Cola, Pepsi,
Metro… Thực tế định vi ở các quốc gia khác sẽ mang lại nhiều lợi ích thuế, chính sách, lao động, thị
trường… cho các công ty. Một câu hỏi định vị quan trọng một lần nữa được đặt ra ―Nội lực hay ngoại lưc?‖
10

thôn [13, 14] . Tiếp đó là tiến hành quy hoạch các tiểu vùng, các vùng kinh tế mới ở
trung du miền núi một số huyện và thị xã. Giai đoạn này nước ta không triển khai
phân vùng, quy hoạch cấp tỉnh và các ngành. Trước đòi hỏi phát triển nông nghiệp
và năng lượng, Uỷ ban sông Hồng đã đưa ra một quy hoạch sử dụng và quản lý
nguồn nước trên một vùng lãnh thổ rộng lớn mà sau đó nhiều công trình thuỷ điện,
thuỷ lợi, phát triển nông nghiệp đã được xây dựng. Các ngành công nghiệp, giao
thông vận tải, văn hoá xã hội cũng đã quy hoạch xây dựng một số công trình cụ
thể. Giai đoạn 1975-1986: Nhà nước đã nhận thức được tầm quan trọng của công
tác quy hoạch và tổ chức lãnh thổ vì vậy đã thành lập Uỷ ban phân vùng quy hoạch,
tiến hành phân vùng kinh tế và cao hơn nữa là nghiên cứu thành lập Tổng sơ đồ
phân bố lực lượng sản xuất giai đoạn 1986-2000 [31]. Về nông lâm nghiệp, nước ta
được chia thành 7 vùng. Ngành công nghiệp và các lĩnh vực khác chưa được đề cập
một cách tổng thể, nhưng các cụm công nghiệp, dịch vụ cũng đã được luận chứng.

Đồng thời, nước ta được chia thành 4 vùng lớn, các vùng, tỉnh và thành phố trực
thuộc Trung ương, các ngành đều được nghiên cúu quy hoạch. Tuy nhiên, do hoàn
cảnh lịch sử thời kỳ này, nước ta đang bị bao vây, cấm vận, nền kinh tế chỉ huy,
chưa có được chiến lược phát triển quốc gia làm căn cứ, điều tra cơ bản chưa đầy
đủ, Vì vậy các quy hoạch vùng và ngành chưa thực sự đi vào thực tế.
Từ năm 1986 đến này: Giai đoạn đổi mới, đất nươc chúng ta có sự chuyển
biến kinh tế nhanh chóng, công tác quy hoạch vùng và tổ chức lãnh thổ cũng đạt
được nhiều thành tựu. Hiện nay hầu hết các tỉnh, thành phố đều có quy hoạch tổng
thể và quy hoạch ngành. Năm 1996, trong đề tài độc lập và trọng điểm cấp nhà
nước do GS Lê Bá Thảo làm chủ nhiệm thực hiện công trình ―cơ sở khoa học của tổ
chức lãnh thổ Việt Nam từ nay đến năm 2020‖ [31] đã đề xuất sơ đồ khối tổ chức
lãnh thổ Việt Nam, định vị được các đối tượng ưu tiên đầu tư theo giai đoạn có tính
đến hiệu quả kinh tế và tác động đến môi trường, chú trọng đến tổ chức không gian
công nghiệp, tổ chức đô thị và tuyến giao thông, xác định các ―nút‖ trọng yếu cần
tác động trước mắt tạo động lực nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào
năm 2020. Hiện nay, nước ta có 4 vùng kinh tế trọng điểm, hình thành nhiều tuyến
hành lang với các nước Đông Nam Á và Trung Quốc. Tuy nhiên chúng ta đang gặp
phải vấn đề về chênh lêch giàu, nghèo, khu vực miền Trung ít được quan tâm đến.
11

Ngoài ra còn có nhiều công trình, đề tài, luận án về tổ chức lãnh thổ ở cấp
phạm vi (tỉnh, vùng). Trong các sách giáo trình, tham khảo đáng chú ý là tác phẩm
"Việt Nam - lãnh thổ và các vùng địa lý" của Lê Bá Thảo (1998) [30]; "Địa lý kinh
tế Việt Nam" của Nguyễn Viết Thịnh và Đỗ Thị Minh Đức; "Địa lý kinh tế - xã hội
Việt Nam" của Lê Văn Thông (chủ biên), Nguyễn Văn Phú và Nguyễn Minh Tuệ
(2001); "Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội" của Ngô Doãn Vịnh và Nguyễn Văn Phú
(2001) ; ―Nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam, Học hỏi và sáng tạo‖ của Ngô Doãn Vịnh (2003) [44]. Các công trình trên đã
đóng góp về mặt lý thuyết nội dung, phương pháp, quan điểm và nguyên tắc tổ chức
lãnh thổ.

Bên cạnh đó, một số đề tài cấp nhà nước về tổ chức lãnh thổ lại mang một ý
nghĩa thực tiễn to lớn. Tổ chức lãnh thổ Đồng bằng sông Hồng và các tuyến trọng
điểm" do Lê Bá Thảo làm chủ nhiệm (Đề tài độc lập cấp Nhà nước, 1994); "Tổ
chức lãnh thổ kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung" do Lưu Đức
Hồng làm chủ nhiệm; "Xác định cơ cấu kinh tế lãnh thổ theo hướng phát triển có
trọng điểm ở Việt Nam" của Ngô Doãn Vịnh và Nguyễn Văn Phú (1998).
Sau cùng, các luận án đóng góp kinh nghiệm thực tiễn tổ chức lãnh thổ, đặc
biệt trên phạm vi lãnh thổ cấp tỉnh và trên các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp,
du lịch: Tổ chức lãnh thổ du lịch thành phố Hải Phòng của Nguyễn Thanh Sơn,
1996; Tổ chức lãnh thổ du lịch Quảng Nam - Đà Nẵng, Trương Phước Minh, 2003;
Nghiên cứu tổ chức lãnh thổ du lịch tỉnh Sơn La , 2010; Tổ chức lãnh thổ du lịch
Hoà Bình trên quan điểm phát triển bền vững, Phạm Lê Thảo, 2006; Tổ chức lãnh
thổ kinh tế tỉnh Bình Định, Hoàng Quý Châu, 2011 [2]; Tổ chức lãnh thổ công
nghiệp tỉnh Nghệ An, Lương Thị Thành Vinh, 2011; Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
tỉnh Nghệ An, Nguyễn Thị Trang Thanh, 2012 [28]. Các tác giả đều nhất trí tầm
quan trọng của tổ chức lãnh thổ, đề xuất được những nội dung của tổ chức lãnh thổ,
tuy nhiên chưa có sự thống nhất về khái niệm, nội dung, phương pháp tổ chức lãnh
thổ và cũng từ sự không thống nhất đó dẫn đến những nhận định đôi khi đồng nhất
quy hoạch tổng thể một vùng, một tỉnh là tổ chức lãnh thổ.

12

Các nghiên cứu về lãnh thổ huyện Sóc Sơn
Các công trình nghiên cứu về nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội: Nghiên
cứu địa chất-địa mạo và tài nguyên trong lòng đất: Nguyễn Văn Hoành và nnk
(1978) Báo cáo địa chất tờ Hà Nội tỷ lệ 1/200.000; Ngô Quang Toàn và nnk (1994)
thành lập bản đồ địa chất và khoáng sản nhóm tờ Hà Nội mở rộng, tỷ lệ 1/50.000.
Đào Đình Bắc (2010), thành lập bản đồ địa mạo cho cả thành phố Hà Nội. Vũ Văn
Phái (ch.b.), 2011 [19] trong cuốn sách Hà Nội - địa chất, địa mạo và tài nguyên
liên quan cũng đã phản ánh đầy đủ về địa chất, địa mạo và khoáng sản Hà Nội, Xác

lập tài nguyên địa hình và định hướng sử dụng hợp lý, trong đó có một phần về Sóc
Sơn. Có ít nghiên cứu về khoáng sản Sóc Sơn, nghiên cứu Kaolin của Lưu Đức Hải
(2002) là nghiên cứu khá đầy đủ, bước đầu lượng giá và tính toán các thiệt hại tài
nguyên và môi trường của hoạt động khai thác và chế biến kaolin; Đề xuất các giải
pháp kỹ thuật và quản lý nhằm giảm thiểu thiệt hại tài nguyên và môi trường phát
sinh trong quá trình khai thác và chế biến kaolin tại huyện Sóc Sơn Hà Nội. Đánh
giá tiềm năng khoáng sản đất sét đồi trong vùng Sóc Sơn để sản xuất gạch nung‖,
KS. Trịnh Thị Hòa nêu sơ lược tình hình địa chất và khoáng sản sét vùng Sóc Sơn,
dự báo tiềm năng đất sét đồi vùng Sóc Sơn phục vụ lâu dài cho công nghiệp vật liệu
xây dựng của thành phố Hà Nội.
Thổ nhưỡng và tài nguyên đất: Các nghiên cứu tập trung vào đất bạc màu và
ứng dụng canh tác cây ngắn ngày (Phạm Văn My, 1995), Xây dựng hệ thống canh
tác phù hợp (Đoàn Văn Điếm, LAPTSKH Nông nghiệp), Đánh giá các loại hình sử
dụng đất nông nghiệp theo hướng bền vững ở huyện Sóc Sơn –Hà Nội (Hoàng
Minh Ngọc, Luận văn thạc sỹ, 2004), Nghiên cứu đặc điểm khí hậu thành phố Hà
Nội (Nguyễn Trọng Hiệu và nnk, 1998). Nghiên cứu nước dưới đất thành phố Hà
Nội khỏi bị cạn kiệt và ô nhiễm (Đoàn Văn Cánh và nnk, 1997), Đa dạng sinh học
và tài nguyên sinh vật có Đặng Huy Huỳnh.
Các công trình đánh giá tổng hợp như Atlas Thăng Long – Hà Nội (Trương
Quang Hải (ch.b.), 2010) [9]. Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội (Viện Việt Nam
học và khoa học phát triển, 2012). Điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên nhiên và môi
trường trong định hướng phát triển không gian thủ đô Hà Nội (Đỗ Xuân Sâm
13

(ch.b.), 2010) [27]. Luận văn Nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển
bền vững nông - lâm nghiệp và du lịch huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội (Tống Võ
Lệ Hà, 2011) [10].
Các vấn đề kinh tế xã hội: Các nghiên cứu về làng nghề huyện Sóc Sơn tập
trung vào Thực trạng phát triển làng nghề huyện Sóc Sơn; Vai trò của công làng
nghề trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá huyện Sóc Sơn. Gắn liền với

làng nghề là vấn đề giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn ngoại thành Hà Nội
(Nguyễn Thị Hải, 2009); Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Sóc
Sơn Hà Nội.
Do quá trình sản xuất của Sóc Sơn, nông nghiệp vẫn là ngành phát triển kinh
tế chính của huyện, do vậy có nhiều nghiên cứu về cây trồng, vật nuôi, ứng dụng
khoa học công nghệ như: Thực trạng và một số giải pháp khuyến nông nhằm phát
triển sản xuất cây ăn quả ở Sóc Sơn Hà Nội (luận văn); Xác định cơ cấu cây trồng
hợp lý ở ngoại thành Hà Nội (LAPTSKH Nông nghiệp, Bùi Thị Xô, 1994); Hiệu
quả kinh tế các loại hình trang trại huyện Sóc Sơn thành phố Hà Nội; Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Sóc Sơn Hà Nội; Ứng dụng khoa học
công nghệ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Sóc Sơn (2005);
Hỏi - đáp công tác bảo vệ và phát triển rừng huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Sóc Sơn là địa bàn có địa hình phức tạp, vẫn còn một số xã khó khăn, các
nghiên cứu hướng vào phân tích Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm xoá đói
giảm nghèo ở một số xã đặc biệt khó khăn huyện Sóc Sơn Thành phố Hà nội; hoặc
cũng có nghiên cứu sử dụng hàm hồi quy để tìm ra nguyên nhân của đói nghèo ở khu
vực này, qua đó đề xuất giải pháp hợp lý.
Vấn đề môi trường đặc biệt nổi cộm thời gian 10 năm trở lại đây. Có nhiều
nghiên cứu tập trung các vấn đề môi trường của bãi rác thải Nam Sơn: Dự án xây
dựng bãi rác thải Nam Sơn - Sóc Sơn; Đánh giá hiệu quả đầu tư, kinh tế - xã hội của
dự án xây dựng bãi rác thải Nam Sơn – Sóc Sơn; Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất
các giải pháp quản lý, xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại địa bàn thị trấn Sóc Sơn - Hà
Nội; Bộ NN & PTNN, 2004. Nghiên cứu, xác định tồn tại, nguồn gốc, quy luật phân
14

bố của Asen trong đất và trong nước ở thành phố Hà Nội. Đề xuất hệ thống giải
pháp phòng ngừa ảnh hưởng của Asen đến sức khoẻ của nhân dân. Hà Nội.
Về công tác Quy hoạch: Từ năm 1979 đến nay, Sóc Sơn là một phần của Hà
Nội, các quy hoạch của Hà Nội đã có nhiều lần thay đổi và đều tác động đến huyện.
Quy hoạch Hà Nội trước 1979: phát triển đa cực và Vĩnh Yên nối 2 cực bằng hệ

thống giao thông cao tốc; Phương án sau 1979: phát triển độc cực tập trung tại khu
vực phía Nam sông Hồng là chủ yếu; Quy hoạch Hà Nội năm 1981: (kết hợp với
các chuyên gia Liên Xô thuộc Viện Quy hoạch Leningrad (1961)). Quy hoạch tổng
thể Thủ đô Hà Nội đến năm 2000 (Phê duyệt tại quyết định số 100TTg ngày
24/4/1981); Quy hoạch Hà Nội năm 1996: Quy hoạch điều chỉnh tổng mặt bằng của
Thủ đô đến năm 2010 (Quyết định số 132 TTg ngày 18/4/1992). Ngày 20/6/1998,
bằng quyết định số 108/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy
hoạch chung thành phố Hà Nội đến 2020. Đây là bản Quy hoạch tổng thể của Hà
Nội được coi là sử dụng hiệu quả nhất từ trước tới nay, được sử dụng làm cơ sở chỉ
đạo thực hiện các quy hoạch chi tiết, triển khai các dự án đầu tư phát triển đô thị
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Gần đây nhất là quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế xã hội đến năm 2030 định hướng đến 2050 theo quyết định QĐ 1878/QĐ-TTg.
Riêng huyện Sóc Sơn từ năm 2000 đến nay đã có các quy hoạch năm 2000, 2007,
và 2012 [5].
Qua tổng quan tài liệu cho thấy, tổ chức lãnh thổ ở Việt Nam phát triển theo
xu hướng ứng dụng nhiều hơn là lý thuyết, ít có công trình đưa ra lý thuyết mới
Việc áp dụng toán học trong tổ chức lãnh thổ còn ít do đó định hướng phân bổ các
nguồn lực có nhược điểm còn cảm tính. Lý thuyết kinh tế tập trung vào kinh tế-xã
hội hơn là kinh tế vĩ mô và vi mô. Tổ chức lãnh thổ biển và đảo gần đây mới được
quan tâm nhưng còn ít. Và rất ít công trình nghiên cứu tổ chức lãnh thổ cấp huyện.
Khu vực Sóc Sơn được chọn là địa bàn nghiên cứu tổ chức lãnh thổ và sử dụng hợp
lý tài nguyên sẽ gặp khó khăn về nguồn tài liệu. Thật vậy, Sóc Sơn là huyện so với
mức trung bình chung của Hà Nội ít được quan tâm. Các công trình nghiên cứu kể
trên hầu hết đều gắn với cả khu vực Hà Nội, do đó chưa đề cập sâu đến thực tế của
15

huyện. Các nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, sử dụng tài nguyên thiên nhiên lại
càng ít hơn nữa.
1.2. Cơ sở khoa học của tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế và sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên

1.2.1. Khái niệm, bản chất của tổ chức lãnh thổ kinh tế
Nghiên cứu tổ chức lãnh thổ trên thế giới rất khác nhau về tên gọi, tuy nhiên
những nội dung chính và cơ bản nhất thì gần như nhau. Ỏ Pháp dùng Tổ chức lãnh
thổ (Organisation du teritoire) song song với đó là kế hoạch thực hiện (Plan). Ở các
nước châu Âu chỉ dùng duy nhất một thuật ngữ Planning (kế hoạch hóa)
5
. Ở Liên
Xô (cũ) sử dụng thuật ngữ phân bố lực lượng sản xuất (hay tổ chức lãnh thổ) và vẫn
có kế hoạch hóa lãnh thổ. Ở Việt Nam hiện nay vẫn dùng cả quy hoạch và kế hoạch
nhưng nội dung không chi tiết như thời bao cấp kế hoạch hóa tập trung. Tổ chức
lãnh thổ là từ chung nghiên cứu về lãnh thổ, sắp xếp, bố trí lãnh thổ nhưng cũng có
kế hoạch thực hiện.
Ở Việt Nam, Ngô Doãn Vịnh (2003) [44] cho rằng: ―TCLT là sự sắp xếp và
phối hợp các đối tượng trong mối liên hệ đa ngành, lĩnh vực và đa ngành lãnh thổ
trong một vùng cụ thể nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, lao
động, vị trí địa lí kinh tế - xã hội và cơ sở vật chất kĩ thuật đã và sẽ tạo dựng để đem
lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao và nâng cao mức sống dân cư của vùng đó‖. Định
nghĩa chỉ ra tổ chức lãnh thổ cơ bản là một khoa học liên ngành, mục tiêu hướng
đến sử dụng hợp lý các tiềm năng. Tuy nhiên định nghĩa trên chưa đưa ra được chủ
thể của tổ chức lãnh thổ là con người, chưa cho thấy được tính liên vùng trong tổ
chức lãnh thổ, chưa đề cập đến vấn đề môi trường.
Trong luận án của mình, Ngô Thúy Quỳnh (2010) [25] đã kế thừa nội dung
quan trọng trong định nghĩa của Ngô Doãn Vịnh, đồng thời bổ sung thêm một số
hạn chế trước đó: ―Tổ chức lãnh thổ kinh tế là việc ―phân bố‖ và ―phối hợp‖ các
hoạt động kinh tế (hoặc các đối tượng kinh tế) và gắn liền với chúng là con người
trong một lãnh thổ xác định, trên cơ sở sử dụng hợp lý các tiềm năng và lợi thế so

5
Theo PGS.TS Nguyễn Hiền, Planning phải dịch là kế hoạch hóa, nhưng Trung Quốc dịch là Quy hoạch, Việt Nam chịu
ảnh hưởng bởi cách dịch này nên đến nay quy hoạch ở Việt Nam tương ứng với Planning ở các nước châu Âu.

16

sánh của lãnh thổ ấy có tính tới mối quan hệ tương tác với lãnh thổ khác để đem lại
hiệu quả kinh tế-xã hội cao và góp phần nâng cao mức sống dân cư, bảo đảm sự
phát triển bền vững của lãnh thổ cũng như góp phần phát triển bền vững của lãnh
thổ xung quanh‖.
Cùng quan điểm với 2 tác giả trên, nhưng Đặng Văn Phan [20, 21, 22] định
nghĩa tổ chức lãnh thổ lại đề cập đến hình thái kinh tế xã hội, tức là phụ thuộc vào
thể chế của một quốc gia, vì thế nên có sự khác biệt trong tổ chức lãnh thổ của các
quốc gia khác nhau, giữa Việt Nam với thế giới: ―Tổ chức lãnh thổ được hiểu như
toàn bộ quá trình hay hành động của con người nhằm phân bố các cơ sở sản xuất và
dịch vụ, phân bố dân cư, sử dụng tự nhiên, có tính đến các mối quan hệ, liên hệ của
chúng, các sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Các hành động này được thực hiện
phù hợp với các mục tiêu của xã hội trên cơ sở các quy luật kinh tế trong hình thái
Kinh tế xã hội tương ứng‖.
Nhìn rộng ra trên thế giới, ở Liên Xô (cũ) những năm 1960 thuật ngữ này
được đề cập đến. Các nhà khoa học Liên Xô cho rằng, phân bố lực lượng sản xuất
được thực hiện trên lãnh thổ cụ thể ở những cấp độ khác nhau; phổ biến là trên các
vùng kinh tế cơ bản (mà ở Việt Nam là những vùng kinh tế - xã hội hay những vùng
lớn) và những vùng kinh tế hành chính tỉnh. Phân bố lực lượng sản xuất được xem
như việc tổ chức sự phối hợp giữa các ngành sản xuất, các quá trình và các cơ sở
sản xuất trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Nền tảng lý luận của phân bố lực
lượng sản xuất là quan điểm và lý thuyết về chu trình sản xuất- năng lượng của
N.N. Kolôxốpsxky và thể tổng hợp lãnh thổ sản xuất.
Ở các nước phương tây, tổ chức không gian được xem như một trong những
hành động hướng tới sự công bằng về mặt không gian, tối ưu hóa các mối quan hệ
hữu cơ giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực với nhau và giữa các cực với không
gian còn lại, nhằm làm cho toàn bộ lãnh thổ phát triển trong thế bền vững; tạo ra
được sự ổn định cần thiết để thiết lập tiền đề cho tăng trưởng, cho phát triển; trong
đó có cả việc tạo ra nhiều việc làm, góp phần bảo đảm quan hệ cung - cầu hàng hóa

và dịch vụ cho bản than lãnh thổ cũng như cho cả các vùng khác.
17

Qua lý luận cho thấy, dù sử dụng khái niệm tổ chức lãnh thổ hay tổ chức
không gian thì nội hàm chủ yếu cũng là sắp xếp các đối tượng/ hoạt động của con
người trong một vùng lãnh thổ hay một không gian xác định. Trong luận văn, học
viên chỉ xác lập cơ sở khoa học cho tổ chức lãnh thổ, chưa tổng hợp lý luận đến
điểm đưa ra định nghĩa mới về tổ chức lãnh thổ so với các học giả trên. Tuy nhiên,
qua tìm hiểu, học viên đưa ra một vài suy nghĩ tổ chức lãnh thổ đối quy mô cấp
huyện. Huyện Sóc Sơn là một trong năm đô thị vệ tinh của Hà Nội, tức là một cực
tăng trưởng so với cực phát triển là trung tâm Hà Nội. Sự phát triển kinh tế của Sóc
Sơn phải gắn chặt với sự phát triển kinh tế của Hà Nội, được coi như là một cầu nối
liên kết Hà Nội với các tỉnh phía Bắc của Vùng Hà Nội. Để làm được điều này phải
có sự phân tích những phân dị địa lý
6
nhằm xác định các cấu trúc không gian (cấu
trúc lãnh thổ), các mối quan hệ lãnh thổ, sự tác động qua lại với các cấu trúc không
gian thành phần để nhận dạng một không gian tổng quát mà ta gọi là không gian
chiến lược. Khác với cấp tỉnh và cấp vùng, thường phải đề cập đến trung tâm
thương mại tầm cỡ, hành lang phát triển, chùm đô thị, thì ở cấp huyện cần nhấn
mạnh đến yếu tố lao động, việc làm, sự phân bố các hoạt động sản xuất, chợ đầu
mối, cấu trúc mạng lưới đường… các phân tích luôn luôn phải gắn kết trong tổng
thể vùng lớn hơn. Đặc biệt, đối với Sóc Sơn, thiết nghĩ là một đô thị vệ tinh thì cần
phải có một ngành chuyên môn hóa nổi trội so với khu vực Hà Nội.
Ngày nay lý thuyết tổ chức phát triển đến khả năng thích ứng với những thay
đổi có diễn biến nhanh và bất ngờ, thực tế đòi hỏi tổ chức lãnh thổ trong tương lai
phải tạo ra một cơ chế ―mềm dẻo‖, bởi vì tính linh động của thị trường, sự suy thoái
kinh tế và những bất trắc về tai biến thiên nhiên, đòi hỏi tổ chức lãnh thổ phải bắt
kịp được với những vận động đó. Đồng thời, tổ chức lãnh thổ từ trước tới nay
thường trả lời các câu hỏi ―What, Where, Who, Why‖ mà When (thời gian) thường

ít được quan tâm, yếu tố này đặc biệt quan trọng ngày nay, khi mà nguồn tài nguyên
thiên nhiên ngày càng khan hiếm, để đảm bảo phát triển bền vững cần thiết trả lời
câu hỏi định vị ―hôm nay hay ngày mai?‖


6
Chữ dùng trong: Đặng Văn Phan, Vũ Như Vân (2002), Tạp chí Khoa học xã hội, số 6
18

1.2.2. Các lý thuyết tổ chức lãnh thổ kinh tế
- Nhóm các lý thuyết cổ điển: Lý thuyết phát triển các vành đai nông nghiệp
trong phạm vi ảnh hưởng của thành phố; Lý thuyết định vị công nghiệp của
A.Weber, W.Christaller và Francois Perroux. Do đây là những lý thuyết kinh điển
và được nhắc đến trong rất nhiều trong những công trình nghiên cứu. Do vậy, mặc
dù luận văn có sử dụng đến những lý thuyết này nhưng không nhắc lại nội dung.
- Quy luật thứ nhất của Tobler về địa lý học
Tobler cho rằng: ―mọi thứ đều có quan hệ với nhau, nhưng những thứ ở gần
nhau có quan hệ mật thiết hơn ở xa‖
7
. Quy luật này dựa trên mô hình trọng lực
gravity và nó cũng liên quan đến luật cầu, tức là mối liên quan giữa vị trí tỷ lệ
nghịch với chi phí đi lại. Quy luật cũng liên quan tới sự phụ thuộc không gian
(Spatial dependence), ứng dụng trong phân tích không gian (spatial analysis). Ví dụ
các tuyến phố, dải đường, vỉa hè, đèn đường phân bố cùng nhau, tạo nên một dạng
tô-pô có mối quan hệ tồn tại.
- Lý thuyết Cluster
8

Đối với Việt Nam, đây là vấn đề mới, chưa được ứng dụng trong thực tiễn
nhưng là hình thưc TCLT kinh tế rất có triển vọng trong tương lai. Ở Việt Nam,

Cluster chưa được nhiều người quan tâm và khái niệm cluster còn chưa được sự
thống nhất. Nhìn chung, các học giả quan tâm đến vấn đề này đều có chung quan
niệm cho đó là ―cụm‖ hoặc ―cụm công nghiệp‖. Hoặc quan niệm đó là ―cụm tương
hỗ phát triển‖. Theo quan niệm của các học giả phương tây, cụm tương hỗ phát triển
là sự tập trung những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác nhau gắn với các nhà cung
ứng (tư vấn, đào tạo, cung cấp điện nước, thông tin, ngân hàng và dịch vụ khác)
trong mối quan hệ tương hỗ cùng phát triển, cùng chia sẻ lợi ích kinh tế có được
nhờ sự liên kết cần thiết. Tại một khu vực địa lý nhất định (nhưng chỉ ước lệ chứ
không có ranh giới xác định) có nhiều doanh nghiệp liên kết với nhau, hỗ trợ nhau,

7
Nguyên văn tiếng anh là: Everything is related to everything else, but near things are more related than
distant things.
8
Trong luận án của Ngô Thúy Quỳnh đã đúc rút đặc điểm cơ bản nhất của lý thuyết Cluster, luận văn tham
khảo kết quả này.

×