Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Xây dựng chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 85 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHAN THU TRANG








XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH THÔNG TIN
HỖ TRỢ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA





Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý khoa học và công nghệ
Mã số: 60.34.72






Người hướng dẫn khoa học: PGS TS Nguyễn Hữu Hùng












Hà Nội - 2010



1
MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 3
PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu: 6
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 7
3.1. Mục tiêu nghiên cứu 7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Phạm vi nghiên cứu 8
5. Mẫu khảo sát 8

6. Câu hỏi nghiên cứu 8
7. Giả thuyết nghiên cứu 8
8. Phương pháp nghiên cứu 9
9. Cấu trúc của luận văn 9
CHƯƠNG 1. 10
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH THÔNG TIN HỖ TRỢ ĐỔI MỚI CÔNG
NGHỆ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 10
1.1. Một số khái niệm cơ bản 10
1.1.1. Khoa học 10
1.1.2. Công nghệ 11
1.1.3. Đổi mới công nghệ 14
1.1.4. Chính sách 15
1.2. Khái niệm thông tin và thông tin quản lý 16
1.2.1. Định nghĩa thông tin và thông tin quản lý 16
1.2.2. Giá trị của thông tin 17
1.2.3. Đặc trưng và vai trò của thông tin quản lý 19
1.2.4. Phân loại thông tin quản lý 21
1.2.5. Quá trình thông tin trong quản lý 23
1.3. Khái niệm DNNVV và một số đặc điểm của DNNVV 26
1.3.1. Khái niệm DNNVV 26
1.3.2. Một số đặc điểm của DNNVV 28
1.4. Hoạt động đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp và vai trò của thông tin đối với
hoạt động đổi mới công nghệ 30
1.4.1. Hoạt động đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp 30
1.4.2. Quan niệm chung về thông tin KH&CN 32
1.4.3. Thông tin KH&CN và vai trò của thông tin KH&CN 33
1.5. Quản lý nhà nước đối với hoạt động thông tin 35
Kết luận chương 1 36
CHƯƠNG 2. 37
HIỆN TRẠNG ĐẢM BẢO THÔNG TIN HỖ TRỢ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ TẠI

CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 37
2.1. Thực trạng hoạt động đổi mới công nghệ tại các DNNVV 37
2.1.1. Trình độ công nghệ của DNNVV 37
2.1.2. Những khó khăn của DNNVV khi tiến hành đổi mới công nghệ 38
2.1.3. Chiến lược phát triển của DNNVV 42
2.1.4. Nhu cầu của DNNVV trong hoạt động đổi mới công nghệ 43
2.2. Khái quát về thực trạng thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các DNNVV 46
2.3. Đánh giá khả năng khai thác thông tin hỗ trợ hoạt động đổi mới công nghệ của
DNNVV 54
2.3.1. Đánh giá qua kết quả khảo sát 54

2
2.3.2. Nguyên nhân thực trạng về vai trò của thông tin đối với hoạt động đổi mới công
nghệ tại các DNNVV 58
Kết luận chương 2 60
CHƯƠNG 3. 61
ĐỀ XUẤT VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH THÔNG TIN HỖ TRỢ ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 61
3.1. Yêu cầu của chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các DNNVV 61
3.1.1. Cấu trúc của chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các DNNVV . 61
3.1.2. Các cách tiếp cận chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các
DNNVV 62
3.1.3. Những yếu tố cơ bản của chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các
DNNVV 64
3.2. Mục tiêu của chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các DNNVV 65
3.3. Các vấn đề cần giải quyết trong việc xây dựng chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới
công nghệ tại các DNNVV 67
3.4. Đề xuất nội dung chính sách 70
3.5. Cơ chế tổ chức xây dựng và thực thi chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ
tại các DNNVV 76

Kết luận chương 3 78
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83









KH&CN: Khoa học và Công nghệ


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CIEM: Viện Quản lý kinh tế Trung ương

Viện chiến lược và chính học và công nghệ

3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CIEM: Viện Quản lý kinh tế Trung ương
DNNVV: Doanh nghiệp nhỏ và vừa
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
KH&CN: Khoa học và Công nghệ
NISTPASS: Viện chiến lược và chính sách Khoa học và công nghệ
OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

R&D: Nghiên cứu và triển khai
WTO: Tổ chức thương mại thế giới




4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với mọi quốc gia, doanh nghiệp luôn được coi là lực lượng chủ lực,
đóng vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế. Số
lượng doanh nghiệp tăng nhanh làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế, tạo thêm
nhiều công ăn việc làm mới, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần
xóa đói giảm nghèo, thực hiện các chính sách xã hội. Do vậy, việc xây dựng
và phát triển doanh nghiệp luôn được coi là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ quốc qia nào.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010
1
của Việt Nam đặt ra
mục tiêu cả nước sẽ có 500.000 doanh nghiệp, trong đó có nhiều doanh
nghiệp kinh doanh hiệu quả và có tầm cỡ quốc tế. Cần nhấn mạnh rằng Việt
nam chỉ có thể trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020 nếu có nhiều
doanh nghiệp mạnh và thành công. Doanh nghiệp có vai trò rất lớn trong nền
kinh tế quốc gia và họ xứng đáng được hưởng các chế độ hỗ trợ của nhà nước
và sự ủng hộ của xã hội để có thể nâng cao sức cạnh tranh và đóng góp tích
cực hơn nữa cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Viện Quản lý kinh tế Trung ương đưa ra kết quả khảo sát về tình hình
sử dụng thiết bị - công nghệ và tư vấn công nghệ của các doanh nghiệp Việt
Nam. Kết quả khảo sát đã thể hiện rõ: mức đầu tư cho đổi mới thiết bị - công
nghệ của doanh nghiệp chỉ chiếm 3% doanh thu cả năm, phần lớn doanh

nghiệp sử dụng công nghệ của những năm 80 của thế kỷ trước, 69% doanh
nghiệp phụ thuộc vào nguyên vật liệu, 52% phụ thuộc vào thiết bị, công nghệ
nhập khẩu và 19% doanh nghiệp lệ thuộc vào bí quyết công nghệ. Số cán bộ,
kỹ thuật có chuyên môn của doanh nghiệp cũng chỉ đạt 7%. Việc đổi mới
công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là DNNVV còn rất chậm, thụ
động và chỉ mang tính tình huống là chính. Trong số các nguyên nhân của
tình hình trên có nguyên nhân do thiếu thông tin nghiêm trọng. Doanh nghiệp


1
Báo cáo đánh giá tổng quát thành tựu kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 – 2005 và các chỉ tiêu phát triển kinh
tế - xã hội giai đoạn 2006 – 2010 của chính phủ tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa X tại Hà Nội
ngày 16/05/2006.

5
rất cần một địa chỉ tin cậy để thẩm định về nguyên vật liệu, công nghệ, thiết
bị nhưng những thông tin như vậy hầu như chưa có.
Sau hơn bốn năm Luật doanh nghiệp ra đời, có thêm hàng chục ngàn
doanh nghiệp được khai sinh nhưng mức đầu tư cho thiết bị mới vẫn gần như
giẫm chân tại chỗ. Khoảng cách giữa công nghệ hiện đại, phù hợp, hiệu quả
với doanh nghiệp nói chung ngày càng lớn và một thị trường công nghệ xem
ra vẫn rất xa vời.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, dựa trên cơ sở đổi
mới công nghệ và các phương thức quản lý hiện đại thì vai trò của thông tin
càng trở nên quan trọng. Thiếu thông tin, các quyết định sẽ bị sai lệch, thiếu
cơ sở khoa học, không thực tiễn và trở nên kém hiệu quả. Thời gian qua, việc
hỗ trợ doanh nghiệp bằng các biện pháp trực tiếp, chủ yếu thông qua các
khuyến khích về thuế, tín dụng từ phía nhà nước đã bộc lộ nhiều điểm hạn
chế. Nghị quyết 49/CP của Chính phủ đã đánh giá nước ta còn là nước nghèo
thông tin. Như vậy có nghĩa là thông tin chưa được tổ chức tốt thành nguồn

lực để từ đó thực sự trở thành của cải, thành hàng hóa, đóng góp cho sự phát
triển của doanh nghiệp nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
DNNVV thường là những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính yếu, rất
lo ngại khi đầu tư một khoản tiền lớn để đổi mới công nghệ. Nếu thất bại,
công năng sử dụng của công nghệ mới không phù hợp với thực tế sản xuất
thì hoạt động đổi mới ấy sẽ trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp. Nguồn
thông tin phong phú, đa dạng, chính xác, kịp thời sẽ giảm đến mức thấp nhất
các tổn thất có thể xảy ra trong nghiên cứu, trong sản xuất và trong các hoạt
động đổi mới công nghệ của DNNVV. Việc quản lý nhà nước đối với thông
tin và hoạt động thông tin trở thành vấn đề cấp bách, cần được nghiên cứu để
tìm ra các giải pháp cần thiết để thông tin thực sự trở thành nguồn lực, hỗ trợ
cho các doanh nghiệp – cũng là hỗ trợ nền kinh tế.
Vì lý do đó tôi chọn chủ đề "Xây dựng chính sách thông tin hỗ trợ đổi
mới công nghệ tại các DNNVV" làm đề tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành
Quản lý khoa học và công nghệ.

6
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Chủ đề đổi mới công nghệ tại các DNNVV đã được nhiều tác giả đề
cập đến, đặc biệt là trong xu thế phát triển và hội nhập đang đặt ra câu hỏi đối
với năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Bên cạnh đó, xu thế xây dựng và áp
dụng chính sách đổi mới ở nhiều nước cũng đang ảnh hưởng lớn đến các lựa
chọn chính sách của các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói
riêng.
(1) Đề tài "Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng một số chính
sách và biện pháp thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ và nghiên cứu triển
khai trong các cơ sở sản xuất ở Việt Nam" của Tiến sĩ Trần Ngọc Ca (2009)
đã lựa chọn phân tích hai mảng chính sách được xem là ảnh hưởng khá rõ tới
hoạt động đổi mới công nghệ và nghiên cứu triển khai trong doanh nghiệp đó
là: chính sách tài chính và chính sách nhân lực. Các giả thuyết sau đã được đề

tài kiểm chứng:
- Mặc dù môi trường chính sách tài chính đã có những tiến bộ nhất định
trong thời gian qua và bao gồm nhiều vấn đề khá đầy đủ thuộc cơ chế khuyến
khích thúc đẩy đổi mới công nghệ và nghiên cứu triển khai trong các doanh
nghiệp, tuy nhiên việc soạn thảo và ban hành một số văn bản chính sách còn
vội vàng, nội dung quy định còn quá chung chung và chưa thể hiện sự hiểu
biết thấu đáo về đặc thù hoạt động đổi mới công nghệ nên hiệu quả còn thấp.
- Các chính sách về nhân lực có tầm quyết định quan trọng trong đổi
mới công nghệ và nghiên cứu triển khai của doanh nghiệp trong nhiều trường
hợp còn cấp bách hơn chính sách tài chính.
- Hành vi đổi mới công nghệ và nghiên cứu triển khai của doanh nghiệp
phụ thuộc vào các yếu tố không liên quan đến chính sách đẩy. Vấn đề sâu xa
thúc bách các doanh nghiệp đổi mới công nghệ và nghiên cứu triển khai nằm
trong các yếu tố của nền kinh tế vĩ mô, vào nhu cầu cạnh tranh, vào tính cấp
thiết của đổi mới (chính sách kéo). Do vậy, nếu chỉ nhằm vào giải quyết các
vấn đề của chính sách đẩy bằng các cơ chế khuyến khích trực tiếp cho doanh

7
nghiệp khi họ đổi mới mà không tiến tới quan tâm xử lý các vấn đề thuộc
chính sách kéo nhằm tạo môi trường (thông thường là về thị trường cạnh
tranh) thì hiệu quả của các chính sách đẩy sẽ rất thấp và tình trạng chung của
đổi mới công nghệ và nghiên cứu triển khai trong doanh nghiệp còn tiếp tục
yếu kém.
(2) Năm 2000 Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hùng đã nghiên cứu
đề tài "Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách quốc gia về
thông tin khoa học và công nghệ". Đề tài đã làm sáng tỏ được các khái niệm
liên quan đến chính sách thông tin khoa học và công nghệ, đánh giá hiện trạng
và đề xuất xây dựng chính sách thông tin khoa học và công nghệ quốc gia trên
cơ sở xây dựng hạ tầng thông tin đầy đủ và vững chắc, thành lập một hội
đồng chính sách thông tin khoa học và công nghệ quốc gia bao gồm những

nhà khoa học, nhà quản lý để giúp chính phủ có quyết định đúng đắn về chính
sách, chiến lược để phát triển công tác thông tin khoa học và công nghệ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá vai trò của thông tin đối với hoạt động đổi mới công nghệ
tại các DNNVV;
- Đề xuất việc xây dựng chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ
tại các DNNVV.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đưa ra hệ thống lý thuyết, cơ sở lý luận có liên quan đến các khái
niệm: thông tin, công nghệ, thông tin KH&CN, chính sách, chính sách thông
tin KH&CN đổi mới công nghệ, doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Khảo sát thực tiễn trên địa bàn Hà Nội và tỉnh Vĩnh Phúc về việc sử
dụng thông tin đối với hoạt động đổi mới công nghệ tại các DNNVV;
- Trên cơ sở khảo sát và phân tích thực tiễn, đề xuất việc xây dựng
chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các DNNVV.

8
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận văn sử dụng các số liệu có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 2000 đến 2010.
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: trên địa bàn Hà Nội và tỉnh Vĩnh
Phúc
- Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ 10.2008 đến 10.2010
5. Mẫu khảo sát
Để khảo sát thực trạng việc sử dụng thông tin đối với hoạt động đổi
mới công nghệ tại các DNNVV, Luận văn lựa chọn các mẫu khảo sát sau đây:
- Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (nay là Cục
Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia);
- Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa – Bộ Kế hoạch và Đầu tư;

- Trung tâm hỗ trợ DNNVV phía Bắc.
- 30 DNNVV thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có trụ sở đặt trên
địa bàn Hà Nội và tỉnh Vĩnh Phúc. Các DNNVV được phỏng vấn là những
doanh nghiệp đã có thời gian hoạt động ít nhất là 3 năm. Cuộc khảo sát được
thực hiện đồng thời bằng hai hình thức: qua gửi thư và phỏng vấn trực tiếp
các chủ hoặc giám đốc điều hành các DNNVV.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Thông tin có vai trò như thế nào đối với hoạt động đổi mới công nghệ
tại các DNNVV?
- Chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các DNNVV cần
đáp ứng những yêu cầu nào?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Luận văn nhằm kiểm chứng các giả thuyết nghiên cứu sau đây:
- Thông tin giúp các DNNVV tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả
hoạt động đổi mới công nghệ;
- Các DNNVV còn khó khăn trong khâu tiếp cận thông tin, chưa biết
cách khai thác thông tin trong hoạt động đổi mới công nghệ;

9
- Chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các DNNVV cần
đáp ứng tối đa nhu cầu thông tin của doanh nghiệp khi đổi mới công nghệ
như: thông tin về thị trường công nghệ, sở hữu trí tuệ, hành lang pháp lý, xúc
tiến thương mại
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: phân tích, thống kê, tổng hợp tài
liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp, kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đi
trước có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: các tài liệu có liên quan đến vai
trò của thông tin trong hoạt động đổi mới công nghệ tại các DNNVV, đặc
điểm về tổ chức và hoạt động đổi mới công nghệ trong DNNVV, sự khác biệt

về đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp lớn và ở DNNVV, các chính sách
định hướng doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh bằng đổi mới công
nghệ,
Phương pháp phỏng vấn sâu: tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu, lấy ý
kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý
hoạt động thông tin khoa học – công nghệ, nhà quản lý doanh nghiệp;
Phương pháp nghiên cứu trường hợp: nghiên cứu một số trường hợp
điển hình của sự không thành công đối với hoạt động đổi mới công nghệ tại các
DNNVV mà nguyên nhân trực tiếp là thiếu thông tin.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công
nghệ tại các DNNVV
Chương 2. Hiện trạng đảm bảo thông tin hỗ trợ đổi mới công nghệ tại
các DNNVV (qua điều tra tại Hà Nội và Vĩnh Phúc)
Chương 3. Đề xuất việc xây dựng chính sách thông tin hỗ trợ đổi mới công
nghệ tại các DNNVVchính s

10
CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH THÔNG TIN HỖ TRỢ
ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khoa học:
Từ điển Larousse (2002) của Pháp định nghĩa: “Khoa học là một tập
hợp tri thức đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm về các sự kiện, sự vật và
hiện tượng tuân theo một quy luật xác định”.
Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô (1986) định nghĩa: “Khoa học
là lĩnh vực hoạt động của con người, có chức năng xử lý và hệ thống hóa về

mặt lý thuyết các tri thức khách quan”, “Là một trong những hình thái ý thức
xã hội, bao gồm trong đó cả những hoạt động nhằm thu nhận các kiến thức
mới, và cả những kết quả của các hoạt động đó”.
Từ điển MacMillan English Dictionary for Advanced Learners (2006)
định nghĩa: “Khoa học là một hoạt động nghiên cứu và kiến thức về thế giới
vật lý và hành vi của nó, dựa trên các thực nghiệm và các sự kiện được kiểm
chứng và được tổ chức thành hệ thống”. Tiếp theo định nghĩa này, trong từ
điển MacMillan tách ra hai từ mục: (1) Khoa học là một lĩnh vực nghiên cứu
(an area of study) sử dụng các phương pháp khoa học, và (2) Khoa học là một
chủ đề nghiên cứu (a subject), chẳng hạn, vật lý học, hóa học.
Từ điển Cobuild Learner’s Dictionary (2001) định nghĩa: “Khoa học là
một study về giới tự nhiên và hành vi của giới tự nhiên”, đồng thời cũng đưa
ra định nghĩa thứ hai: “Khoa học là những tri thức đạt được từ công việc
nghiên cứu”. Còn study thì được định nghĩa là một “activities of studying”,
nghĩa là một loại hoạt động.
Từ điển Hutchinson Dictionary of Ideas (1994) định nghĩa: Khoa học là
“any systematic field of study”, nghĩa là một lĩnh vực nghiên cứu có hệ thống
và “nhằm sản xuất ra (to produce) các tri thức”.

11
Từ điển Xã hội học của Nguyễn Khắc Viện (1994) định nghĩa: “Khoa
học là một thiết chế xã hội” (Nguyễn Khắc Viện gọi là thể chế xã hội). Định
nghĩa này dựa trên nghiên cứu của một nhà nghiên cứu lịch sử khoa học
người Mỹ, D.J. Price từ năm 1972.
Như vậy, về cơ bản có 4 định nghĩa về khoa học dựa trên các cách tiếp
cận sau
2
:
 Khoa học là một hệ thống các tri thức.
 Khoa học là một hoạt động sản xuất tri thức.

 Khoa học là một hình thái ý thức xã hội.
 Khoa học là một thiết chế xã hội.
Cả bốn khái niệm trên đều có chỗ đứng trong tư duy và hành động của
những người làm nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn
này, khái niệm khoa học được hiểu là “lĩnh vực hoạt động nhằm mục đích sản
xuất ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy bao gồm tất cả những
điều kiện và những yếu tố của sự sản xuất này” (Từ điển Triết học của Liên
Xô - bản tiếng Việt, 1975).
1.1.2. Công nghệ:
Công nghệ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "techne" có nghĩa là một
khoa học hay sự nghiên cứu. Công nghệ là sản phẩm do con người tạo ra làm
công cụ để sản xuất ra của cải vật chất. Cho đến bây giờ vẫn chưa có một định
nghĩa thống nhất về công nghệ. Có thể xem xét một số định nghĩa sau
3
:
Định nghĩa 1: Theo tác giả F.R.Root, "công nghệ là dạng kiến thức có
thể áp dụng được vào việc sản xuất ra các sản phẩm và sáng tạo ra các sản
phẩm mới", như vậy, bản chất của công nghệ là dạng kiến thức và mục tiêu sử
dụng công nghệ là áp dụng vào sản xuất và tạo ra các sản phẩm mới.


2
Vũ Cao Đàm, "Định nghĩa khái niệm "khoa học" trong Luật khoa học và công nghệ nên như thế nào?".
Tạp chí Hoạt động khoa học số tháng 5 năm 2008.
3
Trần Ngọc Ca, Đề tài "Nghiên cứu cơ chế và chính sách phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam",
NISTPASS, 2003

12
Định nghĩa 2: Theo J.D.Dunning, "công nghệ là nguồn lực bao gồm

kiến thức được áp dụng để nâng cao hiệu quả sản suất và tiếp thị cho những
sản phẩm và dịch vụ đang có và tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới".
Công nghệ theo định nghĩa này có bản chất là kiến thức và mục tiêu để nâng
cao hiệu quả sản xuất và dịch vụ.
Định nghĩa 3: Tác giả R.Jones cho rằng "công nghệ là cách thức mà
qua đó các nguồn lực được chuyển thành hàng hóa". Theo định nghĩa này bản
chất công nghệ là cách thức và mục tiêu là dùng để chuyển nguồn lực thành
hàng hóa.
Định nghĩa 4: Theo E.M.Graham, "công nghệ là kiến thức không sờ mó
được, không phân chia được và có lợi về mặt kinh tế khi sử dụng để sản xuất
ra các sản phẩm và dịch vụ". Tại đây ta thấy công nghệ cũng có bản chất là
kiến thức và mục tiêu là sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ.
Định nghĩa 5: Tác giả P.Strunk cho rằng "công nghệ là sự áp dụng khoa
học và công nghiệp bằng cách sử dụng những nghiên cứu và xử lý nó một
cách có hệ thống và có phương pháp". Trong định nghĩa này công nghệ có
bản chất là kiến thức khoa học và được áp dụng vào công nghiệp.
Định nghĩa 6: Ngân hàng thế giới (1985) đưa ra định nghĩa "công nghệ
là phương pháp chuyển hóa các nguồn thành sản phẩm, gồm 3 yếu tố: (1)
thông tin về phương pháp; (2) phương tiện, công cụ sử dụng phương pháp để
thực hiện việc chuyển hóa; (3) sự hiểu biết các phương pháp hoạt động như
thế nào và tại sao". Theo định nghĩa này công nghệ có bản chất là thông tin,
công cụ, sự hiểu biết và có mục tiêu chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành sản
phẩm.
Định nghĩa 7: UNCTAD định nghĩa "công nghệ là một đầu vào cần
thiết cho sản xuất, và như vậy, nó được mua bán trên thị trường như một hàng
hóa được thể hiện ở một trong các dạng sau:
- Tư liệu sản xuất và đôi khi là các sản phẩm trung gian, được mua và
bán trên thị trường, đặc biệt gắn với các quyết định đầu tư;

13

- Nhân lực, thông thường là nhân lực có trình độ và đôi khi là nhân lực
có trình độ cao và chuyên sâu, với khả năng sử dụng đúng các thiết bị, kỹ
thuật và làm chủ được bộ máy giải quyết vấn đề và sản xuất thông tin;
- Thông tin, dù đó là thông tin kỹ thuật hay thông tin thương mại, được
đưa ra trên thị trường hay được giữ bí mật như một phần của hoạt động độc
quyền".
Định nghĩa này chỉ ra về bản chất công nghệ là tư liệu sản xuất, nhân
lực có trình độ và thông tin, có mục tiêu là làm đầu vào cần thiết cho sản xuất.
Định nghĩa 8: Sharif cho rằng "công nghệ bao gồm khả năng sáng tạo,
đổi mới và lựa chọn từ những từ những kỹ thuật khác nhau và sử dụng chúng
một cách tối ưu vào tập hợp các yếu tố bao gồm môi trường vật chất, xã hội
và văn hóa". Cụ thể hơn, công nghệ là một tập hợp của phần cứng và phần
mềm, bao gồm bốn dạng cơ bản:
- Dạng vật thể (vật liệu, công cụ sản xuất, thiết bị và máy móc, sản
phẩm hoàn chỉnh);
- Dạng con người (kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm);
- Dạng ghi chép (bí quyết, quy trình, phương pháp, dữ kiện thích hợp
được mô tả trong các ấn phẩm, tài liệu v.v );
- Dạng thiết chế, tổ chức (dịch vụ, phương tiện truyền bá, công ty tư
vấn, cơ cấu quản lý, cơ sở luật pháp )
Công nghệ theo nghĩa này có bản chất là vật thể (thiết bị máy móc) còn
gọi là phần kỹ thuật; con người, phần con người; ghi chép, phần thông tin;
thiết chế tổ chức, phần tổ chức; có mục tiêu để sử dụng tối ưu, để tác động
vào các yếu tố môi trường vật chất, xã hội, văn hóa.
Định nghĩa 9: Luật khoa học và công nghệ số 21/2000/QH10 viết "công
nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm". Định nghĩa này
nói rõ công nghệ bao gồm cả công cụ và phương tiện.

14

Về bản chất, các định nghĩa đều nói tới công nghệ với tư cách là tri
thức cần có để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Sự khác biệt ở chỗ có
coi những vật mang tri thức công nghệ như máy móc thiết bị, sản phẩm trung
gian, lao động khoa học và công nghệ nằm trong phạm trù công nghệ hay
không. Thực tiễn hoạt động ở Việt Nam việc đổi mới công nghệ chủ yếu là
hình thức mua sắm máy móc, thiết bị hoặc hệ thống thiết bị toàn bộ. Do vậy,
việc coi công nghệ bao gồm cả những vật mang công nghệ sẽ thuận tiện hơn
khi hoạch định chính sách hỗ trợ hoạt động đổi mới công nghệ, nhất là tại các
DNNVV.
1.1.3. Đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ là việc chủ động thay thế một phần hoặc toàn bộ
công nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn nhằm nâng
cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh
4
.
Đổi mới khác với sáng tạo và sáng chế, việc sáng tạo hoặc sáng chế là
việc tạo ra những ý tưởng mới còn đổi mới là dùng những ý tưởng này để tạo
ra lợi ích. Sáng chế là giải pháp cho một vấn đề, thường là về mặt kỹ thuật
còn đổi mới là sự sử dụng hành công về mặt thương mại của giải pháp này.
OECD (1997) định nghĩa "đổi mới công nghệ sản phẩm và quy trình là việc
thực hiện được sản phẩm và quy trình mới về mặt công nghệ hay đạt được
tiến bộ đáng kể về mặt công nghệ đối với sản phẩm và quy trình. Đổi mới
công nghệ sản phẩm và quy trình được thực hiện nếu đổi mới đó đã được đưa
ra thị trường (đổi mới sản phẩm) hoặc được sử dụng trong sản xuất (đổi mới
quy trình). Đổi mới công nghệ sản phẩm và quy trình gắn với một chuỗi các
hoạt động khoa học công nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại". Khái niệm
này được hiểu là mới và được cải tiến đối với doanh nghiệp, không nhất thiết
là mới và được cải tiến so với thế giới, điều này cho phép phân tích hoạt động
đổi mới công nghệ với phạm vi rộng hơn và phù hợp hơn với những nước
đang phát triển như Việt Nam.



4
Nguyễn Thanh Tùng "Nghiên cứu xây dựng tài liệu hướng dẫn kỹ năng nghiệp vụ đổi mới công nghệ cho
DNNVV", NISTPASS, 2007.

15
Như vậy, đổi mới công nghệ làm phát sinh nhiều loại nhu cầu công
nghệ khác nhau, rất đa dạng, thậm chí còn có cả những nhu cầu phi công
nghệ. Và cũng không nhất thiết cứ đổi mới hoặc đang tiến hành đổi mới
doanh nghiệp mới có nhu cầu công nghệ. Việc học hỏi và tích lũy năng lực
công nghệ của doanh nghiệp có thể hoàn toàn không gắn với một đổi mới nào
cụ thể cũng làm phát sinh nhu cầu đối với công nghệ.
1.1.4. Chính sách:
Có rất nhiều cách tiếp cận để xem xét khái niệm chính sách.
Thomas R. Dye đưa ra chính nghĩa về chính sách công: "Chính sách
công là điều mà một chính phủ chọn để làm hoặc không làm". Khái niệm này
gần giống với cách hiểu về chiến lược.
Guy Peters định nghĩa: "Chính sách công là toàn bộ hoạt động của Nhà
nước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của công dân".
Định nghĩa này cho thấy về bản chất chính sách là hoạt động của Nhà nước.
James Anderson đưa ra định nghĩa: "Chính sách là quá trình hành động
có mục tiêu mà một mặc một số chủ thể theo đuổi, để giải quyết những vấn đề
mà họ quan tâm". Định nghĩa này có ý nghĩa chung hơn, không chỉ chính sách
công.
Vũ Cao Đàm
5
định nghĩa: "Chính sách là một tập hợp biện pháp được
thể chế hóa, mà mỗi chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó
tạo sự ưu đãi cho một nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của

nhóm này, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu
tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội".
Khái niệm "Hệ thống xã hội" ở đây được hiểu theo một ý nghĩa khái
quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp,
một nhà trường


5
Vũ Cao Đàm "Giáo trình khoa học chính sách", Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2008.


16
Chính sách là một thiết chế xã hội và đến lượt mình chính sách lại bao
gồm một tập hợp các thiết chế có bản chất phân biệt đối xử, luôn có một
nhóm hoặc một số nhóm đóng vai trò tác nhân của mục tiêu phát triển được
nhận sự ưu đãi, các nhóm còn lại thì không, thậm chí còn bị thiệt. Và do vậy,
chính sách bao giờ cũng tạo ra một bất bình đẳng xã hội nhưng một mục tiêu
xã hội lớn hơn sẽ được thực hiện.
1.2. Khái niệm thông tin và thông tin quản lý
1.2.1. Định nghĩa thông tin và thông tin quản lý
Theo nghĩa rộng, thuật ngữ “Thông tin” thường có nghĩa là mọi ý
tưởng, sự kiện hay tác phẩm được sáng tạo ra. “Thông tin” cũng có thể được
sử dụng để nói đến một yếu tố dữ liệu nào đó.
Do vậy, thông tin là một cái gì đó có thể làm thay đổi tình trạng kiến
thức của một người (những gì mà người đó biết) và đại diện vật chất cho
những gì trừu tượng có thể tạo ra được sự thay đổi này
Theo Trần Ngọc Liêu
6
, thông tin là một vấn đề phức tạp bao chứa đựng
nội dung đa dạng và phong phú vì thế nó được hiểu theo nhiều cách khác

nhau.
Theo nghĩa chung nhất thì thông tin được hiểu là những tri thức được
sử dụng để định hướng, tác động tích cực và để điều khiển nhằm duy trì tính
đặc thù về chất, hoàn thiện và phát triển hệ thống.
Thông tin quản lý là hệ thống tri thức được thu thập và xử lý để phục
vụ cho việc ban hành, tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá quyết định quản
lý.
Từ định nghĩa này, có thể thấy thông tin quản lý bao gồm:
- Hệ thống tri thức được thu thập và xử lý (thông tin đầu vào);
- Thông tin trong tổ chức thực hiện quyết định quản lý (quá trình truyền
thông);
- Thông tin cho việc kiểm tra, đánh giá quyết định quản lý (thông tin
phản hồi)


6
Trần Ngọc Liêu, Bài giảng khoa học quản lý đại cương, Trường Đại học KHXH&NV, Hà Nội, 2009

17
1.2.2. Giá trị của thông tin
Trong xã hội hiện đại, thông tin được coi là nguồn lực quan trọng để
phát triển. Thời đại ngày nay là thời đại mà mọi hoạt động phải dựa trên
thông tin, sức hấp dẫn của thông tin là ở giá trị của nó. Tuy nhiên, không phải
mọi thông tin đều có giá trị và không phải nó đều có giá trị như nhau đối với
mọi người dùng tin. Thông tin không có giá trị nếu rơi vào các bối cảnh sau
đây:
Nội dung thông tin không liên quan gì tới công việc đang làm;
Thông tin đến không đúng lúc (quá muộn hoặc quá sớm);
Thông tin không chính xác.
Thông tin là một loại hàng hoá đặc biệt và quan trọng, song khác với

các vật phẩm hàng hoá khác, giá trị của thông tin rất khó được xác định. Vấn
đề giá trị của thông tin từ lâu vẫn là một trong số các vấn đề trung tâm của
thông tin học. Vào những năm 60, nhà thông tin học Hoa Kỳ - Mooer đã phát
biểu: "Thông tin chỉ có giá trị khi và chỉ khi nó có giá trị và nó được sử
dụng". Với những gì là đặc trưng của thông tin, không thể dùng phép đo
thông thường về mặt chi phí để xác định giá trị của thông tin.
Chất lượng của thông tin bị chi phối bởi 3 nhóm yếu tố chính sau đây:
- Nhóm yếu tố nội dung;
- Nhóm yếu tố thời gian;
- Nhóm yếu tố hình thức.
Nội dung là yếu tố quan trọng nhất tạo nên chất lượng của thông tin.
Cũng chính thông qua nội dung, vấn đề quản trị thông tin được xác lập, phân
biệt quản trị thông tin với quản trị các vật thể (quản lý vật mang tin). Yếu tố
nội dung thông tin bao gồm 3 đặc tính sau đây:
- Chính xác (Accuracy): Thông tin phải chính xác không được sai lệch
so với nguồn tin được xử lý.

18
- Phù hợp (Relevance): thông tin phải liên quan tới công việc và nhiệm
vụ đang cần được giải quyết.
- Đồng bộ (Completeness): thông tin phải đầy đủ các yếu tố mà người
dùng tin muốn biết để giải quyết công việc.
Tiếp theo nội dung là yếu tố thời gian của thông tin, bao gồm 2 đặc
trưng sau đây:
- Kịp thời (Timeliness): thông tin phải được đưa đến người dùng tin
đúng lúc họ cần.
- Thời sự (Current): thông tin phải được thời sự và được cập nhật kịp
thời. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, tốc độ phát triển và nhịp độ thay đổi của
các sự kiện rất nhanh chóng, thì những thông tin thậm chí mới chỉ có ngày
hôm trước đã trở nên lạc hậu và không còn giá trị sử dụng.

Yếu tố nội dung và yếu tố thời gian của thông tin đóng vai trò quyết
định chất lượng của thông tin. Nếu người dùng tin, ví dụ là các nhà quản lý,
mà không có được những thông tin cần thiết, và có được thông tin một cách
kịp thời, thì không thể có các quyết định đúng đắn trong các công việc của
mình được.
Yếu tố hình thức của thông tin yêu cầu thông tin phải đáp ứng tính chi
tiết và hấp dẫn.
Tính chi tiết (Detail) yêu cầu thông tin đưa ra phải cụ thể tới một mức
thích hợp. Ví dụ các dữ liệu về nội dung một bài báo có thể biểu đạt qua một
chuỗi các từ khoá. Số lượng của từ khoá dùng để định chủ đề bài báo được
gọi là chiều sâu định chủ đề. Tham số này cũng biểu hiện tính chi tiết của
thông tin. Hình thức trình bày của thông tin cũng góp phần làm tăng tính hấp
dẫn, từ đó tạo thêm giá trị cho thông tin.
Thông tin trở thành vấn đề thời đại vì tầm quan trọng nằm trong giá trị
của chúng. Song bản thân thông tin không thể tạo ra giá trị, giá trị thông tin
được hình thành do kết quả của quá trình lao động khoa học để thông tin trở

19
thành một sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu sử dụng của con người.
Giá trị của thông tin không thể chỉ được hiểu một chiều: Có giá trị tích cực
(dương) có giá trị tiêu cực (âm). Trách nhiệm của cơ quan thông tin là phải
làm tăng phần các giá trị tích cực để thông tin giúp cho con người giải quyết
có hiệu quả các vấn đề của cuộc sống, hạn chế và tiến tới thủ tiêu các giá trị
tiêu cực. Có như vậy, thông tin mới thực sự là nguồn lực của sự phát triển và
hoạt động thông tin thực sự mới là hoạt động có ích cho xã hội.
1.2.3. Đặc trưng và vai trò của thông tin quản lý
- Thông tin không phải là vật chất, nhưng nó tồn tại nhờ “vỏ vật chất”,
tức là vật mang thông tin (tài liệu, sách báo, tivi…). Chính vì vậy, thường xảy
ra hiện tượng: cùng một vật mang thông tin như nhau nhưng người nhận tin
có thể thu lượm được những giá trị khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ và vấn

đề mà họ quan tâm.
- Thông tin trong quản lý có số lượng lớn vì tính chất đa dạng và phong
phú của hoạt động quản lý, bởi vậy, mỗi chủ thể quản lý, mỗi tổ chức đều có
thể trở thành một trung tâm thu phát thông tin.
- Thông tin trong quản lý phản ánh trật tự và cấp bậc của quản lý.
Trong một tổ chức tồn tại các cấp quản lý khác nhau. Do đó, việc tiếp nhận và
xử lý thông tin cũng như sử dụng nó đối với các cấp quản lý khác nhau là có
sự khác biệt. Nói cách khác, không thể có sự bình đẳng tuyệt đối trong tiếp
nhận, xử lý và sử dụng thông tin của các cấp quản lý và của các thành viên
trong tổ chức.
Thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng trong quản lý. Trong mỗi tổ
chức, để cho các hoạt động quản lý có hiệu quả thì điều không thể thiếu được
là phải xây dựng hệ thống thông tin tối ưu. Vai trò của thông tin trong quản lý
thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
- Vai trò của thông tin trong việc lập kế hoạch và ra quyết định

20
Lập kế hoạch và ra quyết định là công việc phức tạp và khó khăn
nhưng nó lại có ý nghĩa tiên quyết đối với các nhà quản lý. Để có được những
kế hoạch và những quyết định đúng đắn, các nhà quản lý cần rất nhiều thông
tin. Nhờ có thông tin mà các nhà quản lý có thể giải quyết đúng đắn và hiệu
quả các vấn đề sau:
+ Nhận thức vấn đề cần phải lập kế hoạch và ra quyết định;
+ Xác định cơ hội cũng như thách thức đối với tổ chức;
+ Xác lập các cơ sở tiền đề khoa học cần thiết để xây dựng các mục
tiêu;
+ Lựa chọn các phương án để thực hiện các quyết định quản lý.
- Vai trò của thông tin trong công tác tổ chức
Trong quá trình thực hiện chức năng tổ chức, thông tin có vai trò quan
trọng ở các phương diện sau:

+ Nhận thức các vấn đề liên quan tới việc thiết kế mô hình cơ cấu tổ
chức, phân công phân nhiệm và giao quyền;
+ Cung cấp các dữ liệu cần thiết về nhân lực, vật lực và tài lực;
+ Xây dựng các phương án để bố trí, sắp xếp, sử dụng nhân lực và phân
bổ các nguồn lực khác;
+ Giải quyết các vấn đề liên quan tới công tác tổ chức.
- Vai trò của thông tin trong công tác lãnh đạo
Khi thực hiện chức năng lãnh đạo, thông tin giúp các nhà quản lý giải
quyết đúng đắn và hiệu quả các nội dung sau:
+ Nhận thức các vấn đề liên quan tới động cơ thúc đẩy nhân viên;
+ Cung cấp các dữ liệu để làm cơ sở cho việc xây dựng nội quy, quy
chế và chính sách của tổ chức;
+ Lựa chọn các phương pháp và phong cách quản lý hiệu quả.

21
- Vai trò của thông tin trong công tác kiểm tra
Trong lĩnh vực kiểm tra, thông tin có vai trò quan trọng trên các
phương diện:
+ Nhận thức vấn đề cần phải kiểm tra;
+ Cung cấp dữ liệu cho việc xây dựng các tiêu chuẩn;
+ Xây dựng các phương án để đo lường và các giải pháp sửa chữa sai
lầm của chủ thể.
Như vậy, có thể thấy rằng thông tin là mạch máu liên kết toàn bộ các
chức năng của quy trình quản lý, là nhân tố không thể thiếu để xây dựng, triển
khai thực hiện và kiểm tra đánh giá các quyết định quản lý. Thông tin là cầu
nối giữa tổ chức với môi trường.
1.2.4. Phân loại thông tin quản lý
Thông tin quản lý là một dạng thông tin đặc biệt, tồn tại dưới nhiều
dạng thức khác nhau. Tuỳ vào các căn cứ khác nhau mà có thể phân chia
thông tin thành loại:

- Căn cứ vào mức độ xử lý thông tin
+ Thông tin ban đầu
Thông tin ban đầu là những thông tin chưa được xử lý để phục vụ cho
hoạt động quản lý, nhưng nó có thể là một thông tin đã được xử lý ở phương
diện khác với mục đích khác.
+ Thông tin trung gian
Thông tin trung gian là loại thông tin đã được xử lý nhưng mới ở mức
sơ cấp. Vì vậy, các nhà quản lý phải cẩn trọng trong việc xử lý các thông tin
này để phục vụ cho hoạt động quản lý.
+ Thông tin cuối cùng
Thông tin cuối cùng là thông tin đã được xử lý một cách triệt để và có
thể được sử dụng cho hoạt động quản lý.

22
- Căn cứ vào mức độ phản ánh của thông tin
+ Thông tin đầy đủ (Thông tin tổng thể)
Thông tin đầy đủ là thông tin về chỉnh thể đối tượng và đã được xử lý.
+ Thông tin không đầy đủ (Thông tin bộ phận)
Thông tin không đầy đủ là thông tin về một mặt, một khía cạnh của đối
tượng.
- Căn cứ vào tính pháp lý của thông tin
+ Thông tin chính thức
Thông tin chính thức là thông tin được công bố bởi những cấp quản lý
xác định trong tổ chức.
+ Thông tin phi chính thức
Thông tin phi chính thức là những thông tin không phải do những
người có trách nhiệm trong tổ chức công bố.
- Căn cứ vào chức năng của quy trình quản lý:
+ Thông tin phục vụ quá trình lập kế hoạch và ra quyết định;
+ Thông tin phục vụ công tác tổ chức;

+ Thông tin phục vụ công tác lãnh đạo;
+ Thông tin phục vụ công tác kiểm tra.
- Căn cứ hướng chuyển động của thông tin:
+ Thông tin theo chiều dọc
Thông tin theo chiều dọc là thông tin từ cấp trên chuyển xuống cấp
dưới và cấp dưới chuyển lên cấp trên trong một tổ chức và của quan hệ giữa
tổ chức cấp trên và tổ chức cấp dưới.
+ Thông tin theo chiều ngang
Thông tin theo chiều ngang là thông tin giữa các cấp quản lý đồng cấp
và giữa những người bị quản lý với nhau.

23
- Căn cứ vào nội dung của các lĩnh vực liên quan tới hoạt động quản lý
+ Thông tin kinh tế, thông tin tài chính,
+ Thông tin pháp luật;
+ Thông tin văn hoá - xã hội.
- Theo hình thức truyền đạt thông tin
+ Thông tin bằng văn bản;
+ Thông tin bằng lời nói;
+ Thông tin không lời.
Ngoài ra, có thể phân loại: thông tin về nhân sự, thông tin về tài
chính ; thông tin mới, thông tin lạc hậu (đã lão hoá),…
1.2.5. Quá trình thông tin trong quản lý
* Quá trình thông tin cho việc xây dựng quyết định quản lý
Quá trình này gồm: Thu thập thông tin; Xử lý thông tin và Sử dụng
thông tin.
Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin liên quan tới những vấn đề về thực
trạng, khả năng của tổ chức và những thông tin bên ngoài nhằm xây dựng
mục tiêu và các chương trình hoạt động phù hợp.


Thu thập
Lựa chọn
Xử lý
Sử dụng
Ra
quyết định
Dữ liệu
Dữ liệu
Dữ liệu
Dữ liệu
Dữ liệu
v.v…

24
* Quá trình thông tin triển khai thực hiện quyết định quản lý
- Ban hành các quyết định quản lý;
- Truyền đạt việc thực hiện quyết định quản lý;
- Giải thích, hướng dẫn thực hiện quyết định.
Đây chính là quá trình truyền tin trong quản lý. Quá trình này bao gồm:
1. Nguồn tin (Quyết định quản lý), 2. Thông điệp, 3. Mã hoá, 4. Truyền đạt
qua các kênh, 5. Giải mã, 6. Nơi nhận, 7. Thông tin phản hồi.

* Quá trình thông tin cho việc kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quyết định
quản lý
- Thông tin cho việc xây dựng các tiêu chuẩn kiểm tra;
- Thông tin về kết quả thực hiện quyết định quản lý;
- Thông tin về kết quả đánh giá;
- Những thông tin về các giải pháp điều chỉnh.
Quyết định
Quản lý

Mã hoá
Thông điệp
Tiếp nhận
Giải mã
Thực thi
Quyết định
Quản lý
KẾT QUẢ
Người quản lý
Người bị quản lý
Phản hồi
Nhiễu
Truyền đạt
Giải thích
Hướng dẫn

×