Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ em tỉnh Hải Dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 110 trang )

0

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ NHAN

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học







Hà Nội - 2014
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ NHAN


PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO


ĐỨC CHO TRẺ EM TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60220308
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Trần Văn Riễn


Hà Nội – 2014
1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 5
1. Tính cấp thiết của đề tài 5
2. Tình hình nghiên cứu 6
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 10
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 10
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 10
6. Đóng góp của luận văn 11
Chƣơng 1 12
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
TRẺ EM – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 12
1.1. Gia đình và vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ em 12
1.1.1. Gia đình và chức năng cơ bản của gia đình 12
1.1.2. Vai trò của gia đình đối với giáo dục đạo đức cho trẻ em 22
1.2. Thực chất phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ em
32
1.2.1. Quan niệm và sự cần thiết phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục
đạo đức cho trẻ em 32

1.2.2. Những nhân tố quyết định đến việc phát huy vai trò của gia đình trong việc
giáo dục đạo đức cho trẻ em 34
Kết luận chƣơng 1 41
Chƣơng 2 43
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TỈNH HẢI
DƢƠNG HIỆN NAY 43
2

2.1. Những nhân tố tác động đến phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục
đạo đức đối với trẻ em ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay 43
2.1.1. đặc điểm tổ chức các mô hình gia đình tỉnh Hải Dƣơng hiện nay 43
2.1.2. Đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dƣơng, tác động nền kinh tế thị
trƣờng và tiến bộ khoa học công nghệ 45
2.1.3. Chủ trƣơng, chính sách của tỉnh Hải Dƣơng 48
2.2. Thực trạng của việc phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức
đối với trẻ em tỉnh Hải Dƣơng hiện nay 50
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân 50
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân 61
2.3. Những vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của gia đình đối với giáo dục
đạo đức cho trẻ em hiện nay 71
Kết luận chƣơng 2 78
Chƣơng 3 80
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
GIA ĐÌNH TRONG VIỆCGIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI TRẺ EM TỈNH HẢI
DƢƠNG HIỆN NAY 80
3.1. Quan điểm cơ bản 80
3.1.1. Phải dành cho trẻ em tất cả những gì tốt đẹp nhất theo tinh thần: “ trẻ em
hôm nay, thế giới ngày mai” 80
3.1.2. Tôn trọng và thực hiện đầy đủ những quyền cơ bản của trẻ em và nhu cầu

của trẻ em, đảm bảo cho trẻ em phát triển hài hoà về nhân cách – yếu tố cơ bản
bảo đảm hạnh phúc gia đình và sự phát triển bền vững của xã hội 82
3.1.3. Thực hiện công bằng về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình
và ngoài xã hội 83
3.1.4. Bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trƣờng
và toàn xã hội 84
3

3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhắm phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục
đạo đức đối với trẻ em tỉnh Hải Dƣơng hiện nay 86
3.2.1. Nâng cao trình độ hiểu biết, cải tiến nội dung và phƣơng pháp giáo dục trẻ
em trong gia đình 87
3.2.2. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình, tạo điều kiện
cho việc gia đình có điều kiện tốt để giáo dục trẻ em 90
3.2.3. Tăng cƣờng mối quan hệ giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội tạo môi trƣờng
thống nhất trong việc chăm sóc và giáo dục đạo đức cho trẻ em 93
3.2.4. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền các
cấp đối với việc giáo dục đạo đức trẻ em. 95
kết luận chƣơng 3 98
KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
Phụ lục 1 106

4

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tội phạm trẻ em tỉnh Hải Dƣơng năm 2009 và năm 2011 62
Phụ lục 1 106
Kết quả điều tra xã hội hoc về đối tƣợng trẻ em trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng 106
5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” [39] nó không chỉ là một câu khẩu hiệu
hay là một lời ca tiếng hát mà nó còn là một triết lý xã hội sâu sắc. Lịch sử nhân loại đã
chứng minh trẻ em đóng một vai trò quan trọng trong sự vận động và phát triển của xã
hội hiện tại và trong tƣơng lai. Chính vì vậy, việc giáo dục trẻ em là một việc làm
thƣờng xuyên và cần thiết.
Trong thực tế, việc giáo dục trẻ em không phải là trách nhiệm riêng biệt của một
tổ chức hay một thiết chế xã hội cụ thể nào mà nó là một công việc đòi hỏi sự chung
tay góp sức của gia đình – nhà trƣờng – xã hội. Trong đó, gia đình chính là môi trƣờng
giáo dục đầu tiên và có tầm quan trọng quyết định đối với việc hình thành, phát triển
nhân cách cho trẻ em. Việc thực hiện chức năng này của gia đình có ảnh hƣởng lâu dài,
toàn diện với trẻ em trong suốt cuộc đời. Giáo dục nhà trƣờng, giáo dục xã hội chỉ phát
huy đƣợc vai trò khi lấy giáo dục gia đình làm cơ sở.
Ở Việt Nam, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang đặt ra những
yêu cầu bức thiết đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục gia đình nói riêng
nhằm tạo ra những công dân ƣu tú cả về mặt tài năng lẫn đạo đức, đủ năng lực đƣa
nƣớc ta hội nhập với văn minh nhân loại mà bản sắc dân tộc văn đƣợc giữ vững. Yêu
cầu đó đặt ra cho sự nghiệp giáo dục, trong đó giáo dục gia đình phải không ngừng đổi
mới, hoàn thiện theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, toàn cầu hóa
mà vẫn đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Vì vậy, giáo dục đạo đức cho trẻ em
trong gia đình ngày càng trở lên bức thiết trƣớc yêu cầu phát triển của xã hội. Muốn có
một xã hội tốt trƣớc hết phải có những gia đình tốt.
Bên cạnh đó, giáo dục gia đình cũng có những diễn biến tiêu cực, trong những
năm gần đây, nƣớc ta đang thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, thực hiện nền kinh tế
thị trƣờng, các yếu tố của đô thị, của văn hóa ngoại lai đang hàng ngày, hàng giờ tác
động đến đời sống gia đình. Môi trƣờng xã hội mới đó đang làm băng hoại đạo đức
6


một bộ phận xã hội, lôi cuốn một bộ phận thế hệ trẻ vào vòng tội lỗi. Trong khi đó,
việc gia đình giáo dục đạo đức cho trẻ em chƣa đƣợc coi trọng và đầu tƣ đúng mức.
Không ít cha mẹ nuôi con nhiều hơn đầu tƣ cho việc dạy chữ, dạy ngƣời; nhiều cha mẹ
rất coi trọng việc giáo dục con cái phát triển toàn diện, song do kiến thức và năng lực
hạn chế nên hiệu quả của việc giáo dục còn thấp…
Tỉnh Hải Dƣơng là một trong những tỉnh có tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nhanh, và đang có nhiều thay đổi trong vấn đề giáo dục gia đình cho trẻ em. Đặc
biệt, trẻ em nông thôn, đồng bào dân tộc nghèo còn chịu thiệt thòi trong các lĩnh vực
đời sống xã hội, vẫn phải lao động nặng nhọc. Điều đó đã ảnh hƣởng đến quyền học
tập, vui chơi giải trí và phát triển thể chất của các em, và các gia đình còn chƣa thật sự
quan tâm đến việc giáo dục cho trẻ em nói chung và giáo dục đạo đức cho trẻ em nói
riêng.
Do đó, tôi chọn đề tài:“phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo
đức cho trẻ em tỉnh Hải Dương hiện nay” làm luận văn thạc sỹ, với hy vọng đề tài
này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao nhận thức xã hội vào việc dành cho trẻ em
có những điều kiện tốt nhất để phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu
Gia đình từ lâu đã là đối tƣợng nghiên cứu hấp dẫn, có sức thu hút mạnh mẽ
không chỉ trong giới nghiên cứu khoa học xã hội mà cả các cơ quan, tổ chức có liên
quan. Từ trƣớc tới nay, rất nhiều cá nhân, tập thể đã có các công trình khác nhau
nghiên cứu về gia đình nói chung và chức năng giáo dục của gia đình nói riêng.
Tác phẩm “Giáo dục trong gia đình Mác” của tác giả I.A. Pê-trec-nhi-cô-va giới
thiệu với bạn đọc một gia đình tuyệt vời. Vẻ đẹp của mối quan hệ giữa những con
ngƣời trong gia đình đó là một tấm gƣơng không bao giờ phai mờ cho các gia đình mai
sau. Tình cảm sâu sắc của một tình yêu chung thủy, tình cảm gắn bó giữa vợ với
chồng, sự âu yếm và tôn trọng lẫn nhau giữa bố mẹ và các con. Đó là vẻ đẹp mà các
mối quan hệ trong gia đình Mác đã thể hiện. Không khí gia đình thật là đẹp đã ảnh
7

hƣởng tới sự hình thành tâm hồn trẻ thơ. Kinh nghiệm giáo dục trẻ em của gia đình

Mác là một kho tàng kiến thức về sƣ phạm mà các bậc cha mẹ và các nhà sƣ phạm
ngày nay vẫn cần phải khai thác và khai thác mãi mãi.
Ma-ca-ren-cô là nhà giáo dục nổi tiếng của Xô viết trƣớc đây đã dành nhiều tâm
huyết, năng lực và tình yêu dành cho con trẻ. Trong cuốn sách “Nói chuyện về giáo
dục gia đình”, ông cho rằng giáo dục con trẻ là việc làm lý thú, mang lại niềm vui,
hạnh phúc cho gia đình, nó không khó khăn ghê gớm nhƣ nhiều ngƣời lầm tƣởng. Theo
ông, các bậc cha mẹ phải có tình yêu, trách nhiệm và kiến thức ; giáo dục gia đình phải
tiến hành ngay từ đầu. Những nguyên lý giáo dục cũng nhƣ kinh nghiệm thực tiễn của
Ma-ca-ren-cô cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Cuốn sách “Dạy con yêu lao động” của A-pê-sec-ni-cô-va có tƣ tƣởng cơ bản là
giáo dục gia đình thông qua lao động bởi chỉ có nhƣ vậy thì nhân cách của con ngƣời
mới đƣợc hình thành và phát triển toàn diện. Giáo dục nói chung, giáo dục con cái yêu
lao động nói riêng phải đƣợc bắt đầu từ nhỏ và tiến hành suốt cuộc đời.
Ở nƣớc ta cũng nhƣ nhiều thiết chế xã hội khác, gia đình Việt Nam hiện nay
đang đứng trƣớc những cơ hội và thách thức mới cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu và lý
giải sâu sắc hơn.
Đề tài cấp Nhà nƣớc: “Vai trò của gia đình trong sự hình thành phát triển nhân
cách con ngƣời Việt Nam” của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ do GS Lê
Thi chủ nhiệm. Tập thể tác giả của công trình này cảnh báo rằng cùng với những tiến
bộ vƣợt bậc của cách mạng khoa học công nghệ, xã hội hiện đại vừa đƣợc mở ra một
tƣơng lai tƣơi sáng cho cuộc sống vật chất, tinh thần đầy đủ hơn vừa đặt ra nhiều thách
thức buộc con ngƣời phải giải quyết. Xã hội hiện đại muốn phát triển bền vững thì phải
gắn tăng trƣởng, phát triển kinh tế với việc chăm lo ngày càng tốt hơn cuộc sống cho
con ngƣời, trong đó, giáo dục gia đình có vai trò to lớn để hình thành, phát triển nhân
cách con ngƣời.
8

“Dạy con nên ngƣời” của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam - Thành phố Hà Nội
cũng là một cuốn sách hay mà ở đó, các tác giả cung cấp những kiến thức hết sức cần
thiết về nội dung, phƣơng pháp, trách nhiệm của những ngƣời làm cha, làm mẹ khi

giáo dục con cái.
Bên cạnh đó còn có một số chuyên khảo tiêu biểu đi sâu nghiên cứu nhằm xác
định các giá trị đạo đức truyền thống làm cơ sở cho việc xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần và con ngƣời Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là thế hệ trẻ: “Vấn đề
kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường ở nước ta” của Nguyễn Văn Lý, Tạp chí Triết học số 2- 1999; “Đạo
đức với phát triển con người và xã hội” của Đỗ Tuyết Bảo, Tạp chí Nghiên cứu giáo
dục, số 11- 2000; “Giáo trình đạo đức học” của Nguyễn Ngọc Long, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội- 2001; “Vai trò của văn hóa đạo đức trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của Thành Duy, Tạp chí Triết học số 2-2002;
“Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường” của Đỗ Lan
Hiền, Tạp chí Triết học số 4-2002; “Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã hội và những hành
vi đạo đức cá nhân” của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học số 2- 2002; “Tu dưỡng đạo đức tư
tưởng” của La Quốc Kiệt, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2003; “Sự suy
thoái đạo đức và giải pháp của chúng ta”, Tạp chí Tâm lý học số 9-2003; “Giáo dục
lối sống nếp sống mới” của Thanh Lê, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh, 2004; “Đạo đức học Mác-Lênin” của Nguyễn Ngọc Long - Nguyễn Thế Kiệt,
Nhà xuất bản Lý luận chính trị - xã hội, 2004; “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay”
của Nguyễn Duy Quý, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006; “Về việc tạo ra
bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay” của Nguyễn
Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 11- 2006; “Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị
và chuẩn mực đạo đức mới” của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 3- 2007 v.v.
Nghiên cứu tác động của đạo đức trong việc rèn luyện và phát triển nhân
cách con ngƣời nói chung, nhân cách thế hệ trẻ nói riêng, trong các công trình
9

nghiên cứu luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ và một số tạp chí đã có một số tác giả đề
cập nhƣ:“Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ
hiện nay ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Quế (luận văn thạc sĩ, 2000); “Vai trò của gia
đình trong giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Sĩ Liêm (luận án tiến

sĩ, 2001); "Để có nguồn lực đưa đất nước tiến lên trong thời kỳ mới, phải giáo dục,
bồi dưỡng thế hệ trẻ phát triển toàn diện" của Tổng bí thƣ Nông Đức Mạnh, Tạp chí
Thanh niên số 15- 2002; “Vấn đề đạo đức trong điều kiện của nền kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay. Thực trạng và nguyên nhân” của Phan Sinh Kế, tạp chí Khoa học
chính trị số 1-2004. Các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định rằng đạo đức là vấn
đề mà nhân loại cần bàn tới trƣớc hết trong cuộc sống hiện tại. Hiện nay bức tranh đạo
đức chung của toàn nhân loại đang có nguy cơ suy thoái nghiêm trọng. Thực trạng này
không chỉ diễn ra ở một nƣớc nào đó mà nó ngày càng phổ biến ở nhiều nƣớc phát
triển và đang phát triển. Suy thoái đạo đức có ảnh hƣởng rất lớn đến đời sống tinh thần
của con ngƣời, bộ mặt nhân văn của nhân loại và nó cũng trực tiếp tác động tiêu cực
đến phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Thông qua việc nghiên cứu
đạo đức ở các khía cạnh nhƣ lịch sử đạo đức, các giá trị đạo đức, chuẩn mực xã hội v.v.
các tác giả đã liên hệ với thực trạng đời sống đạo đức tại Việt Nam. Và vấn đề phát huy
giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng đạo đức mới nói chung, đạo đức mới cho trẻ
em nói riêng là vấn đề đang có biến đổi phức tạp.
Ngoài ra, chúng ta còn phải kể đến những công trình nghiên cứu khác nhƣ:
- “Khoa học về giáo dục con em trong gia đình” - Đức Minh chủ biên.
- “Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa” - Lê Ngọc Văn.
- “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nƣớc ta hiện nay” -
Nghiêm Sỹ Liêm.
- “Đổi mới việc thực hiện chức năng giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ trong
gia đình nông dân Việt Nam” - Dƣơng Văn Bóng.
10

- “Gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở nƣớc ta hiện nay” - Phạm Thị
Xuân.
- “Xây dựng gia đình nông dân ở tỉnh Bến Tre hiện nay” - Nguyễn Thị Yến.
Những công trình trên đã đƣa ra nhiều tiếng nói khác nhau liên quan đến gia
đình, gia đình Việt Nam nói chung , và vấn đề giáo dục gia đình cho trẻ em. Tuy nhiên,
nghiên cứu sâu về vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em… thì đây còn là mảng trống của

lý luận và thực tiễn. Tìm hiểu việc thực hiện chức năng giáo dục đạo đức cho trẻ em
của gia đình tại một địa phƣơng là tỉnh Hải Dƣơng thì cho đến nay đó vẫn là vấn đề cần
đƣợc quan tâm mà chƣa có đề tài nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ chức năng của gia đình đối với giáo dục đạo đức cho
trẻ em nói chung, và việc thực hiện chức năng này ở tỉnh Hải Dƣơng nói riêng để đƣa ra
những phƣơng hƣớng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy tốt vai trò của gia đình trong việc
giáo dục đạo đức cho trẻ em.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về phát huy vai trò của gia đình trong
việc giáo dục đạo đức cho trẻ em.
+ Khảo sát thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức
cho trẻ em ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng.
+ Đề xuất một số quan điểm, giải pháp để phát huy hiệu quả của gia đình trong
việc giáo dục đạo đức cho trẻ em
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng: luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của gia đình trong lĩnh vực
giáo dục đạo đức cho trẻ em.
- Phạm vi: địa bàn tỉnh Hải Dƣơng trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
11

Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về gia đình, trẻ em và vai trò của gia
đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; Chủ trƣơng, chính sách của địa
phƣơng về việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: Phân tích, tổng
hợp, lôgic, lịch sử, so sánh, điều tra xã hội học.

6. Đóng góp của luận văn
+ Về lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận vai trò của gia đình trong
việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Luận văn thành công sẽ là tài liệu cho sinh viên, học viên cao học và các độc
giả quan tâm đến vấn đề nay tham khảo.
+ Về thực tiễn
Trên cơ sở thực trạng của địa phƣơng, tác giả luận văn đƣa ra phƣơng hƣớng,
giải pháp giúp các gia đình tại địa bàn tỉnh Hải Dƣơng thực hiện giáo dục đạo đức cho
trẻ em có hiệu quả hơn. Luận văn thành công sẽ cung cấp nguồn tƣ liệu để các cấp
chính quyền, các tổ chức xã hội, các gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng tham khảo, từ đó làm
tốt hơn công tác giáo dục đạo đức cho trẻ em.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,phụ lục luận văn
đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng 7 tiết.
12

Chƣơng 1
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO TRẺ EM – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Gia đình và vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ em
1.1.1. Gia đình và chức năng cơ bản của gia đình
* Khái niệm gia đình
Gia đình là tổ ấm của con ngƣời, là tế bào của xã hội. Con ngƣời từ xa xƣa cho
đến nay đều mơ ƣớc có một tổ ấm để sống đời sống cá nhân của mình và rồi, từ cái tổ
ấm này, từ cái tế bào lành mạnh này mà đóng góp tích cực vào xã hội. Bởi vậy, không
phải ngẫu nhiên mà có nhiều nhà tƣ tƣởng, nhà khoa học cũng nhƣ các triết gia, các
nhà xã hội học… quan tâm nghiên cứu về gia đình. Vậy gia đình là gì ? Để trả lời cho
câu hỏi này cho đến hiện nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau bởi đây là một phạm
trù rộng, không ngừng biến đổi dƣới tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội.

Liên hiệp quốc gắn gia đình trong mối quan hệ mật thiết với xã hội. Tổ chức này
xác định: Gia đình là yếu tố tự nhiên và cơ bản của xã hội, có quyền hƣởng sự bảo vệ
của xã hội và của Nhà nƣớc. Trên cơ sở đó, Liên hiệp quốc cũng lƣu ý đến khía cạnh
cộng đồng về kinh tế của gia đình khi đƣa ra định nghĩa: Gia đình là một nhóm ngƣời
có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung.
Tác giả Nguyễn Quốc Tuấn dƣới góc độ Luật học xem xét gia đình là một tập
hợp dựa trên các quan hệ về hôn nhân, về huyết thống và về nuôi dƣỡng, đã gắn bó
những con ngƣời có quan hệ với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ về tài sản và về thân
nhân, bởi sự cộng đồng về đạo đức và vật chất, để tƣơng trợ nhau, cùng làm kinh tế
chung và nuôi dạy con cái [42, tr.17].
Trên bình diện tâm lý học, Giáo sƣ Lê Thi là một trong những ngƣời đã dày công
nghiên cứu về đề tài gia đình. Theo Giáo sƣ: “Khái niệm gia đình đƣợc dùng để chỉ một
nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh từ
quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại).
13

Đồng thời, gia đình cũng có thể bao gồm một số ngƣời đƣợc gia đình nuôi dƣỡng, tuy
không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và
quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý,
đƣợc nhà nƣớc thừa nhận và bảo vệ (đƣợc ghi rõ trong luật Hôn nhân và gia đình của nƣớc
ta). Đồng thời, trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền đƣợc phép và những
cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên” [40, tr.20].
Nhƣ vậy, có thể thống kê rất nhiều định nghĩa về gia đình bởi lẽ các tác giả
đứng trên các bình diện nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, gia đình là thể chế có tính
toàn cầu nhƣng lại có những hình thức, vai trò khác nhau thay đổi từ nền văn minh này
sang nền văn minh khác, dân tộc này so với dân tộc kia. Do vậy, không thể đƣa ra một
định nghĩa chung có thế áp dụng cho toàn cầu.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta thấy rằng có 3 mối quan hệ thƣờng đƣợc
nhắc tới khi đề cập đến gia đình. Đó là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan
hệ nuôi dƣỡng giữa các thành viên.

Quan hệ hôn nhân là quan hệ tính giao giữa nam và nữ đƣợc pháp luật thừa
nhận, liên kết với nhau để chung sống và xây dựng gia đình hạnh phúc. Đây là quan hệ
cơ bản đầu tiên cần phải có của mỗi gia đình, nó là tiền đề cho các mối quan hệ khác.
Quan hệ huyết thống là mối quan hệ ràng buộc giữa cha mẹ với con cái, là hệ
quả tất yếu của hôn nhân. Ngoài ra, nó còn đƣợc thể hiện trong mối quan hệ gắn bó
giữa các anh chị em ruột với nhau.
Quan hệ nuôi dƣỡng là quan hệ giữa chủ thể nuôi dƣỡng và đối tƣợng đƣợc nuôi
dƣỡng. Họ gắn bó với nhau không chỉ vì trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi đƣợc pháp
luật thừa nhận, bảo vệ, mà cao hơn cả là tình thƣơng yêu, sự chăm sóc, đùm bọc, sẻ
chia những vui buồn trong cuộc sống.
Có lẽ, nghiên cứu về gia đình nói chung, định nghĩa gia đình nói riêng còn nhiều
vấn đề cần tìm hiểu thêm. Nhìn nhận gia đình từ phƣơng diện của chuyên ngành Chủ
nghĩa xã hội khoa học, theo tác giả luận văn, gia đình là một cộng đồng người đặc biệt
14

được hình thành, phát triển và củng cố bởi các mối quan hệ cơ bản là hôn nhân, huyết
thống, nuôi dưỡng. Các thành viên của gia đình có những giá trị vật chất, tinh thần
chung, gắn bó với nhau bởi trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ nhằm mục tiêu cao nhất
là nuôi dưỡng các thành viên, xây dựng gia đình bền chặt, phát triển kinh tế gia đình.
* Chức năng cơ bản của gia đình
Gia đình đƣợc sinh ra, tồn tại và phát triển vì nó có sứ mệnh đảm đƣơng những
chức năng đặc biệt mà tự nhiên và xã hội giao cho, không một thiết chế xã hội nào có
thể thay thế đƣợc. Các chức năng của gia đình tồn tại trong mối liên hệ thống nhất, tác
động lẫn nhau để tạo nên con ngƣời, xã hội hóa con ngƣời. Gia đình là một tổ chức có
nhiều chức năng khác nhau, có thể khái quát bốn chức năng cơ bản nhất nhƣ sau :
Thứ nhất: Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng cơ bản và riêng có của gia đình. Nó đáp ứng nhu cầu tâm sinh lý,
tình cảm của con ngƣời nói chung và các thành viên trong gia đình nói riêng để duy trì nòi
giống. Mỗi một công dân tí hon đƣợc ra đời trong môi trƣờng gia đình không chỉ có ý
nghĩa với gia đình mà còn đóng góp vào sự phát triển liên tục và trƣờng tồn của xã hội.

Đúng nhƣ Ph.Ăng ghen nhận định: Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong
lịch sử suy đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhƣng bản thân
sự sản xuất đó có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tƣ liệu sinh hoạt: Thực phẩm, quần
áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó, mặt khác là sự sản
xuất ra bản thân con ngƣời, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã hội, trong đó có
những con ngƣời của một thời đại lịch sử nhất định và của một nƣớc nhất định đang
sống, là do hai loại sản xuất đó quyết định: Một mặt là do trình độ phát triển của lao
động, mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình.
Nhƣ vậy, theo quan điểm duy vật, có hai nhân tố quyết định đến sự tồn tại, phát
triển xã hội là sản xuất ra của cải vật chất và sản xuất ra chính bản thân con ngƣời, tức
là tiếp tục duy trì nòi giống của loài ngƣời. Chức năng sinh sản đƣợc coi là chức năng
đặc thù nhất của mọi loại gia đình, chỉ gia đình mới có. Nó gắn liền với gia đình, là một
15

phần không thể thiếu của một gia đình hạnh phúc theo quan niệm của số đông ngƣời
Việt. Bởi lẽ, việc tái sản xuất ra thế hệ tƣơng lai vừa đáp ứng đƣợc yêu cầu của xã hội
vừa thỏa mãn nhu cầu của chính các thành viên trong gia đình.
Tuy việc sinh đẻ là nhu cầu tự nhiên, sinh học nhƣng nó phải chịu sự quy định
của xã hội tùy theo không gian và thời gian khác nhau vì nó liên quan mật thiết đến quá
trình phát triển mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng này bao gồm các nội dung
cơ bản là tái sản xuất, duy trì nòi giống; nuôi dƣỡng, nâng cao thể lực, trí lực; bảo đảm
tái sản xuất nguồn lao động và sức lao động cho xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay, việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con ngƣời đang
đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết. Bên cạnh các gia đình đã nhận thức đƣợc
sự cần thiết của chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình để có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, có điều kiện nuôi dạy con cái tốt hơn; vẫn còn không ít gia đình quan niệm nhà
đông con mới có phúc (Trời sinh voi, trời sinh cỏ), trọng nam khinh nữ (Nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô)… Đây là một trong những nguyên nhân gây ra nghèo đói, suy
dinh dƣỡng ở trẻ em, đặc biệt là trẻ em sống ở nông thôn, kéo theo tình trạng thất học,
mù chữ, trình độ dân trí thấp. Vì vậy, yêu cầu cấp bách là giảm tỉ lệ sinh đẻ, thực hiện

kế hoạch hóa gia đình nhằm ổn định dân số phù hợp với mức tăng trƣởng kinh tế cũng
nhƣ những điều kiện khác của đất nƣớc trong hoàn cảnh hiện tại, trong tƣơng lai gần.
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển vƣợt bậc của cách mạng khoa học
công nghệ, một mặt, thế hệ trẻ đƣợc quan tâm chăm sóc tốt hơn với sự hỗ trợ của các
thiết bị hiện đại nhƣng mặt khác, nó đang mở ra một xu hƣớng mới cho việc sinh sản
bằng phƣơng thức nhân bản con ngƣời. Mặc dù vậy, xu thế tái sản xuất ra con ngƣời
trong môi trƣờng gia đình vẫn luôn luôn đƣợc xã hội ghi nhận, đƣợc dƣ luận đồng tình.
Đảng và Nhà nƣớc ta xác định nghèo đói, lạc hậu và gia tăng dân số có mối
quan hệ khăng khít với nhau theo tỷ lệ thuận. Một chiến lƣợc dân số hợp lý sẽ là động
lực để tạo ra nguồn nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội. Xuất phát từ điều này, Đảng, Nhà nƣớc trong khi đƣa ra và thực hiện đƣờng lối
16

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, luôn chú trọng đến hoạch định, thực hiện
chiến lƣợc tuyên truyền vận động về dân số. Cuộc vận động xã hội này đã đƣợc thể chế
hóa thành luật, thể hiện trong Điều 2 - luật Hôn nhân và gia đình. Theo đó, ngƣời dân
đƣợc tuyên truyền những kiến thức cần thiết để sinh con sao cho phù hợp với sức khỏe,
điều kiện gia đình cũng nhƣ yêu cầu của xã hội. Chức năng sinh đẻ từ một quá trình tự
nhiên chuyển sang quá trình tự giác. Trƣớc đây, chức năng sinh đẻ và nhu cầu tình dục
là không thể tách rời còn ngày nay, với những thành tựu của y học hiện đại, với sự ra
đời của các biện pháp tránh thai, ngƣời ta tách đƣợc chức năng sinh đẻ ra khỏi nhu cầu
đáp ứng về tình dục. Kế hoạch hóa gia đình là một giải pháp hữu hiệu để phòng tránh
tình trạng bùng nổ dân số.
Bên cạnh đó, khi đề cập đến chức năng tái sản xuất ra con ngƣời của gia đình,
xã hội cũng cần lƣu ý tới những gia đình vô sinh vì nhiều lý do khác nhau, quan tâm
giúp đỡ họ, tạo điều kiện cho họ thực hiện tốt chức năng này.
Thứ hai: Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
Trƣớc hết, cần khẳng định lại rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, xã hội loài
ngƣời tồn tại và phát triển là do hai loại sản xuất quyết định: Một mặt là sản xuất ra con
ngƣời, mặt khác là sản xuất ra của cải vật chất. Nhƣ vậy, hoạt động kinh tế và tổ chức

đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của gia đình. Hoạt động kinh tế hiểu theo
nghĩa đầy đủ gồm hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tiêu dùng nhằm thỏa mãn
nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại cho con ngƣời.
Tùy theo trình độ phát triển của xã hội, gia đình có thể là đơn vị kinh tế hoạt
động tự chủ hoặc gia đình vẫn làm kinh tế nhƣng không hoạt động nhƣ một đơn vị độc
lập, tự chủ. Tuy vậy, dù trong điều kiện nào, gia đình cũng phải đảm bảo nhu cầu sinh
hoạt vật chất cũng nhƣ tinh thần cho các thành viên. Đồng thời, thông qua hoạt động
kinh tế của mình, gia đình góp phần vào việc tái sản xuất ra của cải vật chất và những
giá trị tinh thần cho cộng đồng xã hội. Để có thể phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong
kinh tế, Đảng và Nhà nƣớc ta đề ra, thực hiện các chính sách sao cho mọi gia đình, mọi
17

cá nhân có thể làm giàu chính đáng thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh trong
khuôn khổ pháp luật. Theo đó, những gia đình và hộ gia đình công nhân viên chức, cán
bộ hành chính sự nghiệp… cũng đƣợc khuyến khích lao động sáng tạo, tăng thu nhập
chính đáng từ lao động sáng tạo của mình. Các loại gia đình này không trực tiếp thực
hiện chức năng sản xuất kinh doanh nhƣng cũng thực hiện một nội dung quan trọng
của hoạt động kinh tế.
Với điều kiện hiện nay của nƣớc ta, gia đình còn là đơn vị dịch vụ tiêu thụ. Việc
tiêu dùng này thƣờng phụ thuộc phần lớn vào thu nhập và đóng góp chung từ kết quả
lao động của các thành viên khi tham gia vào sản xuất. Xã hội càng phát triển thì hoạt
động chi tiêu, mua sắm các trang thiết bị phục vụ cuộc sống càng đa dạng để thỏa mãn
nhu cầu ngày càng gia tăng.
Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ là một trong những tiền đề vật chất vững
chắc để tổ chức đời sống của gia đình, làm cho gia đình có những đóng góp nhất định
vào việc tái sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội.
Tổ chức đời sống gia đình cũng là việc làm quan trọng vì nó hƣớng vào chăm lo
đời sống mọi mặt của các thành viên, là điều kiện quan trọng cho các thành viên yên tâm,
phấn khởi, tích cực tham gia lao động, học tập ; ngƣời già đƣợc nghỉ ngơi, phụng dƣỡng;
trẻ nhỏ đƣợc nuôi dƣỡng, giáo dục, có điều kiện phát triển toàn diện, góp phần làm cho gia

đình mình trở thành tổ ấm, thành cái nôi hình thành nhân cách cũng nhƣ nhận thức, tình
cảm của con ngƣời.
Dân gian có câu: “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Ngoài ra, ông cha ta còn đúc
rút nhiều kinh nghiệm khác nhau từ cuộc sống sinh hoạt của gia đình, khuyên mỗi
thành viên cần biết quán xuyến, tổ chức tốt mức tiêu dùng sao cho hợp lý, khoa học, có
hiệu quả cao để từng gia đình sớm ổn định và nâng cao đời sống, góp phần thúc đẩy xã
hội ngày càng vững bƣớc đi lên.
Mặt khác, mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội là phát triển kinh tế gắn với thực hiện
bình đẳng xã hội, tạo điều kiện để con ngƣời phát triển toàn diện, các thành viên trong
18

gia đình đƣợc hƣởng thụ hợp lý và chính đáng những thành quả lao động mà mình làm
ra. Động viên các gia đình phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập nhằm thỏa mãn các
yêu cầu tiêu dùng lành mạnh để nâng cao chất lƣợng cuộc sống là mục tiêu phấn đấu
của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Để làm đƣợc điều này, Đảng và Nhà nƣớc
cần quan tâm hơn nữa đến gia đình - tế bào của xã hội, trƣớc hết, mỗi thành viên của
gia đình cần quan tâm lẫn nhau trong lao động sản xuất, trong tiêu dùng, trong cuộc
sống nói chung.
Thứ ba: Chức năng giáo dục.
Giáo dục là lĩnh vực liên quan mật thiết tới sự phát triển bền vững của mọi quốc
gia nói chung và sự phát triển toàn diện con ngƣời nói riêng. Ở Trung Quốc, Đặng Tiểu
Bình đã phát biểu rằng phải tìm mọi cách để giải quyết tốt vấn đề giáo dục, cho dù ở
các mặt khác phải nhẫn nại một chút, thậm chí hi sinh một chút về tốc độ. Ông còn cho
rằng kế hoạch lớn trăm năm phải lấy giáo dục là gốc.
Giáo dục là chức năng quan trọng đặc biệt của gia đình bởi lẽ sinh con - nuôi con -
dạy con là những hoạt động không thể tách rời nhau trong môi trƣờng gia đình. Thực hiện
chức năng giáo dục gia đình là góp phần lớn vào việc hình thành nhân cách con ngƣời
cũng nhƣ để duy trì, phát triển văn hóa gia đình.
Các Mác đã khẳng định rằng con ngƣời là một sinh vật - xã hội. Sau khi lọt lòng
mẹ, nếu đứa trẻ không đƣợc sống trong môi trƣờng xã hội loài ngƣời, không đƣợc

hƣởng chế độ giáo dục của gia đình, của xã hội thì đứa trẻ sẽ không trở thành một con
ngƣời theo đúng nghĩa. Điều này đƣợc khoa học chứng minh vì quá trình đứa trẻ lớn
lên chủ yếu trong môi trƣờng gia đình nên nó cần đƣợc quan tâm chăm sóc, giáo dục.
Ông cha ta thƣờng khuyên: “Dạy con từ thuở còn thơ”. Vì vậy mà từ thuở thơ ấu
cho đến lúc trƣởng thành, con ngƣời đƣợc ông bà, cha mẹ và những ngƣời lớn tuổi nuôi
dƣỡng, truyền thụ cho những kinh nghiệm sống, những phẩm chất đạo đức để trở thành
công dân có ích của xã hội, ngƣời con, ngƣời cháu hiếu thảo của gia đình. Giáo dục gia
19

đình đƣợc thực hiện ở mọi chu trình sống của con ngƣời với những nội dung và hình thức
cụ thể, phong phú.
Nội dung giáo dục gia đình tƣơng đối toàn diện, bao gồm giáo dục tri thức, kinh
nghiệm, đạo đức, lối sống, nhân cách thẩm mỹ, ý thức cộng đồng. Giáo dục gia đình
đối với con cháu đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, tỉ mỉ với nhiều nội dung phong phú.
Trong đó, cha mẹ dạy con các chuẩn mực đạo đức, tình yêu thƣơng con ngƣời, lòng
biết ơn, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu lao động, cách đối nhân xử thế, ý thức chấp
hành pháp luật…
Phƣơng pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, chủ yếu là phƣơng pháp
nêu gƣơng, thuyết phục, chịu ảnh hƣởng không ít của tƣ tƣởng, lối sống, tâm lý, gia
phong của gia đình truyền thống. Nuôi dƣỡng, giáo dục gia đình mang tính cá biệt đậm
nét vì nó giáo dục thông qua tình cảm. Trong khi giáo dục nhà trƣờng, giáo dục xã hội
không phân biệt sức khỏe, hoàn cảnh sống… thì giáo dục gia đình lại tính đến tất cả
các yếu tố cụ thể của đối tƣợng giáo dục bởi đó là môi trƣờng đầu tiên giúp con ngƣời
lớn lên, hình thành nhân cách ban đầu cũng nhƣ những suy nghĩ đầu đời về cuộc sống.
Các cụ thƣờng nói “Giỏ nhà ai, quai nhà ấy” là vì vậy. Văn hóa gia đình in dấu ấn đậm
nét vào tâm hồn cũng nhƣ đời sống của cá nhân.
Đời ngƣời phần lớn là sống trong môi trƣờng gia đình để đƣợc hấp thụ những
thói quen làm ngƣời, học ăn, học nói, học gói, học mở. Gia đình còn dạy cho mỗi
ngƣời học làm con, học làm cháu, học làm vợ, học làm chồng, học làm bố, làm mẹ,
làm ông, làm bà. Cứ nhƣ thế, các thế hệ nối tiếp nhau sinh ra, lớn lên, trƣởng thành.

Trong điều kiện hiện nay, chất lƣợng giáo dục con ngƣời phải không ngừng
nâng cao. Môi trƣờng tạo ra chất lƣợng đó là gia đình, nhà trƣờng, xã hội, nhƣng chủ
yếu nhất vẫn là gia đình - cái nôi nuôi dƣỡng, phát triển nhân cách đạo đức, tình cảm,
thẩm mỹ… Tuy thế, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cùng với nó là sự phát triển của
khoa học công nghệ, sự đa dạng và nhiều mầu sắc của văn hóa thì giáo dục gia đình
cũng ít nhiều có sự thay đổi. Bên cạnh những bậc phụ huynh vẫn quan tâm chăm sóc
20

con cái mình, xã hội còn xuất hiện thêm những ông bố, bà mẹ phó mặc việc chăm sóc
con mình cho ngƣời giúp việc, phó mặc việc dạy dỗ con cho nhà trƣờng, xã hội. Hoặc
không ít cha mẹ lại cảm thấy lúng túng, thậm chí là bất lực khi giáo dục con em mình.
Ngoài ra, có những gia đình bố mẹ bận bịu với công việc làm ăn, buôn bán, lối sống
thực dụng, coi trọng đồng tiền. Điều này có ảnh hƣởng không tốt đến nhân cách của
trẻ.
Để thực hiện chức năng giáo dục gia đình có hiệu quả, chúng ta phải chú ý đến
mối quan hệ không thể tách rời giữa gia đình - nhà trƣờng - xã hội, tiến tới mục tiêu
giáo dục tƣ tƣởng và tình cảm lành mạnh cho thế hệ trẻ, góp phần nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài cho đất nƣớc. Muốn giáo dục gia đình có hiệu quả thì
ông bà, cha mẹ phải là tấm gƣơng sáng cho con cháu noi theo. Mặt khác, những ngƣời
lớn tuổi trong nhà cũng cần nâng cao hiểu biết về tâm sinh lý, về khoa học công nghệ
sao cho giáo dục gia đình đạt hiệu quả tốt nhất.
Nhƣ vậy, chức năng nuôi dạy, giáo dục con cái là một chức năng hết sức quan
trọng. Xã hội có sự hỗ trợ to lớn đến đâu cũng không thể thay thế đƣợc gia đình. Sự
hình thành nhân cách gốc của trẻ em chịu ảnh hƣởng của giáo dục gia đình. Việc hoàn
thiện và củng cố nhân cách con ngƣời ở tuổi trƣởng thành cũng nhƣ khi về già phần lớn
do tác động của đời sống, sinh hoạt văn hóa của gia đình.
Thứ tư: Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm
Đây là một chức năng có tính văn hóa - xã hội của gia đình. Nhiều vấn đề tâm
sinh lý thuộc về giới tính, thế hệ, dòng họ, huyết thống… thƣờng đƣợc nảy sinh trong
gia đình. Đặc biệt, với gia đình hiện đại, độ vững bền của nó không chỉ phụ thuộc vào

sự ràng buộc về các mối quan hệ trách nhiệm giữa cha mẹ - con cái, vợ - chồng, anh
chị em với nhau… mà nó còn bị chi phối bởi các quan hệ tình yêu, tình cảm. Gia đình
là nơi thể hiện và cũng là nơi mà nhu cầu tình cảm đƣợc đáp ứng. Biết bao bộn bề của
cuộc sống, những căng thẳng, mệt mỏi về thể xác, về tinh thần, những lo toan, những
suy tính… tất cả sẽ đƣợc giải quyết trong môi trƣờng hòa thuận, ấm áp của tình yêu gia
21

đình. Trên cơ sở đó, mỗi thành viên có thể sống khỏe mạnh hơn, lạc quan hơn, tự tin
vào bản thân mình hơn, hăng say lao động hơn, yêu cuộc sống hơn.
Có thể thấy rằng gia đình là tổ ấm, là chỗ dựa cả về vật chất lẫn tinh thần. Ở đó,
ngƣời ta tìm thấy sự đùm bọc, chia sẻ, giúp đỡ, hy sinh cho nhau, tìm thấy niềm hạnh
phúc của đời ngƣời. Sức mạnh của tình cảm gia đình khiến con ngƣời ta có thêm sức
mạnh để vƣợt qua biết bao khó khăn, vƣơn tới thành công.
Thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm còn là một chức năng đặc thù của gia
đình mà không tổ chức xã hội nào làm đƣợc. Xã hội thừa nhận sự thỏa mãn nhu cầu này
trong gia đình là nhu cầu hiển nhiên, thông qua đó, mọi ngƣời vừa tự nhận thức về mình,
về trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân vừa có lợi ích trong sự thống nhất của mái ấm gia
đình. Các thành viên khác nhau về lứa tuổi, giới tính, trình độ, tính cách, diễn biến tâm
trạng… nên mức độ thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý cũng nhƣ tình cảm là khác nhau. Do
vậy, bản thân mỗi thành viên phải tự điều chỉnh cách ứng xử của mình sao cho phù hợp.
Trong gia đình Việt Nam hiện nay, việc thực hiện chức năng này tác động
mạnh mẽ đến sự tồn tại của hôn nhân, hạnh phúc gia đình. Sự rạn nứt trong các mối
quan hệ tình cảm gia đình không những ảnh hƣởng xấu đến gia đình ấy mà nó còn
tác động không tốt đến xã hội. Thực trạng nói trên đòi hỏi chúng ta phải quan tâm
hơn nữa đến yếu tố tình cảm của gia đình, góp phần tích cực vào việc củng cố các
quan hệ xã hội, tạo cho xã hội sự phát triển bền vững.
Trên đây là những chức năng cơ bản nhất của gia đình. Chúng có mối quan hệ
hữu cơ với nhau, tác động mạnh mẽ đến tiến bộ xã hội nói chung. Tất cả các thành viên
trong gia đình có trách nhiệm vun đắp cho tổ ấm của mình.
Tóm lại, gia đình là một thiết chế đa chức năng. Với việc thực hiện các chức

năng của mình, nó tác động đến xã hội nhằm xây dựng con ngƣời mới, phát triển nhân
cách gốc cho con ngƣời. Phân chia nội dung của các chức năng nói trên chỉ mang tính
chất tƣơng đối. Trong những không gian và thời gian khác nhau thì nội dung, vị trí của
mỗi chức năng có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế.
22

1.1.2. Vai trò của gia đình đối với giáo dục đạo đức cho trẻ em
* Trẻ em
Đề cập đến khái niệm về trẻ em, Liên hiệp quốc đã đƣa ra quan niệm của mình
trong Điều 1 của Công ƣớc về quyền trẻ em nhƣ sau: “Trẻ em đƣợc xác định là ngƣời
dƣới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Từ trƣớc
đến nay đã có nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nghiên cứu về trẻ em
nhƣ các ngành tâm lý học, luật học, tội phạm học, y học, xã hội học…
Ở nƣớc ta, từ phƣơng diện tâm lý học, TS. Minh Chí ở Viện tâm lý học thuộc
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng: Trẻ em Việt Nam là trong 17 tuổi hay dƣới 18 tuổi
vì các chức năng tâm lý thần kinh cao cấp chƣa hoạt động theo quỹ đạo chiến lƣợc làm
việc của hai bán cầu não nhƣ ngƣời trƣởng thành. Trong cuộc sống cũng nhƣ trong
nghiên cứu, rất nhiều ngƣời có cùng quan điểm nhƣ trên.
Pháp luật nƣớc ta thì quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dƣới 16
tuổi”.
Nhƣ vậy, trẻ em là ngƣời chƣa phát triển đầy đủ về thể chất cũng nhƣ về tâm
sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của trẻ bị hạn chế, thiếu những điều
kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng kiềm chế chƣa cao, dễ bị kích động lôi kéo vào những
hoạt động phiêu lƣu mạo hiểm. Cuộc sống của các em thiên về tình cảm, dễ xúc động,
dễ hành động theo cảm tính… Điều này đòi hỏi các bậc phụ huynh phải hết sức khéo
léo, am hiểu tâm lý của trẻ nhỏ, uốn nắn nhẹ nhàng sao cho có hiệu quả vì trẻ ở mỗi lứa
tuổi lại có những đặc điểm không giống nhau.
Trẻ em bắt đầu bằng các quan hệ với cha mẹ, sau dần giao tiếp với các thành viên
khác trong gia đình, ban bè, làng xóm, thầy cô…Trẻ tiếp thu nếp sống hàng ngày, thói
quen tập tục của gia đình, làng xóm, địa phƣơng biến thành vốn sống,kỹ năng, động cơ

thái độ đó là quá trình hình thành tâm lý. Trẻ em là ngƣời chƣa phát triển đầy đủ về thể
chất và trí tuệ, sự non nớt của trẻ em về mặt tâm sinh lý, những thiếu hụt và kiếm khuyết
mà bản thân trẻ em không thể tự giải quyết đƣợc luôn luôn tồn tại nhƣ những đặc điểm của
23

lứa tuổi. Do đó, đòi hỏi ngƣời lớn phải có sự quan tâm đúng mức để tạo ra định hƣớng tích
cực cho sự phát triển nhân cách ở trẻ em, từ đó bảo vệ, chăm sóc và giáo dục cho trẻ.
Khi còn nhỏ mối quan hệ xã hội của trẻ em chủ yếu là gia đình, hoạt động tiếp xúc
cảm xúc trực tiếp của trẻ đầu tiên là ngƣời mẹ. Lớn lên trẻ sẽ dần mở rộng các mối quan
hệ bên ngoài nhƣ ban bè, làng xóm…Trong giai đoạn này trẻ rất háo hức và sẵn sàng học
nhiều điều mới, hay bắt chƣớc những ngƣời lớn tuổi mà chúng kính phục. Các em thƣờng
xây dựng cho mình những thần tƣợng và hình mẫu để mình phấn đấu theo. Các em có
tình cảm vô tƣ trong sáng tin tƣởng vào bố mẹ và ngƣời lớn.
Các em đang trong quá trình vân động từ nhóm nhỏ sang nhóm lớn. Nhân cách
của trẻ em bị giằng co giữa những xu hƣớng trái ngƣợc nhau, khi hăng hái, lúc chán
nản bi quan có thể dẫn tới tình trạng trầm lặng, điều đó không phải là ngẫu nhiên, vì trẻ
có những biến đổi về chất trong sinh lý. Sự phát triển cơ thể và sự chín muồi giới tính
đã nhanh chóng tạo ra cuộc cách mạng sinh lý, điều đó gây ra nỗi hãi lo lắng của các
em, thể hiện rõ nhất ở tuổi thiếu niên.
Cuộc sống đậm sắc màu tình cảm, không dấu đƣợc tình cảm khi vui khi buồn,
yêu ghét, dễ xúc động, kích động hành vi không ổn định, rất dễ hành động theo cảm
tính mà bản thân không kịp nhận biết hành động ấy là đúng hay là sai, lợi hại nhƣ thế
nào. Bởi vậy, đòi hỏi cha mẹ phải có kiến thức hiểu biết về tâm lý trẻ em để định
hƣớng cho trẻ một cách tế nhị, không áp đặt ý muốn chủ quan của bản thân. Bố mẹ lúc
này không chỉ đóng vai trò là cha hay là mẹ đầy đủ uy quyền mà còn phải là ngƣời bạn
để chia sẻ và đồng cảm với những xung đột tâm lý xã hội mà trẻ đang gặp phải, để
củng cố lòng tự trọng, ngƣời lớn cần tôn trọng ƣớc muốn không phụ thuộc của trẻ,
đồng thời cho chúng biết giới hạn của mọi hành vi nhằm giữa an toàn cho chúng. Lòng
trung thực sự, bao dung của cha mẹ ở giai đoạn này là vô cùng cần thiết sẽ giúp cho trẻ
độc lập suy nghĩ, có quan hệ tốt với ngƣời khác giới.

* Giáo dục đạo đức cho trẻ em
- Đạo đức và sự cần thiết giáo dục đạo đực cho trẻ em

×