Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Đánh giá các điền kiện tự nhiên, kinh tế xã hội bằng hệ thống thông tin địa lý phục vụ dự phòng bệnh sốt rét ở lãnh thổ tỉnh Gia Lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.9 MB, 193 trang )



MỤC LỤC

Mục

Nội dung


Trang


Mở đầu

1
1

Chương 1. cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu dịch bệnh
sốt rét theo quan điểm địa lý y học

5
1.1

Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan

5
1.1.1

Tình hình sốt rét trên thế giới và ở Việt Nam

5


1.1.2

Nghiên cứu đặc điểm và phân vùng dịch tễ sốt rét trên thế giới và ở
Việt Nam

7
1.1.3

Công tác phòng, chống dịch bệnh sốt rét trên thế giới và ở Việt
Nam

10
1.1.4

Các công trình nghiên cứu liên quan đến khu vực Gia Lai

14
1.1.5

Nghiên cứu, ứng dụng Hệ thông tin địa lý trong Địa lý y học

20
1.2

Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt rét

23
1.2.1

Bệnh và dịch bệnh sốt rét


23
1.2.2

Tác nhân gây bệnh

24
1.2.3

Nguồn nhiễm bệnh sốt rét

27
1.2.4

Vectơ truyền bệnh sốt rét

28
1.2.5

Cơ chế lây truyền bệnh sốt rét

30
1.2.6

Tính cảm thụ và miễn dịch trong bệnh sốt rét

31
1.2.7

Mùa sốt rét


31
1.2.8

Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch bệnh sốt rét

32
1.3

Quan điểm và hệ phương pháp nghiên cứu

34
1.3.1

Quan điểm nghiên cứu

34
1.3.2

Đối tượng nghiên cứu

35
1.3.3

Số liệu và tài liệu nghiên cứu

35
1.3.4

Phương pháp nghiên cứu


36


Kết luận chương 1

45
2

Chương 2. các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến
sự phát sinh và lan truyền dịch bệnh sốt rét ở Gia Lai

46
2.1

Vị trí địa lý

46
2.2

Các yếu tố tự nhiên

50
2.2.1

Yếu tố địa hình

50
2.2.2


Yếu tố khí hậu

54
2.2.3

Yếu tố thủy văn, nguồn nước mặt

58
2.2.4

Thảm thực vật

60
2.3

Các yếu tố kinh tế - xã hội

62
2.3.1

Yếu tố dân số

62
2.3.2

Yếu tố kinh tế

67
2.3.3


Yếu tố văn hoá, giáo dục

74
2.3.4

Công tác truyền thông

75
2.3.5

Yếu tố nhận thức, thái độ và hành vi về phòng, chống bệnh sốt rét

76


Kết luận chương 2

78
3

Chương 3. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt rét ở Gia Lai

80
3.1

Thành phần loài muỗi Anopheles ở Gia Lai

80
3.2


Phân bố muỗi Anopheles ở Gia Lai

83


3.2.1

Theo vùng địa lý tự nhiên

83
3.2.2

Theo sinh cảnh

86
3.3

Biến động số lượng muỗi Anopheles tại các vùng sốt rét lưu
hành

90
3.4

Mùa truyền bệnh sốt rét ở Gia Lai

92
3.4.1

Mùa phát triển của An.minimus


93
3.4.2

Mùa phát triển của An.dirus

94
3.5

Phân bố bệnh nhân sốt rét ở Gia Lai

96
3.5.1

Theo không gian

96
3.5.2

Theo thời gian

98
3.5.3

Theo thành phần dân số

98
3.5.4

Theo thành phần dân tộc


99


Kết luận chương 3

100
4

Chương 4. dự báo nguy cơ sốt rét và đề xuất một số giải pháp
tăng cường công tác y tế dự phòng bệnh sốt rét ở Gia Lai trên
cơ sở ứng dụng hệ thống thông tin địa lý


101
4.1

ứng dụng Hệ thông tin địa lý và phương pháp toán trong dự
báo nguy cơ sốt rét ở Gia Lai

101
4.1.1

Xây dựng cơ sở dữ liệu địa lý tỉnh Gia Lai

101
4.1.2

Kỹ thuật phân tích và xử lý dữ liệu

113

4.2

Dự báo dịch bệnh sốt rét ở Gia Lai

117
4.2.1

Mô hình dự báo

118
4.2.2

Dự báo nguy cơ tự nhiên

121
4.2.3

Dự báo nguy cơ thực tế

125
4.3

Một số giải pháp tăng cường công tác y tế dự phòng bệnh sốt
rét ở Gia Lai

129
4.3.1

Hiện trạng mạng lưới y tế


129
4.3.2

Nhiệm vụ

131
4.3.3

Giải pháp

136


Kết luận chương 4

139


Kết luận

140


KIẾN NGHỊ

142


danh mục công trình công bố của tác giả


143


Tài liệu tham khảo

144


Phụ lục

160
178









DANH MỤC
CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BNSR
:
Bệnh nhân sốt rét
BVTV
:
Bảo vệ thực vật

CCĐT
:
Căn cứ điều trị
CSL
:
Chỉ số lách
CNTT
:
Công nghệ thông tin
CSDL
:
Cơ sở dữ liệu
CSSK
:
Chăm sóc sức khoẻ
CSYT

Cơ sở y tế
DDT
:
Dichloro Diphenyl Trichloroethane
Hoá chất diệt muỗi
DSS
:
Hệ thống trợ giúp quyết định
ĐCCT
:
Địa chất công trình
ĐCTV
:

Địa chất thuỷ văn
GIS
:
Hệ thống thông tin địa lý
GPS
:
Hệ thống định vị toàn cầu
Epi Info,
HealthMapper

:
Phần mềm thu thập, xử lý số liệu thống kê
và tạo tập bản đồ y tế công cộng
KHQDY
:
Kết hợp quân dân y
KSTSR
:
Ký sinh trùng sốt rét
PCSR
:
Phòng chống sốt rét
QDY
:
Quân dân y
SRAT
:
Sốt rét ác tính
SRLH
:

Sốt rét lưu hành
TBBB
:
Thương binh, bệnh binh
TTĐL
:
Thông tin địa lý
UML
:
Ngôn ngữ mô hình hoá thống nhất
WHO
:
Tổ chức Y tế thế giới







DANH MỤC CÁC BẢNG



STT
Tên và nội dung bảng

Trang
1
Bảng 2.1

Dân số và dự báo dân số tỉnh Gia Lai
63
2
Bảng 2.2
Dân số phân theo dân tộc
64
3
Bảng 2.3
So sánh mức thu nhập bình quân giữa Gia Lai và phụ
cận
68
4
Bảng 2.4
GDP/người của Gia Lai so với vùng Tây Nguyên và cả
nước
69
5
Bảng 2.5
Mạng lưới cơ sở y tế tỉnh Gia Lai
70
6
Bảng 2.6
Một số chỉ tiêu chung của Ngành Y tế tỉnh Gia Lai
72
7
Bảng 2.7
Một số chỉ số về giáo dục tỉnh Gia Lai
74
8
Bảng 2.8

Một số chỉ số về trung học chuyên nghiệp và cao đẳng,
đại học
75
9
Bảng 2.9
Thông tin về bệnh sốt rét qua các kênh thông tin
76
10
Bảng 2.10
Kết quả điều tra kiến thức, thái độ và hành vi của người
dân sống trong các vùng cây công nghiệp
77
11
Bảng 3.1
Thành phần loài muỗi Anopheles ở Gia Lai
81
12
Bảng 3.2
Phân bố muỗi Anopheles theo vùng địa lý tự nhiên
84
13
Bảng 3.3
Phân bố muỗi Anopheles theo các dạng sinh cảnh
87
14
Bảng 3.4
Phân bố bọ gậy muỗi Anopheles trên một số dạng thuỷ
vực
89
15

Bảng 3.5
Biến động mật độ và tỷ lệ loài muỗi trên các vùng sốt rét
lưu hành
90
16
Bảng 3.6
Mật độ và tỷ lệ các loài muỗi Anopheles trên các dạng
sinh cảnh
91
17
Bảng 3.7
ảnh hưởng của các yếu tố thời tiết đến sự phát triển của
KSTSR
93
18
Bảng 3.8
Bệnh nhân sốt rét điều trị tại các cơ sở y tế Gia Lai
97
19
Bảng 3.9
Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét ở các dân tộc
99
20
Bảng 4.1
Danh mục đối tượng địa lý cơ sở (nhóm Địa giới hành
chính)
105
21
Bảng 4.2
Danh mục đối tượng địa lý cơ sở (nhóm Hạ tầng dân cư)

105
22
Bảng 4.3
Thuộc tính đối tượng địa lý cơ sở (nhóm Địa giới hành
chính)
106
23
Bảng 4.4
Thuộc tính đối tượng địa lý cơ sở (nhóm Hạ tầng dân cư)
106
24
Bảng 4.5
Lược đồ ứng dụng CSDL nền địa lý tỷ lệ 1/50.000
107


25
Bảng 4.6
Các yếu tố ảnh hưởng tới bệnh sốt rét và chỉ số của
chúng
121
26
Bảng 4.7
Tiêu chuẩn đánh giá nguy cơ tự nhiên bệnh dịch sốt rét
123
27
Bảng 4.8
Mức nguy cơ sốt rét tự nhiên và phân bố theo đơn vị
hành chính
123

28
Bảng 4.9
Tiêu chuẩn đánh giá nguy cơ thực tế bệnh dịch sốt rét
125
29
Bảng 4.10
Mức nguy cơ sốt rét thực tế và phân bố theo đơn vị hành
chính
127
30
Bảng 4.11
Một số chỉ tiêu phát triển ngành Y tế tỉnh Gia Lai tới
2020
132

























DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

STT
Tên và nội dung hình vẽ, đồ thị

Trang
1
Hình 1.1
Sơ đồ phân vùng dịch tễ sốt rét và can thiệp ở Việt Nam và
khu vực Miền Trung - Tây Nguyên
9
2
Hình 1.2
Phân bố Anopheles chính ở Việt Nam
25
3
Hình 1.3
Các giai đoạn phát triển của muỗi Anopheles truyền sốt rét
28
4
Hình 1.4
Sơ đồ lây truyền bệnh sốt rét (Vũ Thị Phan, 1996)

32
5
Hình 1.5
Mô hình khái niệm nghiên cứu
37
6
Hình 2.1
Vị trí tỉnh Gia Lai trong lãnh thổ Việt Nam
47
7
Hình 2.2
Bản đồ hành chính tỉnh Gia Lai
49
8
Hình 2.3
Mô hình số độ cao tỉnh Gia Lai
51
9
Hình 2.4
Bản đồ phân tầng độ cao theo quy luật phân bố muỗi
53
10
Hình 2.5
Nhiệt độ trung bình các tháng trong năm
54
11
Hình 2.6
Chế độ ẩm trung bình các tháng trong năm
55
12

Hình 2.7
Lượng mưa trung bình tháng tỉnh Gia Lai
56
13
Hình 2.8
Bản đồ phân vùng lượng mưa tỉnh Gia Lai
57
14
Hình 2.9
Bản đồ mật độ thuỷ văn tỉnh Gia Lai
59
15
Hình 2.10
Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Gia Lai năm 2007
61
16
Hình 2.11
Bản đồ mật độ dân số (theo đơn vị hành chính cấp xã) tỉnh
Gia Lai
65
17
Hình 2.12
Phân bố bệnh nhân sốt rét các tỉnh Miền Trung - Tây Nguyên
68
18
Hình 2.13
Mạng lưới cơ sở y tế tỉnh Gia Lai
71
19
Hình 2.14

Cơ sở dữ liệu Mạng giao thông khu vực Tây Nguyên
73
20
Hình 3.1
Định dạng muỗi Anopheles ở Việt Nam
83
21
Hình 3.2
Mùa phát triển của An.minimus
94
22
Hình 3.3
Mùa phát triển của An.dirus
95
23
Hình 3.4
Mùa truyền bệnh sốt rét ở Gia Lai
95
24
Hình 3.5
Tình hình sốt rét ở huyện ChưPrông
96
25
Hình 3.6
Tình hình sốt rét ở huyện Đức Cơ
96
26
Hình 3.7
Tình hình sốt rét ở huyện Kông Chro
97

27
Hình 3.8
Tình hình sốt rét ở Gia Lai giai đoạn 2000-2005
98
28
Hình 3.9a
Bệnh nhân sốt rét từ 0 đến 5 tuổi
98
29
Hình 3.9b
Bệnh nhân sốt rét từ 5 đến 14 tuổi
98
30
Hình 3.10
Bệnh nhân sốt rét mang thai
99
31
Hình 4.1
Mô hình cơ sở dữ liệu GIS tỉnh Gia Lai
104


32
Hình 4.2
Lược đồ ứng dụng CSDL GIS Gia Lai (nhóm Hạ tầng dân cư)
108
33
Hình 4.3
Mô hình khái quát tổ chức siêu dữ liệu
111

34
Hình 4.4
Siêu dữ liệu địa lý tỷ lệ 1/50.000 khu vực tỉnh Gia Lai
112
35
Hình 4.5
Mô hình kết xuất, hiển thị dữ liệu địa lý
113
36
Hình 4.6
Giao diện hệ quản trị CSDL địa lý tỉnh Gia Lai
113
37
Hình 4.7
Tra cứu, tìm kiếm thông tin địa lý theo địa danh
114
38
Hình 4.8
Phân tích địa hình từ Mô hình số độ cao tỉnh Gia Lai
114
39
Hình 4.9
Phân tích, triết xuất thông tin bằng công cụ của Hệ chuyên gia
115
40
Hình 4.10
Giao diện Hệ thống hỗ trợ quyết định
116
41
Hình 4.11

Bản đồ dự báo nguy cơ sốt rét tự nhiên
122
42
Hình 4.12
Bản đồ dự báo nguy cơ sốt rét thực tế
126












MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là tăng trưởng kinh tế phải đi đôi
với công bằng xã hội. Đầu tư, phát triển hệ thống y tế, nâng cao chất lượng
công tác chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng, đặc biệt với người nghèo, vùng
sâu, vùng xa là thể hiện bản chất nhân đạo và thực hiện định hướng công bằng
xã hội.
Tây Nguyên có vị trí đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, an
ninh - quốc phòng. Trong quá trình phát triển đất nước “Tây Nguyên là địa
bàn chiến lược quan trọng của đất nước cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng
- an ninh, có lợi thế để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, sản xuất hàng hoá
kết hợp với công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp năng lượng và công

nghiệp khai thác khoáng sản. Xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững
mạnh về quốc phòng, an ninh, tiến tới thành vùng kinh tế động lực”. (Trích
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX) [96].
Tây Nguyên tuy có vị trí đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phòng, nhưng lại là địa bàn rộng, địa hình phức tạp, cơ sở
hạ tầng kém, dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu, tình hình bệnh sốt
rét ở Tây Nguyên dai dẳng hơn so với các khu vực khác trên cả nước: 92% số
huyện và 57% dân số sống trong vùng sốt rét lưu hành… Công tác thống kê,
quản lý nguồn bệnh và dự báo nguy cơ dịch bệnh là vấn đề còn rất nan giải
của ngành Y tế công cộng trong khu vực.
Gia Lai là trung tâm kinh tế - văn hoá của Tây Nguyên và cũng là một
trong các tỉnh đứng đầu của cả nước và đứng đầu khu vực Tây Nguyên về tỷ
lệ tử vong do sốt rét. Năm 2007 toàn tỉnh có 2 trường hợp tử vong do sốt rét;
năm 2008 tổng số người mắc sốt rét trên địa bàn tỉnh giảm còn 2.376 người
nhưng số ca tử vong lên đến 5 trường hợp. Chỉ 3 tháng đầu năm 2009, tình
hình sốt rét diễn biến phức tạp, số người mắc sốt rét tăng 15,18%; ký sinh


- 2 -
trùng sốt rét tăng 45,90% so với cùng kỳ năm 2008 và đã có 2 trường hợp tử
vong.
Bệnh sốt rét ở Gia Lai nói riêng, cũng như ở các vùng khác trong cả
nước nói chung chịu ảnh hưởng nhiều bởi các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội, có tính địa phương, phát sinh và phát triển theo mùa. Vì vậy, nghiên cứu,
đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ở lãnh thổ Gia Lai làm cơ sở
khoa học cho mục đích bảo đảm công tác y tế dự phòng bệnh sốt rét là vấn đề
cần thiết, cấp bách.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài “Đánh giá
các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội bằng hệ thống thông tin địa lý phục
vụ dự phòng bệnh sốt rét ở lãnh thổ tỉnh Gia Lai".

2. Mục tiêu và nhiệm vụ
Mục tiêu của đề tài là đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát sinh và lan truyền dịch bệnh sốt rét
trên cơ sở ứng dụng hệ thống thông tin địa lý, nhằm:
- Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt rét ở Gia Lai;
- Đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến
khả năng phát sinh và lan truyền dịch bệnh sốt rét;
- Đề xuất một số giải pháp thích hợp nhằm tăng cường dự phòng bệnh
sốt rét ở Gia Lai.
Để làm sáng tỏ mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra:
- Xác lập cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu;
- Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng các yếu tố môi trường, điều kiện dịch
tễ ảnh hưởng trực tiếp tới phát sinh và lan truyền bệnh sốt rét ở Gia Lai;
- Phân tích và đánh giá đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt rét ở Gia Lai;
- Dự báo nguy cơ bệnh sốt rét ở Gia Lai với việc ứng dụng GIS và
phương pháp toán định lượng, đồng thời đề xuất các giải pháp quy hoạch, tổ
chức công tác y tế dự phòng dịch bệnh sốt rét cho lãnh thổ tỉnh Gia Lai.


- 3 -
3. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Phạm vi không gian: Được giới hạn trong phạm vi lãnh thổ tỉnh Gia
Lai và phụ cận.
- Phạm vi khoa học: Với mục tiêu và nhiệm vụ đã đặt ra, luận án chỉ
giới hạn phạm vi nghiên cứu những vấn đề sau:
 Xây dựng các chỉ tiêu về nguyên nhân phát sinh và cơ chế lan truyền
dịch bệnh sốt rét ở Gia Lai;
 Phân tích, đánh giá thực trạng và dự báo nguy cơ sốt rét với sự hỗ trợ
của GIS và phương pháp toán, đồng thời đề xuất một số giải pháp phòng,
chống dịch bệnh sốt rét trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ giữa các điều kiện

địa lý và bệnh sốt rét, công tác y tế dự phòng dịch bệnh sốt rét.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học:
Kết quả nghiên cứu của luận án làm rõ mối quan hệ giữa các điều kiện
địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội với bệnh sốt rét ở Gia Lai nói riêng và Tây
Nguyên nói chung. Đồng thời chỉ rõ khả năng mở rộng ứng dụng phương
pháp nghiên cứu địa lý với việc hỗ trợ ra quyết định bằng GIS giải quyết các
vấn đề cấp bách mang tính chất xã hội, trong đó có dịch bệnh sốt rét.
- Ý nghĩa thực tiễn:
 Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn
giúp tỉnh xây dựng chiến lược và thực hiện các giải pháp mạnh, thích hợp cho
công tác bảo đảm y tế dự phòng trong điều kiện cụ thể ở Gia Lai nhằm phòng,
chống dịch bệnh sốt rét nói riêng, dịch bệnh truyền nhiễm nói chung;
 Kết quả và phương pháp nghiên cứu của luận án cũng có thể áp dụng
cho các nghiên cứu phục vụ bảo đảm y tế dự phòng ở các địa bàn khác.
5. Những điểm mới của luận án
- Đã xác lập được tiêu chuẩn đánh giá nguy cơ sốt rét tự nhiên và nguy
cơ sốt rét thực tế ở Gia Lai;
- Đã xây dựng tập bản đồ chuyên đề và cơ sở dữ liệu địa lý trên cơ sở
áp dụng Quy chuẩn thông tin địa lý quốc gia, phục vụ công tác phòng chống
dịch bệnh sốt rét của Gia Lai;


- 4 -
- Dự báo nguy cơ tự nhiên và thực tế bệnh sốt rét ở Gia Lai với sự hỗ
trợ của GIS và phương pháp toán;
- Điều chỉnh một số giải pháp thích hợp phòng chống bệnh sốt rét trên
quan điểm địa lý y học.

6. Những luận điểm bảo vệ

- Luận điểm 1: Trên quan điểm Địa lý y học, dịch bệnh sốt rét được coi
là một loại hình tai biến tự nhiên - nhân sinh, có tính địa phương, phát sinh
và phát triển theo mùa, ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ cộng đồng, có nguy cơ
phát triển mạnh ở vùng núi, cao nguyên tỉnh Gia Lai.
- Luận điểm 2: Ứng dụng hệ thông tin địa lý và phương pháp toán
trong quản lý và dự báo nguy cơ dịch bệnh sốt rét ở Gia Lai là những phương
pháp đưa lại các kết quả có độ tin cậy cao, tạo cơ sở khoa học đề xuất một số
giải pháp quy hoạch và tăng cường công tác y tế dự phòng dịch bệnh sốt rét ở
Gia Lai.
7. Cơ sở tài liệu thực hiện luận án gồm i) Dự án xây dựng cơ sở dữ
liệu địa lý quân sự theo chuẩn quốc gia, Cục Bản đồ BTTM, 1999 – 2008; ii)
Các đề tài, dự án ứng dụng bản đồ số và hệ thông tin địa lý trong các hoạt
động kinh tế - quốc phòng; iii) Thừa kế kết quả các công trình nghiên cứu
cùng lĩnh vực, cùng khu vực của các tác giả đi trước.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 04 chương được trình bày
trong 142 trang đánh máy, có sử dụng 30 bảng, 42 hình, biểu đồ, bản đồ và 05
phụ lục để minh họa.
Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu dịch bệnh sốt rét
theo quan điểm Địa lý y học.
Chương 2: Các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự phát
sinh và lan truyền dịch bệnh sốt rét ở Gia Lai.
Chương 3: Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt rét ở Gia Lai.
Chương 4: Dự báo nguy cơ sốt rét và đề xuất một số giải pháp tăng
cường công tác y tế dự phòng dịch bệnh sốt rét ở Gia Lai trên cơ sở ứng dụng
hệ thống thông tin địa lý.


- 5 -






Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
DỊCH BỆNH SỐT RÉT THEO QUAN ĐIỂM ĐỊA LÝ Y HỌC
Nội dung của chương này trình bày tổng quan cơ sở lý luận, hệ phương
pháp nghiên cứu dịch bệnh sốt rét và công cuộc phòng, chống sốt rét trên thế
giới và Việt Nam. Các vấn đề được nghiên cứu trong mối quan hệ biện chứng
giữa các điều kiện môi trường với sự hình thành và khả năng lan truyền dịch
bệnh sốt rét theo quan điểm địa lý ứng dụng.
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
1.1.1. Tình hình sốt rét trên thế giới và ở Việt Nam
a) Tình hình sốt rét trên thế giới: Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO),
năm 1993 dân số thế giới là 5 tỷ 540 triệu người thì có đến 2 tỷ 20 triệu người
(bằng 36% dân số thế giới) sống trong vùng có sốt rét, 9% dân số sống trong
vùng sốt rét lưu hành nặng [153]. Hàng năm, trên thế giới có khoảng 300-500
triệu người mắc bệnh sốt rét (trong đó hơn 90% ở Châu Phi nhiệt đới) và đã
đăng ký được từ 5 đến 6 triệu ca sốt rét có ký sinh trùng sốt rét (KSTSR),
nhưng trong thực thế con số này ước tính lớn hơn 4-5 lần [82], [155].
Năm 1993, số sốt rét đăng ký được là 51 triệu (trừ Nam Sahara, Châu
Phi) thì 2/3 là từ sáu nước: Ấn Độ, Braxin, Srilanca, Việt Nam, Colombia và
đảo Solomon (theo trật tự từ cao đến thấp). Chết do sốt rét từ 1,5-2,7 triệu
người mỗi năm (riêng Châu Phi chiếm 80%), trong đó gần 1 triệu trẻ em dưới
5 tuổi. Tính ra, cứ 30 giây lại có một trường hợp tử vong do sốt rét [22], [23],


- 6 -
[82], [105]. Ở các khu vực ngoài Châu Phi, mỗi năm ước tính có khoảng

100.000 người chết do sốt rét [160].
Ở khu vực Tây Thái Bình dương, sốt rét lưu hành là vấn đề bức thiết
cho y tế cộng đồng, có 115 triệu trong tổng số 1.172 triệu người còn sống
trong vùng sốt rét lưu hành, gồm chín nước: Campuchia, Lào, Malayxia,
Papua New Guine, Philippin, Solomon, Vanuatu và Việt Nam. Năm 1996 ở
các nước này có 479.000 bệnh nhân sốt rét có KSTSR, khoảng 2,5 triệu bệnh
nhân sốt rét lâm sàng và khoảng 20.000 người chết do sốt rét. Đặc biệt, trong
năm 1991, quần đảo Solomon có 141.413 người mắc sốt rét, cao gấp 2 lần so
với năm 1989 (65.241 ca) và tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng từ 35,4%-43,97%
(năm 1991). Các chuyên gia nhận định, ngoài Châu Phi nhiệt đới thì quần đảo
Solomon là một trong những nơi sốt rét lưu hành nặng nhất trên thế giới [23],
[82].
b) Tình hình sốt rét ở Việt Nam: Trước năm 1945, bệnh sốt rét lưu hành
rộng rãi không chỉ ở các tỉnh miền núi như Lào Cai, Yên Bái mà còn theo
những người làm đường xe lửa về miền đồng bằng gây nên những vụ dịch ở
các tỉnh châu thổ sông Hồng như Hà Đông (1905) và một số tỉnh khác như
Bắc Ninh, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình [1], [21].
Cuộc kháng chiến chín năm chống Thực dân Pháp xâm lược (1946-
1954) đã cuốn hút hàng vạn người từ đồng bằng lên miền núi Việt Bắc tham
gia kháng chiến, do hoàn cảnh chiến tranh làm cho công tác phòng chống sốt
rét gặp rất nhiều khó khăn và vì thế rất nhiều người đã bị sốt rét, đặc biệt đồng
bào tản cư từ vùng tạm chiếm ra vùng kháng chiến bị sốt rét rất nhiều và rất
nặng [1], [22], [82].
Giai đoạn 1958-1964, chúng ta đã thực hiện chiến lược tiêu diệt bệnh
sốt rét ở Miền Bắc và giành được thành tựu to lớn: tỷ lệ KSTSR/lam giảm 20
lần (từ 5,6% xuống còn 0,28%). Năm 1964, toàn miền chỉ có 68 ca sốt rét ác


- 7 -
tính (SRAT), tử vong 16 ca. Từ năm 1965 đến 1975, chiến tranh phá hoại của

Mỹ ở Miền Bắc gây nhiều khó khăn và tình hình sốt rét có xấu đi, nhưng
không có những đột biến gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ nhân dân.
Từ năm 1976 - 1980, tình hình phòng chống sốt rét diễn ra thuận lợi, tỷ
lệ KSTSR ở các tỉnh phía Nam giảm mạnh, từ 11,78% KSTSR/lam (1976)
xuống 3,5% KSTSR/lam (1980). Cả nước từ 2,8% KSTSR/lam xuống còn
1,7% KSTSR/lam (1980). Dịch sốt rét giảm từ 88 vụ (1976) xuống 21 vụ
(1980) [105], [106].
Tuy nhiên, trong những năm 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, đặc
biệt giai đoạn 1985-1992, những khó khăn do khủng hoảng kinh tế và giao
lưu lớn sau chiến tranh, nguồn lực cho phòng, chống sốt rét (PCSR) cạn kiệt
do không còn viện trợ, mạng lưới y tế cơ sở (xã, thôn bản) vừa yếu lại thiếu,
ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc và muỗi kháng hoá chất Dichloro - Diphenyl
- Trichloroethane (DDT) phổ biến là điều kiện để dịch sốt rét quay trở lại
trong phạm vi cả nước với tốc độ nhanh và ngày càng nghiêm trọng: số chết
do sốt rét năm 1985 là 1.413 người tăng lên 3.493 người năm 1989 và đỉnh
cao vào năm 1991 với hơn 1 triệu người mắc, 144 vụ dịch và 4.646 người
chết do sốt rét. Bệnh sốt rét hoành hành ở hầu khắp các khu vực miền núi và
nông thôn nước ta. Sau 10 năm chuyển sang thực hiện chiến lược PCSR
(1991-2000), bệnh nhân sốt rét giảm 73,15%, KSTSR giảm 60,46%, dịch sốt
rét giảm 98,6%, chết do sốt rét giảm 64,98% [22], [84], [105], [106], [125].
1.1.2. Nghiên cứu đặc điểm và Phân vùng dịch tễ sốt rét trên thế giới
và ở Việt Nam
a) Phân vùng dịch tễ sốt rét trên thế giới: Năm 1938, Gilles phân vùng
dịch tễ sốt rét theo khí hậu [81], đến năm 1957 Macdonald đã phân vùng sốt
rét trên thế giới thành 12 vùng.


- 8 -
Năm 1968, Lysenko và Samaschko phân vùng theo địa lý (vùng lớn) và
các tiểu vùng theo những loại hình sốt rét khác nhau.

Giai đoạn Tiêu diệt sốt rét, WHO dựa vào tỷ lệ lách sưng ở trẻ em từ 2-
9 tuổi gọi là chỉ số lách (CSL) và phân thành 4 vùng dịch tễ sốt rét:
- Vùng lưu hành nhẹ: CSL ở trẻ em từ 2-9 tuổi < 10%.
- Vùng lưu hành vừa: CSL ở trẻ em từ 2-9 tuổi từ 11-50%.
- Vùng lưu hành nặng: CSL ở trẻ em từ 2-9 tuổi >50%.
- Vùng lưu hành rất nặng: CSL ở trẻ em từ 2-9 tuổi trên 75%.
Đến năm 1979 chuyển sang chiến lược PCSR, WHO lại chia sốt rét
thành các loại hình sốt rét [21], [81]:
- Sốt rét ở vùng bìa rừng (thuộc Nam Mỹ và Đông Nam Á).
- Sốt rét ở những vùng kinh tế khai hoang.
- Sốt rét ở những cộng đồng kinh tế du canh, du cư vùng rừng núi.
- Sốt rét ở những vùng trồng bông kéo theo nhiều lao động từ vùng
khác tới.
- Sốt rét ở những vùng chính trị - xã hội không ổn định, biến động dân
số lớn, tổ chức y tế yếu kém.
b) Phân vùng dịch tễ sốt rét ở Việt Nam: Trong quá trình PCSR, ở Việt
Nam đã có 4 lần phân vùng dịch tễ sốt rét và 1 lần điều chỉnh phân vùng cho
các tỉnh phía Nam để phục vụ cho chiến lược tiêu diệt, PCSR trong từng giai
đoạn:
Giai đoạn 1931-1936: Các tác giả người Pháp phân chia thành các vùng
[Trích theo 81]:
- Vùng 0: Vùng ven biển nước lợ.
- Vùng 1: Vùng đồng bằng nước ngọt (thực tế không có sốt rét lưu
hành).


- 9 -
- Vùng 2: Vùng đồi quá độ, đồi thấp, đồng cỏ hoặc rừng thưa. Ở một
số nơi có sốt rét lưu hành (SRLH) nhẹ.
- Vùng 3: Vùng đồi cao, núi đá thấp nhiều hoặc ít rừng độ cao từ 200-

500m trên mặt biển, nước chảy, sốt rét lưu hành nặng.
- Vùng 4: Vùng núi rừng Tây Nguyên. Đồng bào sống chủ yếu du
canh, du cư hoặc định canh, du cư, sốt rét lưu hành rất nặng.
- Vùng 5: Vùng cao từ 1100-1200m trên mặt nước biển, sốt rét không
lưu hành.
Giai đoạn Tiêu diệt sốt rét (1958-1964) Đặng Văn Ngữ phân vùng dịch
tễ học bệnh sốt rét thành 7 vùng theo đặc trưng sinh cảnh [21], [81]:
- Vùng 1: Vùng đồng bằng có độ cao từ 0-50m so với mực nước biển,
không có SRLH, song có khả năng xảy ra dịch nếu có nguồn bệnh mang từ
nơi khác tới.
- Vùng 2: Vùng nước chảy núi đồi thấp, có độ cao 100-200m so với
mực nước biển, có SRLH nhẹ.
- Vùng 3: Vùng nước chảy, núi đồi có độ cao từ 200-400m so với mực
nước biển, đây là vùng có SRLH vừa.
- Vùng 4: Vùng nước chảy, núi rừng có độ cao 400-800m so với mực
nước biển, có nhiều khe suối, là vùng SRLH nặng.








- Vùng 5: Vùng
cao nguyên, địa hình
tương đối bằng phẳng, có
khe suối, khí hậu lạnh,
SRLH ở mức độ vừa và
nhẹ.

- Vùng 6: Vùng
núi cao trên 800m đến
1000m, khe suối ít, nước
chảy thành thác, khí hậu
lạnh quanh năm, không
có SRLH, nhưng dân cư
có thể bị sốt rét do bị lây
khi xuống núi.
- Vùng 7: Vùng
đồng bằng ven biển nước


Khu vực
Miền Trung - Tây
Nguyên


- 10 -










Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, Vũ Thị Phan [81] cùng
cộng sự đã phân vùng dịch tễ sốt rét trên cả nước thành 5 vùng dịch tễ và thực

hành (vùng A, B, C, D, E). Việc phân vùng này kế thừa sự phân vùng của
Đặng Văn Ngữ và dựa vào các yếu tố như: Yếu tố tự nhiên, yếu tố về muỗi
truyền bệnh sốt rét, yếu tố về mầm bệnh (KSTSR), yếu tố về kinh tế - xã hội,
yếu tố về mạng lưới y tế và chuyên khoa sốt rét.
Từ năm 1992 đến nay, thực hiện chiến lược PCSR của Quốc gia, trong
vùng 4, chúng ta có thêm các tiểu vùng:
- Tiểu vùng 4a: Nước chảy núi rừng Miền Bắc.
- Tiểu vùng 4b: Nước chảy núi rừng Miền Trung và Tây Nguyên.
- Tiểu vùng 4c: Miền Đông Nam Bộ.
Trong các vùng có một số loại hình sốt rét như: Sốt rét vùng thủy điện,
sốt rét vùng trồng cây công nghiệp, sốt rét vùng trồng dâu nuôi tằm, sốt rét
vùng đồng bào du canh du cư, sốt rét ở đồng bào sống định cư du canh
Những nghiên cứu gần đây tập trung vào đặc điểm dịch tễ của từng vùng, tiểu
vùng, loại hình sốt rét để đề ra các biện pháp PCSR thích hợp [75], [81],
[127].
Do đặc điểm địa hình, sinh cảnh, vai trò của An.minimus và An.dirus,
điều kiện kinh tế xã hội và mạng lưới y tế cơ sở, khu vực Miền Trung - Tây
Nguyên được chia theo 5 vùng dịch tễ sốt rét can thiệp là : Vùng không có sốt
rét lưu hành; Vùng có nguy cơ sốt rét quay lại; Vùng có sốt rét lưu hành nhẹ;
Vùng có sốt rét lưu hành vừa và Vùng có sốt rét lưu hành nặng.
1.1.3. Công tác phòng, chống dịch bệnh sốt rét trên thế giới và ở Việt
Nam


- 11 -
a) Trên thế giới: Chiến lược tiêu diệt bệnh sốt rét trên toàn cầu bắt đầu
thực hiện từ năm 1955 với 4 giai đoạn: Chuẩn bị, tấn công, củng cố và bảo vệ
thành quả. Trong 10 năm đầu (1955-1964), chiến lược tiêu diệt sốt rét chưa
gặp khó khăn và đạt được nhiều kết quả khả quan, một số nước Châu Âu,
Châu Mỹ đã đạt được mục tiêu của chương trình. Nhưng ngay từ những năm

1960 đã xuất hiện những khó khăn về mặt kỹ thuật: một số loài Anopheles
kháng DDT và dieldrin hoặc trú ẩn ban ngày ngoài nhà, P.falciparum kháng
thuốc ở Nam Mỹ và Đông Nam Á. Ở những nơi đi vào giai đoạn củng cố thì
những yếu tố biến động dân cư cao, y tế yếu kém, giảm nguồn viện trợ làm
cho công cuộc bảo vệ thành quả của giai đoạn tấn công không được duy trì
thích đáng. Trước sự phát triển phức tạp của tình hình sốt rét trên thế giới,
năm 1969 Đại Hội đồng Y tế thế giới (khoá họp thứ 22) đã ra quyết định: Mục
tiêu cuối cùng vẫn là tiêu diệt sốt rét, song cần có chủ trương phù hợp với mỗi
nước theo các tình huống cụ thể như sau:
- Những nước tiêu diệt sốt rét thuận lợi vẫn tiếp tục tiêu diệt sốt rét.
- Những nước tiêu diệt sốt rét chỉ có trên danh nghĩa, còn trong hành
động chỉ là PCSR thì tiếp tục PCSR như một bước đi tới tiêu diệt sốt rét.
- Những nước đang ở giai đoạn bảo vệ thành quả, phải giữ cho được
thành quả đó.
- Những nước không có chương trình tiêu diệt sốt rét thì PCSR, làm
giảm mắc sốt rét, giảm tử vong do sốt rét, coi như chỉ tiến tới tiêu diệt sốt rét
trong một thời gian dài không hạn định.
Từ năm 1970-1978, tình hình tiêu diệt sốt rét trên thế giới càng trở nên
khó khăn hơn vì nhiều loại muỗi Anopheles kháng hoá chất, hoặc trú ẩn ngoài
nhà tăng lên. P.falciparum kháng thuốc chloroquin tiếp tục lan rộng ở Châu
Phi, Ấn Độ. Dịch sốt rét quay trở lại một số nước như Ấn Độ, Pakistan,
Srilanka, Thổ Nhĩ Kỳ, Quần đảo Solomon Một số nước phải bỏ dở chương
trình tiêu diệt sốt rét và quay lại phòng chống sốt rét.
Năm 1979, Đại Hội đồng Y tế thế giới (khoá họp thứ 31) ra nghị quyết
chuyển hẳn từ chiến lược tiêu diệt sốt rét sang chiến lược phòng chống sốt rét.
Đại Hội đồng cho rằng, chương trình phòng chống sốt rét của mỗi nước do
chính phủ nước đó quyết định với nguồn tài chính trong nước là chính. PCSR
là một bộ phận của chương trình bảo vệ sức khoẻ quốc gia.
Do tình hình bệnh sốt rét trên thế giới rất nghiêm trọng và diễn biến
ngày càng xấu, Hội nghị Bộ trưởng các nước có tình hình sốt rét nặng do

WHO triệu tập (Amsterdam, tháng 10/1992) đã ra Tuyên bố thế giới PCSR.
Bốn yêu cầu kỹ thuật cơ bản của chiến lược này là: Chẩn đoán sớm và
điều trị kịp thời; Lập kế hoạch và thực hiện các biện pháp phòng bệnh có


- 12 -
chọn lọc và có thể duy trì được; Phát hiện sớm, khống chế hoặc ngăn ngừa
các vụ dịch sốt rét và Đánh giá lại một cách đều đặn tình hình sốt rét của đất
nước, đặc biệt các yếu tố sinh thái, xã hội và kinh tế có tính chất quyết định
đối với dịch bệnh [22], [23], [82].
Vai trò của cộng đồng và các tổ chức trong cộng đồng là một
trong những chủ đề được nhấn mạnh và chỉ rõ:
- Đối với các nước có nguồn lực hạn chế (Châu Phi) cần tập
trung ưu tiên vào việc quản lý tốt các ca bệnh sốt rét như là yếu tố cơ bản để
phát triển các chương trình PCSR thông qua các cơ quan y tế chung.
- Đối với các nước thuộc Châu Á, Châu Mỹ cần phòng chống
vectơ, định hướng mục tiêu tốt hơn, nhằm bảo vệ cộng đồng một cách có hiệu
quả và bền vững. Hầu hết các chương trình này đều phải khẩn cấp định hướng
và cấu trúc lại, trong đó việc quản lý ca bệnh phải được nhấn mạnh và trở
thành một nhiệm vụ của cơ quan y tế chung [22], [140], [151].
Năm 1998, Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra sáng kiến
“Đẩy lùi sốt rét” tập trung chủ yếu vào Châu Phi, nơi chiếm 80% số ca chết vì
sốt rét trên thế giới. Đây không phải là một chiến lược mới mà nhấn mạnh vào
sự hợp tác để đẩy lùi sốt rét, trong đó tập trung vào hai nội dung quan trọng:
Chẩn đoán, điều trị sớm sốt rét và phát triển các yếu tố phòng chống sốt rét
bền vững.
b) Phòng chống dịch sốt rét ở Việt Nam: Chương trình tiêu diệt sốt rét ở
Miền Bắc nước ta chính thức bắt đầu từ năm 1958. Để giành thắng lợi, ngành
Y tế đã tích cực chuẩn bị mọi mặt về cơ sở vật chất, bộ máy tổ chức và nhân
lực. Điều tra cơ bản về tình hình sốt rét trên một quy mô rộng lớn, thí điểm

tiêu diệt sốt rét tại Thái Nguyên, Ngọc Lạc đồng thời tổ chức đào tạo cán
bộ, tổ chức chuyên ngành phòng, chống sốt rét tại tuyến tỉnh (trạm sốt rét) và
tuyến huyện (đội vệ sinh phòng dịch). Ngày 10/8/1961, Thủ tướng Chính phủ
ra quyết định số 229/TTg thành lập Ủy ban Trung ương tiêu diệt sốt rét. Ngay
sau đó, Uỷ ban tiêu diệt sốt rét của các địa phương cũng được thành lập [1],
[22], [84]. Chiến lược tiêu diệt sốt rét được vạch ra với 4 giai đoạn:
- Giai đoạn tấn công tiêu diệt sốt rét ở Miền Bắc (1962-1964) với các
biện pháp chủ yếu là phun DDT lên mặt trong tường (vách) nhà, chuồng gia
súc và các nơi muỗi thường trú ẩn, mỗi năm một lần vào tháng 3 hoặc tháng
4. Đồng thời điều trị hàng loạt cho toàn dân 1 lần, vùng 2 chỉ dùng cho phụ
nữ có thai và trẻ em dưới 16 tuổi.
- Bảo vệ kết quả tiêu diệt sốt rét ở Miền Bắc (1965-1975): Do chiến
tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ ở Miền Bắc đã làm ảnh hưởng đến công tác
phòng chống sốt rét. Tuy nhiên ngành Y tế vẫn nỗ lực để duy trì những thành


- 13 -
quả ban đầu vừa giành được. Năm 1965, đã sử dụng 600 tấn DDT bảo vệ trên
3 triệu dân, năm 1975 sử dụng gần 400 tấn DDT bảo vệ 2.800.000 dân.
- Từ năm 1976-1980 là giai đoạn nước ta vừa ra khỏi chiến tranh, tình
hình kinh tế còn nhiều khó khăn thì cũng là lúc Tổ chức Y tế thế giới điều
chỉnh chiến lược tiêu diệt sốt rét toàn cầu sang chiến lược phòng chống sốt
rét. Việt Nam đã đưa ra các mục tiêu cụ thể là:
 Giữ vững tình hình sốt rét ở các tỉnh phía Bắc đã đạt được.
 Giảm sốt rét ở các tỉnh phía Nam, tiến tới đạt kết quả như các tỉnh
phía Bắc.
 Tiến tới làm cho bệnh sốt rét không còn là một bệnh xã hội (thanh
toán sốt rét về cơ bản).
Hội nghị sốt rét toàn quốc (2/1991) quyết định chuyển sự nghiệp PCSR
ở Việt Nam từ giai đoạn thanh toán sốt rét không hạn định sang chiến lược

phòng chống sốt rét theo Nghị quyết của Đại Hội đồng Y tế thế giới. Mục tiêu
PCSR năm 1991-2000 chia thành hai giai đoạn:
- Từ năm 1991-1995: Khống chế tốc độ tăng, giảm tỷ lệ chết, giảm dịch
sốt rét (1991-1993), tiến tới ổn định tình hình và bắt đầu giảm trở lại (1994-
1995) và khống chế sốt rét vào năm 2000 với tiêu chuẩn KSTSR/lam là
0,25% (dưới mức năm 1964), không để xảy ra dịch sốt rét.
Từ năm 1996-2000: Giảm chết 60%, giảm mắc 50% so với năm 1995,
không để dịch lớn xảy ra, nếu xảy ra phải dập tắt kịp thời, phát triển các yếu
tố bền vững để duy trì thành quả PCSR lâu dài [84], [90].
Đến nay, chương trình thực hiện chiến lược PCSR đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, song không phải đã hoàn toàn khống chế được sốt rét. Ở
những vùng sốt rét lưu hành nặng vẫn còn tồn tại nhiều yếu tố nguy cơ sốt rét
quay lại.
1.1.4. Các công trình nghiên cứu liên quan đến khu vực Gia Lai
a) Nhóm các công trình nghiên cứu điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội -
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát sinh và lan truyền bệnh sốt rét:
Có thể khái quát rằng, cho đến nay, Tây Nguyên cũng là một trong số
các khu vực được quan tâm nghiên cứu, đánh giá một cách tổng hợp, được
phân vùng một cách có hệ thống từ tỷ lệ nhỏ đến tỷ lệ lớn, trong đó Gia Lai
nằm trong vùng cao nguyên Pleiku. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu,
đánh giá về tiềm năng của Tây Nguyên phục vụ cho mục đích quy hoạch, sử
dụng hợp lý lãnh thổ, nhưng trước tiên phải kể tới công trình điều tra tổng
hợp do Nguyễn Văn Chiển (chủ biên, 1985 -1986) đề cập một cách tổng hợp,
toàn diện về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội Tây Nguyên, vẫn còn nguyên
giá trị cho tới nay [18], [19].


- 14 -
 Về địa chất, địa mạo: Những công trình nghiên cứu đầu tiên được
gắn với tên tuổi của Blondel.F, Burret.R, Fromaget.J, Jacob.Ch, Hoffet J.H

và một số nhà khoa học khác. Đáng để ý nhất là những công trình nghiên cứu
về các thành tạo Mesozoi và Neogen ở Miền Trung và Nam Bộ của Saurin,
được công bố rải rác trong những năm 1930-1934. Đến năm 1935, ông cho
xuất bản chuyên khảo về địa chất Nam Đông Dương, trong đó có địa chất khu
vực Gia Lai. Các kết quả nghiên cứu trên đã được ông tổng hợp để biên vẽ
các tờ bản đồ địa chất tỷ lệ 1/500.000.
Năm 1937 Fromaget.F đã biên vẽ và xuất bản Bản đồ Địa chất Đông
Dương tỷ lệ 1/2000.000. Trong những năm sau đó, ông còn tiếp tục công bố
một số công trình về địa chất, kiến tạo, khoáng sản Đông Dương, trong đó
quan trọng nhất là chuyên khảo “Đông Dương thuộc Pháp, cấu trúc địa chất,
các đá, các mỏ và mối liên quan có thể của chúng với kiến tạo” được đánh giá
là một công trình tổng hợp có giá trị lớn về địa chất Đông Dương, trong đó có
khu vực Gia Lai [15], [40].
Trong những năm chiến tranh (1945-1975) việc nghiên cứu địa chất,
địa mạo ở Miền Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng chủ yếu vẫn do các
nhà địa chất Pháp thực hiện:
- Bản đồ địa chất Đông Dương, tỷ lệ 1/2.000.000 của Fromaget.J tái
bản năm 1954 với nhiều sửa đổi quan trọng.
- Các tờ bản đồ địa chất tỷ lệ 1/500.000 do Saurin.E, Fontaine.H bổ
sung được Nha Địa dư Đà Lạt lần lượt tái bản trong những năm 1962-1964,
trong đó có những tờ phủ trùm diện tích của Gia Lai [18], [19], [29], [70].
 Về khí hậu, thủy văn và tài nguyên nước mặt: Hiện nay trong khu vực
Tây Nguyên có 14 trạm thuỷ văn, trong đó 7 trạm đo các yếu tố mực nước,
lưu lượng, phù sa, mưa, 10 trạm đo mực nước, lưu lượng, lượng mưa, 4 trạm
chỉ đo mực nước và lượng mưa [130], [133]. Các công trình nghiên cứu gồm
có: Nghiên cứu về dòng chảy Tây Nguyên của GS Ngô Đình Tuấn, khí hậu
Tây Nguyên của GS Nguyễn Đức Ngữ, nhiều công trình nghiên cứu các lưu
vực, các tỉnh của các nhà khoa học thuộc Trường Đại học Thuỷ lợi, Viện Khí
tượng Thuỷ văn, Viện Khoa học Việt Nam, Viện Quy hoạch Thuỷ lợi [65],
[103], [115].

Những nghiên cứu kể trên, cùng với với số liệu quan trắc lâu dài Khí
tượng - Thuỷ văn trên lãnh thổ Tây Nguyên từ nhiều năm nay là cơ sở nền
tảng cho phương pháp hồi cứu của luận án.
 Về địa chất thủy văn và tài nguyên nước dưới đất: Cũng như tài
nguyên nước mặt, tài nguyên nước dưới đất đã được điều tra nghiên cứu và
khai thác từ những năm đầu thế kỷ 20. Vào thời thuộc Pháp trong khi việc


- 15 -
nghiên cứu địa chất được chú ý khá sớm và đã có những công trình điều tra
địa chất khu vực có giá trị của người Pháp được công bố thì về mặt địa chất
thủy văn (ĐCTV) hầu như không có một công trình nào đáng kể.
Sau ngày giải phóng, công tác điều tra ĐCTV ở Miền Nam mới được
triển khai mạnh mẽ. Liên đoàn ĐCTV Miền Nam thuộc Tổng cục Địa chất đã
tiến hành công tác tìm kiếm - thăm dò nước dưới đất trên hàng loạt vùng kinh
tế dân cư trọng điểm nhằm phục vụ công cuộc xây dựng các khu kinh tế mới
và phát triển đô thị. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học về điều kiện
ĐCTV Tây Nguyên cũng đã được hoàn thành trong 20 năm qua, trong đó
quan trọng nhất là : Đề tài “Nước dưới đất Tây Nguyên” của GS Nguyễn
Thượng Hùng chủ trì, thuộc Chương trình điều tra tổng hợp Tây Nguyên
(1976 - 1980). Báo cáo tổng kết đề tài “Tài nguyên nước dưới đất Tây
Nguyên” do GS Nguyễn Thượng Hùng chủ biên, thuộc chương trình 48 - C
(1984 - 1988) [67], [115].
Những công trình trên đã đề cập tương đối toàn diện những vấn đề cơ
bản của ĐCTV khu vực nghiên cứu như vấn đề phân tầng và phân vùng cấu
trúc ĐCTV, đặc điểm phân bố, tàng trữ, thành phần hoá học của nước dưới
đất, trữ lượng khai thác tiềm năng, trữ lượng khai thác dự báo và điều kiện
hình thành trữ lượng của nước dưới đất, phân vùng triển vọng và tiền đề tìm
kiếm thăm dò nước dưới đất, phương hướng khai thác sử dụng hợp lý và bảo
vệ tài nguyên nước dưới đất và những vấn đề khác. Có thể xem đây là những

công trình có ý nghĩa khoa học lớn, phản ánh khá đầy đủ, có hệ thống những
thành quả điều tra nghiên cứu về ĐCTV và tài nguyên nước dưới đất đến thời
điểm tổng kết, có giá trị là cơ sở và định hướng cho công tác điều tra tiếp
theo.
Đặc biệt chuyên khảo “Nước dưới đất khu vực Tây nguyên” [115] do
Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam xuất bản năm 1999 (Ngô Tuấn Tú, Võ
Công Nghiệp, Đặng Hữu ơn, Quách Văn Đơn chủ biên) là công trình không
những có giá trị thực tiễn mà nó còn mở ra những vấn đề lớn trong công tác
điều tra nghiên cứu tài nguyên nước dưới đất ở cao nguyên Pleiku.
 Về nước khoáng, nước nóng: Năm 1975, H.Fontaine công bố một
công trình tương đối toàn diện về “Các nguồn nước khoáng nóng ở Miền
Nam Việt Nam”, trong đó riêng trên địa phận Tây Nguyên, ông đã đăng ký
được 5 nguồn nước khoáng nóng và 2 nguồn nước khoáng lạnh ở Kon Tum và
Gia Lai, có số liệu phân tích lý hoá khá tỉ mỉ. Tỉnh Gia Lai đăng ký được 5
nguồn, phát hiện được nhờ các lỗ khoan ở độ sâu 150 - 450m, chủ yếu là
nước khoáng hoá ấm, thành phần bicacbonat natri.


- 16 -
 Đất Tây Nguyên: Cũng đã được đề cập đến trong công trình của Yves
Henry (1931), vấn đề sử dụng đất đai ở Đông Dương (1950), Góp phần
nghiên cứu các đất đỏ bazan và a xit cao nguyên Nam Đông Dương (1952).
Ngoài ra, những bài mô tả chung về tự nhiên, dân cư, xã hội được đăng trong
“Tập san Hội nghiên cứu Đông Dương” cũng thấy có đề cập đến đất khu vực
cao nguyên Pleiku.
Những năm 1975-1980, để hoạch định tài nguyên đất toàn Tây Nguyên,
Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp đã tổ chức khảo sát xây dựng bản
đồ đất các tỉnh Tây Nguyên tỷ lệ 1/100.000 với mức độ phân loại khá chi tiết.
Ngoài ra, còn điều tra xây dựng các bản đồ đất tỷ lệ 1/10.000, 1/25.000 cho
một số vùng chuyên canh và nông trường cao su, cà phê, chè [62].

Đến năm 1988, Phạm Quang Khánh và cộng sự đã xây dựng bản đồ đất
toàn Tây Nguyên, trong đó có Gia Lai, tỷ lệ 1/250.000, nghiên cứu nguồn gốc
phát sinh phân loại đất, đặc điểm và sự phân bố các loại đất, đồng thời khảo
sát xây dựng bản đồ đất cho từng khu vực trọng điểm nông nghiệp với tỷ lệ
bản đồ 1/10.000, 1/25.000, 1/50.000 và 1/100.000 [65].
 Về thực vật: Có các công trình nghiên cứu của M.Schmid
(1962,1974) đã thống kê thành phần loài thực vật ở mức độ khái quát. Trong
quá trình điều tra tổng hợp Tây Nguyên, Nguyễn Văn Chiển (chủ biên) đã có
những báo cáo, nhận định sơ bộ về khả năng phát triển nông lâm nghiệp của
Tây Nguyên.
b) Nhóm các công trình nghiên cứu về dịch tễ bệnh sốt rét: Những năm
gần đây, nhất là từ sau Hội nghị Liên bộ giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Y tế về
“Kết hợp quân dân y” thì công tác nghiên cứu các tiềm năng tự nhiên, xã hội
phục vụ công tác chăm sóc sức khoẻ và bảo đảm y tế cho cộng đồng các dân
tộc ít người, vùng sâu, vùng xa rất được quan tâm, nhất là ở các cơ quan, đơn
vị đứng chân trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên [12], [104], [105], [134].
Các nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến
nguyên nhân bùng phát và lan truyền dịch bệnh cũng đã được nghiên cứu
như: “Một số vấn đề cơ bản về công tác hậu cần khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc” (Nguyễn Đình Sắc, 1998),
“Chuẩn bị đất nước về mặt hậu cần cho chiến tranh” (Học viện Hậu cần,
1987) [50], [111], [114], [136].
Trong công tác chỉ đạo khống chế sốt rét, bảo vệ sức khoẻ cho lực
lượng thi công xây dựng đường Trường Sơn, Nguyễn Võ Hinh (2002) cũng đã
đề cập đến một loạt các biện pháp về tổ chức kỹ thuật nhằm hạ thấp tỷ lệ mắc
và tránh tử vong do sốt rét. Nguyễn Đắc Thành và CS (2002) cũng đã đưa ra
mô hình giám sát chỉ đạo gồm 10 biện pháp về tổ chức kỹ thuật, kết quả sau 2


- 17 -

năm thực hiện đã có kết quả tốt: số mắc giảm 28,3%, tỷ lệ KSTSR/lam giảm
23,2%, số SRAT giảm 55,44%, số chết giảm 67,2%.
Những biến đổi về khí hậu, sự gia tăng về dân số, quá trình khai thác
phát triển nông, lâm nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới trong những năm
qua ở Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng đã tác động rất sâu sắc tới
tình hình dịch bệnh ở đây, nhất là dịch bệnh sốt rét, dịch hạch và một số bệnh
truyền nhiễm khác [48], [52], [58]. Các công trình nghiên cứu về dịch tễ bệnh
sốt rét của Vũ Thị Phan (1980), Lê Khánh Thuận (1981), nghiên cứu mùa
bệnh sốt rét Tây Nguyên của Trần Quốc Tuý, Võ Văn Nhẫn, Nguyễn Đức
Mạnh (1980), nghiên cứu đặc điểm sinh thái dịch học và một số biện pháp
phòng chống rốt rét ở các cụm nông trường cao su Đức Cơ - Gia Lai của Lê
Quang Tạo (1996), Nghiên cứu tương quan giữa các yếu tố tập quán, điều
kiện kinh tế và tình hình rốt rét khu vực Kon Tum - Gia Lai - Đắk Lắk của
Nguyễn Tân và cộng sự (2001), những thay đổi sinh thái vectơ truyền bệnh,
mùa truyền bệnh sốt rét và đề xuất phân vùng dịch tễ rốt rét tại Tây Nguyên
của Lê Khánh Thuận (2001) [106]. Một trong những yếu tố quyết định đến
các quá trình phát sinh và lan truyền dịch bệnh chính là nhân tố con người,
cũng như phong tục tập quán, nếp sống văn hoá vì vậy, chỉ số sinh học người
Tây Nguyên cũng đã được quan tâm, đánh giá, các công trình nghiên cứu của
Nguyễn Đình Khoa (1983), Võ Hưng (1978), Nguyễn Mạnh Cường (1985),
Mai Văn Thìn (1991), chủ yếu nghiên cứu đặc điểm dân tộc, các chỉ số thể lực
của một số dân tộc người trên địa bàn Tây Nguyên, tuy nhiên, các đối tượng
nghiên cứu còn quá ít, nên cũng chỉ dừng lại ở mức độ tham khảo. Hơn nữa,
sự đánh giá, nhìn nhận bệnh dịch chủ yếu trên khía cạnh lâm sàng bệnh học, ít
chú ý tới sự ảnh hưởng của các điều kiện môi trường - yếu tố phát sinh dịch
bệnh, nguy cơ tiềm tàng khi thiếu các biện pháp phòng, tránh hiệu quả.
1.1.5. Nghiên cứu, ứng dụng Hệ thông tin địa lý trong Địa lý y học
Trên thế giới, trong các nghiên cứu về dịch bệnh và sức khoẻ, GIS đã
được sử dụng để quản lý các ổ dịch bệnh, mô phỏng sự lan truyền bệnh tật,
quản lý các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến các loại bệnh như phân bố dân

cư, mật độ dân số, điều kiện khí hậu, độ ẩm, nhiệt độ, lượng mưa, phân bố các
loại ký sinh trùng, các vectơ truyền bệnh [141], [161].
Đối với bệnh sốt rét, một dạng bệnh liên quan chặt chẽ với môi trường
địa lý như sinh cảnh sống của các vectơ truyền bệnh, điều kiện sống của dân
cư và các biện pháp phòng tránh, việc sử dụng GIS để nghiên cứu, quản lý
các dữ liệu về sốt rét và phân tích tình hình dịch bệnh là rất khả thi và có ý
nghĩa thực tiễn cao. Các nước có trình độ công nghệ GIS cao (Mỹ, Pháp,
Canada, Thái Lan ) đã áp dụng rất thành công các "Hệ thống cảnh báo sớm


- 18 -
dịch bệnh sốt rét" bằng việc sử dụng các chương trình máy tính chuyên dụng
kết hợp với các nghiên cứu về khí hậu, thời tiết Chẳng hạn, như hệ thống
cảnh báo sốt rét có tên là Demeter. Hệ thống Demeter hiện đang được sử dụng
để giúp cho một số nước ở Miền Nam châu Phi, cho phép dự đoán đúng đến
85% số vụ dịch trong suốt thời gian sau những năm có dịch sốt rét lan truyền
ở mức độ thấp [52], [147], [159].
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng đã xây dựng một số phần mềm
chuyên gia (HealthMapper, Epi-Info ) để giúp cho các nhân viên y tế bộ
công cụ hỗ trợ thu thập các dữ liệu trọng tâm trong việc tạo bản đồ y tế công
cộng cấp quốc gia và khu vực. Đồng thời, quản lý dữ liệu về y tế và tạo các
bản đồ, biểu đồ và báo cáo chuyên đề để phục vụ quản lý chương trình y tế và
hỗ trợ việc ra các quyết định [148], [150], [152], [154], [158], [164].
HealthMapper cung cấp giải pháp sử dụng một bộ cơ sở dữ liệu số
chuẩn hóa có sẵn gồm những thông tin thiết thực bao gồm: bản đồ địa giới,
các yếu tố môi trường (như hồ nước, sông, độ cao ) cũng như những thông
tin quan trọng về dân số và y tế cơ bản, cơ sở hạ tầng trường học và hệ thống
cấp nước. Cung cấp cho người dùng những biểu tượng quen thuộc với chức
năng tự động tạo bản đồ, bảng và biểu đồ dữ liệu của chính mình. Đưa ra giao
diện quản lý dữ liệu đơn giản mà người sử dụng có thể nhập và cập nhập dễ

dàng những chỉ số y tế công cộng dưới dạng địa lý chuẩn. Tạo ra một hệ
thống hoạt động đồng nhất ở cấp quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu.
HealthMapper có thể hỗ trợ nhiều tổ chức để đưa ra chính sách trong y
tế cộng cộng như: Đánh giá sự phân bố nguồn lực (dịch vụ y tế, cấp nước,
trường học); xác định sự phân bố địa lý của dịch bệnh; nhận biết các mối quan
hệ và sự tương quan; hỗ trợ việc lập kế hoạch và mục tiêu của can thiệp; tăng
cường thu thập, phân tích và quản lý dữ liệu; theo dõi bệnh tật và can thiệp
kịp thời [16], [52], [160].
Những năm gần đây, Bộ Y tế Việt Nam và Tổ chức Y tế thế giới đã mở
một số lớp học hướng dẫn sử dụng các phần mềm GIS trong nghiên cứu và
quản lý dịch bệnh, đặc biệt trong các dự án quốc tế về chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng đều có ứng dụng công nghệ GIS. Trong dự án EU về giám sát mức
độ kháng hoá chất bảo vệ thực vật và thành lập bản đồ phân bố vectơ sốt rét ở
vùng Đông Nam Á, GIS đã được sử dụng như một công nghệ để thành lập và
quản lý sự phân bố các vectơ truyền bệnh sốt rét ở ba nước Việt Nam, Lào và
Campuchia. Thực hiện các công việc này tại Việt Nam là nhóm GIS gồm các
chuyên gia của Phòng Bản đồ và GIS thuộc Viện Địa lý (Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam), các nhà côn trùng học của Khoa Côn trùng thuộc Viện

×