Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Liên thông đào tạo trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 123 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC QIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM VĂN LÂM





LIÊN THÔNG ĐÀO TẠO TRONG VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ





LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ










HÀ NỘI, NĂM 2008


ĐẠI HỌC QUỐC QIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHẠM VĂN LÂM



LIÊN THÔNG ĐÀO TẠO TRONG VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ




LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ


Ngành: QUẢN LÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Mã số : 603472




HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN VĂN KHÁNH






HÀ NỘI, NĂM 2008


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU. 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 5
3. Mục tiêu nghiên cứu 6
4. Phạm vi nghiên cứu 6
5. Mẫu khảo sát 7
6. Câu hỏi nghiên cứu 7
7. Giả thuyết nghiên cứu 7
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết 7
9. Kết cấu của Luận văn 8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC KH&CN VÀ LIÊN
THÔNG ĐÀO TẠO 10
1.1. Khái niện và một số tiêu chí về nguồn nhân lực KH&CN 10
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực 10
1.1.2. Khái niệm về nguồn nhân lực KH&CN 11
1.1.3. Khái niệm về nguồn nhân lực KH&CN 12
1.1.4. Chất lượng nguồn nhân lực KH&CN 12

1.1.5. Tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực KH&CN 14
1.2. Khái niệm liên thông trong đào tạo 15
1.2.1. Hệ thống giáo dục 15
1.2.2. Liên thông trong đào tạo 16
1.2.3. Khái niệm về kế thừa 19
1.2.4. Tính kế thừa 20
1.2.5. Cách kế thừa 24
1.2.6. Tổ chức quản lý đào tạo liên thông. 24
1.2.7. Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực KH&CN 26
Trang
1.2.8. Lợi ích của liên thông đào tạo 27
1.2.9. Phát triển nguồn nhân lực KH&CN ở tỉnh Hải Dương 27
Tiểu kết Chương 1 29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG LIÊN THÔNG ĐÀO TẠO ĐỐI VỚI NGUỒN
NHÂN LỰC KH&CN . 30
2.1. Thực trạng nguồn nhân lực KH&CN ở Hải Dương 30
2.1.1. Số lượng và cơ cấu phân theo trình độ đào tạo 30
2.1.2. Phân theo hình thức đào tạo 31
2.1.3. Nhận xét và đánh giá chung 32
2.2. Liên thông đào tạo đối với nguồn nhân lực KH&CN ở tỉnh Hải Dương 35
2.2.1. Số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực KH&CN qua liên thông đào tạo 35
2.2.2. Nguồn nhân lực qua liên thông đào tạo phân theo hình thức đào tạo 40
2.3. Thực trạng đào tạo liên thông ở Trường Cao đẳng nghề Hải Dương và
Trường Cao đẳng Công nghiệp Sao Đỏ 43
2.3.1. Một số nét về Trường Cao đẳng nghề Hải Dương 43
2.3.2. Thực trạng đào tạo liên thông từ trình độ Trung cấp nghề lên trình độ Cao
đẳng nghề, nghề Điện công nghiệp của Trường Cao đẳng nghề Hải Dương 47
2.3.3. Một số nét về Trường Cao đẳng Công nghiệp Sao Đỏ 58
2.3.4. Đào tạo liên thông từ trình độ Trung cấp nghề lên Cao đẳng nghề, ngành
Công nghệ cơ khí của Trường Cao đẳng Công nghiệp Sao Đỏ 62

2.3.5. Nhận xét, đánh giá 72
2.4. Đánh giá của thị trường lao động về nguồn nhân lực KH&CN qua đào tạo
liên thông ở tỉnh Hải Dương 74
Tiểu kết Chương 2 77
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP LIÊN THÔNG ĐÀO TẠO ĐƯỢC THỰC HIỆN
DỰA TRÊN CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO NHẰM ĐẠT MỤC TIÊU GẮN
VỚI NHU CẦU THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 78
3.1. Mục tiêu đào tạo gắn với thị trường lao động 78
3.2. Chương trình liên thông xuất phát từ mục tiêu đào tạo 88
3.3. Đổi mới liên thông đào tạo bắt đầu từ giáo viên 89
3.4. Đổi mới quy trình đào tạo liên thông 92
3.5. Đổi mới phương pháp dạy và học trong liên thông 94
3.6. Đổi mới cách đánh giá trong đào tạo liên thông 96
3.7. Đổi mới về đầu tư và cơ chế tài chính 97
3.8. Thử nghiệm các giải pháp trên 99
Tiểu kết Chương 3 101
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 102
KẾT LUẬN 102
KHUYẾN NGHỊ 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
PHỤ LỤC 108



1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Việt Nam đã chính thức là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới

(WTO). Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đã tạo ra cho nước ta
những cơ hội và thách thức mới. Phát triển kinh tế - xã hội bền vững là nhiệm
vụ trọng tâm, phấn đấu đến năm 2020 đất nước ta trở thành nước công
nghiệp. Với vai trò to lớn của KH&CN cùng với giáo dục và đào tạo, Đại hội
X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển KH&CN cùng với phát triển giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tận
dụng những thành tựu của cách mạng KH&CN hiện đại, tiếp thu tri thức, các
nguồn lực và kinh nghiệm của nước ngoài; đi thẳng vào những công nghệ
hiện đại để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hơn 20 năm đổi
mới, nền kinh tế nước ta đã liên tục có tốc độ tăng trưởng cao. Đây là điều
kiện thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển KH&CN, đồng thời thúc đẩy đổi
mới công nghệ và ứng dụng thành tựu KH&CN trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với sự phát triển KH&CN nước ta
hiện nay là phải nhanh chóng phát triển nguồn nhân lực KH&CN cả về số
lượng và chất lượng để nâng cao năng lực KH&CN, rút ngắn quá trình CNH,
HĐH đất nước. Hiện nay, trình độ chuyên môn, khả năng nghiên cứu, hiệu
quả sử dụng nhân lực khoa học công nghệ còn hạn chế.
Nghiên cứu khoa học và tham gia đào tạo là chức năng, nhiệm vụ chính
của đội ngũ cán bộ KH&CN chất lượng cao. Nhưng tỷ lệ nhân lực tham gia
trực tiếp vào quá trình nghiên cứu khoa học còn thấp. Cụ thể: ở đề tài cấp nhà
nước chỉ có 30% cán bộ được tham gia, tương ứng đề tài cấp bộ có 48,1% và

2
đề tài cấp cơ sở là 65,1%. Điều này hợp lý ở chỗ cấp đề tài càng cao, càng đòi hỏi
khả năng nghiên cứu của số cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Tuy nhiên, xét
tổng thể thì số lượng cán bộ KH&CN được tham gia nghiên cứu khoa học mới đạt
65,1%, còn lại 34,9% không tham gia, đó là sự lãng phí rất lớn.
Các đề tài nghiên cứu KH&CN của nước ta còn nhiều điểm chưa tiếp

cận được trình độ KH&CN thế giới, khả năng hội nhập còn hạn chế. Việc
tham gia hội thảo và các kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí
khoa học có danh tiếng trên thế giới còn ít. Số bằng phát minh, sáng chế của
Việt Nam rất hạn chế. Thời kỳ 2001- 2005, Việt Nam chỉ có 11 đơn đăng ký
sáng chế ở nước ngoài. Trong khi đó Indonexia có 36, Thái Lan có 39,
Philipin có 85, Hàn Quốc có 15.000, Nhật Bản có 87.620 và Mỹ có 206.710.
Nếu căn cứ vào số lượng các công trình nghiên cứu khoa học được đăng trên
tạp chí quốc tế và bằng sáng chế được quốc tế công nhận thuộc 27 môn khoa
học, thì Việt Nam chưa lọt vào danh sách của 50 nước được tính đến
(Singapo, Malaisia và Thái Lan đã có tên trong danh sách này). Điều đó có
nghĩa là, trình độ nguồn nhân lực KH&CN nước ta còn rất thấp.
Hệ thống giáo dục và đào tạo ở mỗi quốc gia có vai trò đòn bẩy phát
triển nền kinh tế và quyết định sự phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn
nhân lực KH&CN. Chỉ có hệ thống giáo dục và đào tạo phát triển, tiên tiến
mới tạo ra nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao.
Công cuộc đổi mới đất nước, giáo dục và đào tạo luôn được Đảng, Nhà
nước và cả xã hội quan tâm. Ngành giáo dục cũng đã qua nhiều lần chấn hưng
và đổi mới nhưng kết quả đạt được rất hạn chế. Để đáp ứng yêu cầu nguồn
nhân lực cho CNH, HĐH, nền giáo dục nước ta cần phải nhanh chóng đổi mới
và phát triển, đặc biệt là giáo dục nghề nghiệp. Sự lạc hậu, trì trệ kém phát
triển của giáo dục nước ta so với các nước trong khu vực như: Thái Lan,
Trung Quốc, Malaisia, Singapore, Philipin, Indonexia, đã thấy được vị trí
giáo dục Việt Nam còn khoảng cách rất xa so với các nước phát triển. Trong
xu thế hội nhập, phát triển nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực không chỉ còn

3
ở mỗi quốc gia, mà là nguồn nhân lực toàn cầu. Những lợi thế về nguồn tài
nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ đã nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân
lực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo. Nếu không sớm nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ không có khả năng cạnh tranh với các nước

trong khu vực về thu hút đầu tư và các công nghệ tiên tiến từ bên ngoài.
Trước những cơ hội và thách thức trong thời kỳ hội nhập, nếu không có
những quyết sách đột phá về đổi mới giáo dục, đặc biệt là giáo dục nghề
nghiệp để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và những biện pháp mạnh mẽ
tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu về kinh tế - xã hội
ngày càng xa là khó tránh khỏi.
Chất lượng nguồn nhân lực KH&CN được đánh giá qua hệ thống giáo
dục: Giáo dục yếu kém, lạc hậu không thể tạo ra nguồn nhân lực KH&CN
chất lượng cao. Vì vậy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KH&CN rất
cần phải đổi mới và phát triển giáo dục, đặc biệt là giáo dục nghề nghiệp.
Liên thông đào tạo trong giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực KH&CN đã được các nước phát triển thực hiện và có hiệu quả từ nhiều
năm. Sự kế thừa kiến thức, kỹ năng, phương pháp ở các bậc học đã được
thực hiện hoàn hảo, nên chất lượng và hiệu quả của giáo dục rất cao.
Ở Việt Nam, liên thông đào tạo đã được triển khai và thực hiện từ lâu,
nhưng chất lượng và hiệu quả còn rất thấp và có quá nhiều vấn đề bất cập.
Tác giả của luận văn cũng như rất nhiều người khác đã trải qua quá trình giáo
dục ở Việt nam từ mầm non đến sau đại học, có rất nhiều lý do để khẳng định
tính kế thừa của quá trình giáo dục không tốt, kỹ năng và phương pháp đều
lạc hậu. Chẳng hạn: môn Chính trị, được đề cập đến từ chương trình THPT,
trong giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, các lớp lý luận trung cấp, cao
cấp đều dập khuôn một chương trình và lý luận gần như tương tự. Những lý
luận đó sau 20, 30 năm thay đổi không đáng là bao. Kết quả là người học khó
tiếp thu, nhàm chán với những lý luận lạc hậu, chất lượng đào tạo không cao.
Môn ngoại ngữ, được giảng dạy từ THCS đến sau đại học, ở cấp học nào

4
cũng học ngoại ngữ, thời gian học mất trên chục năm, nhưng số đông vẫn
chưa nghe, nói được. Trong khi đó người ta có thể học thời gian 09 tháng đến
01 năm ở cơ sở giáo dục chất lượng là có thể nghe, nói, viết. Môn toán học, ở

THPT học vi phân, tích phân, lên đại học học lại vi phân, tích phân. Người
học như một anh thợ giải toán, giải hết cách này đến cách khác, nhưng không
hề biết ứng dụng bài toán, cách giải toán đó vào đâu. Môn vật lý, ở giáo dục
nghề nghiệp và giáo dục đại học đều học lại các định luật, quy tắc ở phổ
thông đã học. Cử n hân kinh tế không cần thiết phải học môn hoá học ở THPT
nhiều đến vậy. Rất nhiều môn học khác cũng ở tình trạng tương tự. Chương
trình đào tạo không thống nhất nên liên thông gặp rất nhiều khó khăn. Chẳng
hạn như cùng trình độ Trung cấp ngành kế toán, nhưng mỗi trường đào tạo
theo một chương trình nên khi liên thông lên Cao đẳng hay Đại học rất khó, vì
không biết nên kế thừa nội dung của trường nào. Liên thông ở các cấp học rất
yếu kém nên kết quả đào tạo chất lượng không cao, không đáp ứng được yêu
cầu. Cụ thể, phần lớn các kỹ sư, cử nhân khi ra trường không làm việc được,
mà phải qua quá trình đào tạo lại. Mặc dù, giáo dục đã nhiều lần cải cách, thí
điểm, đề án này chưa xong, đề án khác lại ra đời, tiêu tốn biết bao tiền của
nhưng chất lượng giáo dục vẫn đang trong thời kỳ chấn hưng.
Hải Dương là tỉnh có trên 1,7 triệu dân, nằm ở phía đông thủ đô Hà
Nội, có 8 khu công nghiệp và 13 cụm công nghiệp phát triển, nhu cầu lao
động kỹ thuật có chất lượng hàng năm lên đến trên 60 ngàn người. Nhưng
thực tế nguồn lao động kỹ thuật ở Hải Dương trình độ còn thấp, nên nhiều
doanh nghiệp phải sử dụng lao động kỹ thuật ở nơi khác đến. Đào tạo nguồn
nhân lực ở Hải Dương còn nhiều hạn chế, đặc biệt là liên thông đào tạo chưa
đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực KH&CN và thị trường lao động.
Vậy việc chỉ ra những nguyên nhân yếu kém và đề ra các biện pháp
liên thông đào tạo trên cơ sở đổi mới tư duy đào tạo, để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực KH&CN, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động là rất cần thiết.
Đó là lý do tôi chọn đề tài “Liên thông đào tạo trong việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực KH&CN ”.

5
1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài

* Ý nghĩa lý thuyết:
- Làm rõ ý nghĩa và triết lý của liên thông đào tạo đối với nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực KH&CN, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.
- Bổ sung thêm lý luận về:
+ Liên thông đào tạo ở các cấp trình độ
+ Kế thừa trong liên thông đào tạo về chương trình, kiến thức, kỹ năng,
hành vi, tổ chức quản lý, phương pháp dạy, phương pháp học
* Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
KH&CN để đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KH&CN của các nước phát triển
có nền kinh tế thị trường năng động được thực hiện rất hiệu quả bằng biện
pháp liên thông đào tạo.
Liên thông trong đào tạo đã có lịch sử gần 100 năm. Xuất phát từ nhu
cầu người học muốn tiếp tục học lên mà không phải học lại những gì đã học.
Đây là một hình thức đào tạo tiết kiện thời gian, tiền bạc và công sức mà vẫn
đảm bảo chất lượng.
Trên thế giới, việc liên thông giữa các cơ sở đào tạo được ghi nhận ở
một số nước như: Anh, Đài loan, Nhật bản, New Zealand, Australia và Hoa
kỳ. Lịch sử của sự liên thông đào tạo được nhắc đến Giáo sư William R.
Harper (1856 - 1906), Viện trưởng Đại học Chicago. Năm 1907 Đại học
California - Berkeley đào tạo liên thông “nới rộng”. Những năm tiếp theo liên
thông đào tạo được hoàn thiện và rộng khắp ở nhiều trường của Hoa kỳ và các
nước có nền giáo dục phát triển.

6
Ở Việt Nam, trước năm 1975 liên thông được đề cập đến ở hầu hết các
trường đại học ở miền Bắc theo mô hình trường đại học chuyên ngành, đào
tạo theo yêu cầu của ngành. Việc liên thông diễn ra thường dưới hình thức tổ

chức các lớp chuyên tu, hoàn chỉnh. Ở miền Nam áp dụng theo mô hình các
viện đại học đa ngành của Viện đại học Đông dương do người Pháp thành lập
Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
chỉ thị của Chính phủ, đào tạo liên thông được đặt ra, nhất là khi thực hiện
chương trình đào tạo hai giai đoạn và việc thành lập hai đại học quốc gia và ba
đại học vùng. Cuối thập niên 90, việc liên thông giáo dục đại cương và chuyên
nghiệp trở thành bình thường trong một nhà trường. Ngoài ra, một số trường
thực hiện liên thông cấp bằng hai hoặc tiếp tục cấp bằng chuyên tu, tại chức
hoặc hoàn chỉnh Năm 2005 Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp chỉ tiêu đào tạo thí
điểm liên thông cho 31 trường.
Liên thông đào tạo ở nước ta còn rất nhiều hạn chế, mỗi trường đào tạo theo
một chương trình khác nhau, thiếu tham khảo và thống nhất. Phần lớn đào tạo xong
mới tính chuyện liên thông. Đào tạo theo tín chỉ thuận lợi cho đào tạo liên thông,
nhưng số ít trường đủ điều kịên làm và làm chưa tốt. Chỉ tiêu đào tạo liên thông bó
hẹp, vì liên thông là sự linh hoạt trong đào tạo để thích nghi với nền kinh tế thị
trường năng động. Tuy nhiên, liên thông ở nước ta mới chỉ đề cập ở các cấp giáo
dục nghề nghiệp và đại học.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp liên thông dựa trên chương trình đào tạo nhằm thực
hiện mục tiêu đào tạo gắn với nhu cầu thị trường lao động.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi quy mô không gian: nghiên cứu về liên thông đào tạo ở chuyên
ngành Điện công nghiệp ở Trường Cao dẳng nghề Hải Dương và Công nghệ cơ khí
ở Trường Cao đẳng Công nghiệp Sao Đỏ trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi thời gian: 05 năm trở lại đây

7
- Phạm vi nội dung:
+ Thực trạng của liên thông đào tạo
+ Giải pháp liên thông dựa trên chương trình đào tạo nhằm đạt mục tiêu

đào tạo gắn với nhu cầu thị trường lao động.
5. Mẫu khảo sát
Một số cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Liên thông đào tạo như thế nào để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
KH&CN, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trên địa bàn tỉnh Hải Dương ?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Liên thông phải được thực hiện dựa trên chương trình đào tạo nhằm đạt
mục tiêu đào tạo gắn với nhu cầu thị trường lao động. Được triển khai bằng
các biện pháp sau:
+ Đào tạo liên thông gắn với thị trường lao động;
+ Chương trình liên thông đào tạo xuất phát từ mục tiêu đào tạo;
+ Đổi mới liên thông đào tạo bắt đầu từ giảng viên;
+ Đổi mới quy trình đào tạo liên thông;
+ Đổi mới phương pháp dạy và học trong liên thông đào tạo;
+ Đổi mới cách đánh giá trong đào tạo liên thông;
+ Đổi mới về đầu tư và cơ chế tài chính trong liên thông;
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra dùng bảng câu hỏi

8
- Thực nghiệm
- Xử lý kết quả: phân tích hệ thống, tổng hợp, so sánh, tổng kết thực
tiễn, khái quát hoá.
Luận cứ:
- Luận cứ lý thuyết:
Các cơ sở lý luận, khai thác tài liệu, công trình khoa học để chứng minh liên

thông là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KH&CN.
- Luận cứ thực tiễn:
Thu thập từ trong thực tế bằng cách quan sát, thực nghiệm, phỏng vấn
điều tra để tìm kiếm luận cứ và dùng luận cứ chứng minh luận điểm liên
thông đào tạo.
Kết luận và khuyến nghị
- Kết luận của việc nghiên cứu:
Liên thông phải được thể hiện dựa trên chương trình đào tạo xuất phát
từ mục tiêu đào tạo gắn với nhu cầu thị trường lao động, nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực KH&CN.
- Các khuyến nghị rút ra từ kết quả nghiên cứu:
+ Đổi mới tư duy trong đào tạo liên thông;
+ Tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực KH&CN thông qua
liên thông đào tạo.
9. Kết cấu của Luận văn
Danh mục các từ viết tắt
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1. Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực KH&CN và liên thông đào tạo

9
Chương 2. Thực trạng nguồn nhân lực KH&CN và liên thông đào tạo
Chương 3. Giải pháp liên thông đào tạo được thực hiện dựa trên
chương trình đào tạo nhằm đạt mục tiêu gắn với nhu cầu thị trường lao động.
- Kết luận:
- Khuyến nghị:
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục



















10
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ NGUỒN NHÂN LỰC KH&CN VÀ LIÊN THÔNG ĐÀO TẠO

1.1. Khái niệm và tiêu chí đánh giá về nguồn nhân lực KH&CN
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
“Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là vấn đề cốt lõi trong sự
phát triển của mỗi quốc gia, nhất là trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế thế giới. Cho đến nay các khái niệm nguồn nhân lực đang được hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau.
- Theo nghĩa rộng: Nguồn nhân lực (Human Rersources) là tổng thể các
tiềm năng (lao động) của con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một
địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó, có khả năng huy động vào quá

trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (hoặc một vùng, một địa phương
cụ thể). Với cách tiếp cận này, nguồn nhân lực như một bộ phận cấu thành các
nguồn lực của quốc gia như nguồn lực vật chất (trừ con người), nguồn nhân
lực tài chính, nguồn lực trí tuệ (“chất xám”) Những nguồn lực này có thể
được huy động một cách tối ưu để phát triển kinh tế - xã hội. Có thể mô tả
điều này như sau:
Nguồn nhân lực được nghiên cứu trên giác độ số lượng và chất lượng.
Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu này có quan
hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Chất lượng nguồn
nhân lực được nghiên cứu trên các khía cạnh về sức khoẻ, trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực phẩm chất
- Theo nghĩa tương đối hẹp: Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lao
động. Khái niệm nguồn lao động hiện nay cũng có những khác biệt giữa các
quốc gia. Chẳng hạn:

11
Ở Pháp, nguồn lao động là toàn bộ những người có khả năng lao động
và đang làm việc và chưa làm việc nhưng không bao gồm những người có khả
năng lao động mà không có nhu cầu làm việc.
Ở Việt Nam, hiện nay tương đối thống nhất cách hiểu nguồn lao động
gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (gồm cả những người trên tuổi
lao động, có khả năng lao động nhưng chưa làm việc do: đang thất nghiệp, đang
đi học, đang làm nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc).
- Theo nghĩa hẹp hơn, nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động trong
nền kinh tế quốc dân (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế), nghĩa là bao gồm
những người trong một độ tuổi nhất định nào đó, có khả năng lao động, thực tế
đang có việc làm và những người thất nghiệp. Về độ tuổi, hiện nay có nhiều quy
định khác nhau. Đa số các nước có quy định tối thiểu (thường là 15 tuổi), còn tối
đa thường trùng với tuổi nghỉ hưu hoặc không giới hạn.
Ở Việt Nam, lực lượng lao động bao gồm những người trong độ tuổi

lao động, đang có việc làm; những người ngoài độ tuổi lao động thực tế đang
làm việc và những người thất nghiệp. Nghĩa là không bao gồm những người
trong độ tuổi lao động, có khả năng nhưng đang đi học, đang làm nội trợ
trong gia đình, không có nhu cầu làm việc ”
1

1.1.2. Khái niệm nhân lực KH&CN
Việt Nam chưa có tài liệu nào đưa ra một định nghĩa chính thức về nhân
lực KH&CN hay nguồn nhân lực KH&CN. Nhưng trong thực tế để thống kê
nhân lực KH&CN, chúng ta mới làm được thống kê theo trình độ đào tạo và
chưa thống kê được theo theo nghề nghiệp. Có nhiều cách hiểu khác nhau về
nhân lực KH&CN, theo tác giả: ‘‘Nhân lực KH&CN là những người trực tiếp
tham gia vào hoạt động KH&CN, bao gồm những người có bằng cấp từ công

1
Đỗ Minh Cương: Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, Sách Từ chiến lược phát
triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, NXBGD 2002, tr.22

12
nhân kỹ thuật trở lên và những người không có bằng cấp nhưng phải có trình độ
tương đương”.
1.1.3. Khái niệm nguồn nhân lực KH&CN
Để xem xét và có thể trực tiếp quản lý phần nhân lực quan trọng nhất, cần
tính đến số người đóng góp cho việc tạo ra tri thức khoa học và ứng dụng chúng
vào các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, sản xuất và đời sống. Những đối tượng này
được bao quát trong khái niệm nguồn nhân lực KH&CN:
“Nguồn nhân lực KH&CN là toàn bộ những người có bằng cấp chuyên
môn nào đó trong lĩnh vực KH&CN và những người có trình độ kỹ năng thực
tế tương đương mà không có bằng cấp và tham gia một cách thường xuyên
(hệ thống) vào hoạt động KH&CN”

2
.
- Đã tốt nghiệp trường đào tạo trình độ nhất định nào đó về một chuyên
môn KH&CN (từ công nhân có bằng cấp tay nghề trở lên).
- Không được đào tạo như đã nói ở trên, nhưng tham gia (thường xuyên)
vào hoạt động KH&CN mà đòi hỏi trình độ trên.
Theo khái niệm này, những người có bằng cấp tuy không hoạt động
KH&CN, nhưng nếu cần thiết vẫn có thể huy động vào hoạt động KH&CN.
Những người về hưu sẽ rút dần khỏi lực lượng tham gia thị trường nhân lực
KH&CN, nhưng vẫn có thể huy động hoặc mời làm chuyên gia tư vấn.
Một vấn đề nữa trong khái niệm về nguồn nhân lực KH&CN là những
người có trình độ kỹ năng thực tế tương đương mà không có bằng cấp và
tham gia hoạt động KH&CN (thường xuyên), được đưa vào danh sách nguồn
nhân lực KH&CN.
1.1.4. Chất lượng nguồn nhân lực KH&CN
Chất lượng nguồn nhân lực KH&CN thể hiện trạng thái nhất định của
nguồn nhân lực KH&CN, với tư cách vừa là khách thể vật chất đặc biệt vừa là

2
TS Nguyễn Thị Anh Thu: Quản lý và phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, Hà Nội 2006, tr.4

13
chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Chất lượng nguồn
nhân lực KH&CN là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về
trạng thái thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần
của nguồn nhân lực KH&CN. Nói cách khác, trình độ học vấn, trạng thái sức
khoẻ, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp, thành phần xã hội
của nguồn nhân lực KH&CN, trong đó trình độ học vấn kỹ năng nghề nghiệp là
tiêu chí quan trọng để đánh giá, phân loại chất lượng nguồn nhân lực KH&CN.
Để giáo dục đào tạo có khả năng biến những tiềm năng nguồn nhân lực

KH&CN của một quốc gia thành những lực lượng lao động phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội thành hiện thực, chúng ta cần có cách tiếp cận
mới trong đánh giá chất lượng nguồn nhân lực KH&CN. Thông thường, việc
đánh giá chất lượng nguồn nhân lực KH&CN thông qua các con số thống kê
về trình độ chuyên môn và nghề nghiệp, cơ cấu về ngành nghề và cơ cấu về
trình độ của nguồn nhân lực KH&CN (theo Niên giám thống kê). Nhưng
trong thực tiễn, sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ ở trong tất
cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ đã làm biến đổi nhanh chóng nội
dung, tính chất lao động nghề nghiệp cũng như cơ cấu ngành nghề và cơ cấu
trình độ của nguồn nhân lực KH&CN.
Cách tiếp cận đánh giá chất lượng nguồn nhân lực KH&CN chủ yếu đề
cập đến nhân lực KH&CN được đào tạo chứ không quan tâm đến những tiêu
chuẩn chức danh mà nguồn nhân lực KH&CN đó đảm nhiệm. Có thể ở một số
vị trí chức danh công việc thì trình độ đào tạo được phát huy thành năng lực
công tác và tạo ra năng suất chất lượng của sản phẩm hoạt động nghề nghiệp.
Nhưng đối với nhiều nhóm nguồn nhân lực KH&CN thì trình độ được đào tạo
không đồng nghĩa với năng lực công tác, năng xuất và chất lượng của sản
phẩm hoạt động nghề nghiệp như: nhân lực trong quản lý doanh nghiệp, nhân
lực trong khu vực quản lý hành chính công. Chính vì vậy, cần phải có cách
tiếp cận mới trong việc đánh giá chất lượng nguồn nhân lực KH&CN. Tức là

14
việc đánh giá phải xuất phát từ chức năng nhiệm vụ và những chức danh cụ
thể mà nguồn nhân lực KH&CN đó đang phải đảm nhiệm.
1.1.5. Tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực KH&CN
Trên thế giới, mỗi quốc gia có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn
hoá khác nhau nên cơ cấu nhân lực KH&CN và chất lượng nguồn nhân lực
cũng khác nhau.
Chất lượng nguồn nhân lực KH&CN được đánh giá qua các tiêu chí về
số lượng, cơ cấu, trình độ của nhân lực KH&CN; số nhân lực KH&CN trên

một vạn dân; tỷ lệ chuyên gia có học hàm, học vị; tương quan giữa kỹ sư, kỹ
thuật viên và công nhân kỹ thuật cao,
Tính hợp lý, phù hợp của cơ cấu nguồn nhân lực KH&CN thường được
thể hiện ở những sự cân đối sau :
- Cân đối giữa các loại nhân lực: nghiên cứu, triển khai, giáo dục, đào
tạo, thao tác, vận hành;
- Cân đối giữa các trình độ: sau đại học, đại học, trung cấp kỹ thuật, lao
động giản đơn;
- Cân đối giữa các lĩnh vực hoạt động kinh tế: công nghiệp, nông
nghiệp, hoạt động dịch vụ;
- Cân đối giữa các địa bàn hoạt động: đô thị, khu công nghiệp tập trung,
nông thôn, miền núi;
- Cân đối giữa các lĩnh vực KH&CN: Nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu
triển khai, nghiên cứu ứng dụng, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học kỹ thuật
Thực tế không có chuẩn mực chung về cơ cấu nhân lực KH&CN cho
mọi quốc gia.

15
1.2. Khái niệm liên thông trong giáo dục đào tạo
Giáo dục của chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến liên thông đào tạo.
Sự cải cách giáo dục được triển khai từ nhiều năm, nhiều lần, nhưng chưa đạt
được mục tiêu. Tính khoa học, tính kế thừa, tính thống nhất rất yếu kém, dẫn
đến giáo dục của Việt Nam đang tụt sâu khoảng cách đối với các nước trong
khu vực và thế giới.
1.2.1. Hệ thống giáo dục:
Mỗi quốc gia có một hệ thống giáo dục đặc trưng.
- Theo Luật Giáo dục năm 2005, hệ thống giáo dục của nước ta gồm
giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.
- Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân gồm:

+ Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;
+ Giáo dục phổ thông có tiểu học, THCS, THPT;
+ Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề;
+ Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học)
đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.










16

1.2.2. Liên thông đào tạo
Xuất phát từ nhu cầu của người học, muốn học lên, học chuyển ngang
sang nghề khác hoặc học chuyển xuống nghề thấp hơn mà không phải học lại
những gì đã học là liên thông đào tạo. Điều này tạo ra khả năng học tập suốt
đời và giúp chuyển đổi nghề nghiệp một cách linh hoạt. Trong nền kinh tế thị
trường sôi động linh hoạt và cạnh tranh, chỉ có liên thông đào tạo mới có thể
đáp ứng nguồn nhân lực cho thị trường một cách linh hoạt nhất, tiết kiệm thời
gian, tiền bạc, công sức nhiều nhất.
Nước ta chưa có định nghĩa, khái niệm đầy đủ về liên thông đào tạo vì
liên thông đào tạo mới được thí điểm năm 2004 và được luật hoá năm 2005.
Do hệ thống giáo dục của Việt Nam lạc hậu, chưa tiếp cận với cơ chế thị
trường vẫn quen với cách đào tạo giao chỉ tiêu theo kế hoạch nên liên thông
đào tạo không phát huy được vai trò của nó. Khi chuyển sang đào tạo theo

yêu cầu xã hội thì liên thông đào tạo là một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, còn

17
nhiều ý kiến khác nhau về liên thông. Nhưng theo tác giả: “Liên thông đào
tạo là loại hình đào tạo mà người học kế thừa kiến thức, kỹ năng đã có, sử
dụng kết quả học tập đã tích luỹ trong quá trình học tập hoặc làm việc khi
chuyển sang học ngành, nghề, trình độ đào tạo, hình thức học tập khác trong
hệ thống giáo dục quốc dân”.
Liên thông đào tạo được thực hiện theo nguyên tắc kế thừa, bảo đảm
cho người học không phải học lại những kiến thức, kỹ năng đã tích luỹ được
trong quá trình học tập hoặc làm việc.
Lần đầu tiên “liên thông” đã được luật hoá bởi các Điều 6, 35, 41,
trong Luật Giáo dục (có hiệu lực từ ngày 01/01/2006). Điều 32 và Điều 38 có
quy định thời gian học chuyển tiếp. Đây là bước đổi mới để giáo dục nước
nhà giảm thiểu khoảng cách thụt lùi với giáo dục các nước trong khu vực,
từng bước thích nghi với tính linh hoạt của yêu cầu nguồn nhân lực trong thời
kỳ hội nhập.
Liên thông đào tạo không phù hợp với cách đào tạo cũ (truyền thống
của các nước XHCN trước kia). Nó đòi hỏi phải có tính hệ thống, đồng bộ
trong giáo dục từ các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân. “Chương
trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất; kế
thừa giữa các cấp học, các trình độ đào tạo và tạo điều kiện cho sự phân
luồng, liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình
thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Một trong các tiêu chí xây
dựng chương trình là phải đảm bảo liên thông với các chương trình khác.
Ngoài việc xây dựng chương trình, Luật đã quy định thời gian liên thông và
một số nội dung quy định khác về liên thông.
Để hiện thực hóa liên thông đào tạo ngày 13 tháng 2 năm 2008 Bộ Giáo dục
và Đào tạo có quyết định số 06/2008/QĐ-BGDĐT ban hành quy định đào tạo liên
thông trình độ cao đẳng, đại học. Sau 4 năm thí điểm liên thông, rất nhiều ý kiến khác

nhau về cách làm, hiệu quả Nhưng liên thông đào tạo có nhiều ưu điểm như đã
trình bày ở trên, mặt khác xu thế hội nhập đã thúc đẩy tiến trình mở rộng liên thông.

18
Đào tạo nghề nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội. Luật Dạy nghề được Quốc hội thông qua ngày
29 tháng 11năm 2006, đã quy định liên thông đào tạo với các trình độ đào tạo.
Điều 4, Nghị định số 139/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2006 đã quy
định Liên thông trong dạy nghề và liên thông giữa các trình độ dạy nghề với
các trình độ đào tạo khác trong hệ thống giáo dục quốc dân:
“ Liên thông trong dạy nghề và liên thông giữa các trình độ dạy nghề với các
trình độ đào tạo khác nhằm tạo điều kiện để người học được sử dụng kết quả học
tập đã tích luỹ trong quá trình học tập hoặc làm việc khi chuyển sang học ngành,
nghề, trình độ đào tạo, hình thức học tập khác trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Việc liên thông được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm cho người học
không phải học lại những kiến thức, kỹ năng đã tích luỹ được trong quá trình
học tập hoặc làm việc.
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định việc thực hiện
liên thông trong dạy nghề.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội quy định việc thực hiện liên thông giữa các trình độ
dạy nghề với các trình độ đào tạo khác trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Căn cứ vào chương trình khung và quy định việc thực hiện liên thông của
người có thẩm quyền quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này, người đứng đầu
cơ sở dạy nghề, trường trung cấp chuyên nghiệp, cơ sở giáo dục đại học có
trách nhiệm xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo bảo đảm liên thông; công
nhận chuyển đổi kết quả học tập trong từng trường hợp cụ thể.”
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội đã ban hành quy định đào tạo liên
thông giữa các trình độ tay nghề tại Quyết định số 53/2008/QĐ-BLĐTBXH
ngày 06 tháng 5 năm 2008.

Liên thông đào tạo là hình thức đào tạo không mới đối với các nước phát
triển như: Mỹ, Anh, Úc, Canada, Singapore, Nhật bản Nhưng đối với Việt

19
Nam hiện vẫn đang là một loại hình mới mẻ, còn dè dặt và khống chế trên cơ
sở chỉ tiêu. Tính linh hoạt của liên thông chưa được phát huy hiệu quả.
Một số khái niệm của liên thông chưa được định hoá, nhưng theo TS
Ngô Tấn Luật - ĐH Tiền Giang thì được hiểu như sau:
- Liên thông “lên” là để nhận một văn bằng cao hơn. Trường hợp liên
thông cùng ngành nghề xin tạm gọi là liên thông “dọc”. Không cùng ngành
nghề tạm gọi là liên thông “xiên”, thời gian đào tạo liên thông này hiển nhiên
là dài hơn thời gian đào tạo liên thông “dọc” vì cần học chuyển đổi. Tuy vậy,
liên thông “xiên - lên” cũng có thể chuyển tiếp sang một văn bằng gần đó mà
không cần chuyển đổi.
- Liên thông“ngang” là để nhận bằng cấp thứ hai cùng bậc. Trường
hợp này chỉ cần học thêm các học phần còn thiếu để nhận bằng cấp mới, do
yêu cầu chuyển đổi nghề nghiệp.
- Liên thông“xuống” là để nhận bằng cấp dù thấp hơn nhưng hữu dụng
hơn đối với người học. Đây là hình thức liên thông rất phổ biến trong các
nước đã và đang phát triển, vì người lao động cần chuyển đổi nhanh các
ngành nghề theo yêu cầu thu nhập hay hoàn cảnh.
1.2.3. Khái niệm về kế thừa
Trong liên thông đào tạo tính kế thừa được coi như đặc trưng cơ bản
của liên thông. Đây cũng là tính riêng biệt của loại hình đào tạo này. Chẳng
hạn, liên thông đào tạo từ trung cấp lên đại học, chương trình đào tạo được
xây dựng trên cơ sở kế thừa chương trình đào tạo trung cấp, bổ sung thêm nội
dung còn thiếu so với chương trình đại học; liên thông đào tạo từ cao đẳng lên
đại học, chương trình đào tạo được xây dựng trên cơ sở kế thừa chương trình
đào tạo cao đẳng, bổ sung thêm nội dung còn thiếu so với chương trình đại
học. Trong trường hợp liên thông ngang thì chương trình đào tạo được xây

dựng trên cơ sở kế thừa một phần lớn kiến thức của chương trình đã đào tạo,

20
phần còn thiếu được học chuyển đổi và bổ sung nội dung cho hoàn thiện so
với chương trình tương ứng. Từ đây ta có thể hiểu kế thừa là“Thừa nhận nội
dung, kết quả học tập đã tích luỹ trong quá trình học tập hoặc làm việc”.
Chương trình đào tạo là cột sống của quá trình hoạt động dạy và học.
Vì vậy chương trình liên thông phải đảm bảo tính kế thừa về tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo, hành vi, phương pháp
1.2.4. Tính kế thừa
Là kế thừa về hoạt động dạy, hoạt động học, kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo, thái độ, hành vi, phương pháp, tổ chức,
Hệ thống giáo dục phải có tính kế thừa từ cấp học này đến cấp học
khác. Chẳng hạn giáo dục mầm non, giáo dục cho trẻ hình thành kiến thức, ý
thức, hành vi, thái độ ở mức độ sơ khai. Nhưng đến cấp học tiểu học thì giáo
dục cho học sinh những kiến thức, thái độ, hành vi cao hơn giáo dục mầm
non, trên cơ sở kế thừa của cấp học mần non. Các cấp học cao hơn cũng như
vậy. Nguyên tắc là cấp cao hơn kế thừa hợp lý chương trình của cấp dưới,
từng cấp học có những trọng tâm giáo dục. Ở giáo dục nghề nghiệp, người ta
không chỉ quan tâm đến kiến thức mà còn rất đề cao kỹ năng, thái độ tiếp cận.
Việt Nam chưa làm tốt vấn đề này ở giáo dục đại học và giáo dục nghề
nghiệp, dẫn đến học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp kỹ năng và thái độ tiếp
cận công việc rất yếu. Đây là điểm rất khác biệt của giáo dục Việt Nam với
giáo dục các nước phát triển. Do cơ chế bao cấp, kế hoạch tập trung đã hằn
sâu vào tư duy người dạy và người học, dạy và học theo cái gì mình có, tách
khỏi nhu cầu xã hội, nên đổi mới trong giáo dục rất chậm chạp hoặc đổi mới
nhưng theo quan điểm lệch lạc, dẫn đến hậu quả khôn lường cho xã hội. Ở các
nước phát triển, giáo dục được gắn với nhu cầu xã hội, đào tạo theo nhu cầu là
tiêu chí quan trọng số một. Cơ chế thị trường năng động làm cho giáo dục
linh hoạt hơn, sự kế thừa của các trình độ đào tạo hay liên thông đào tạo được

coi trọng và phát huy hết tính ưu việt của nó.

×