Tải bản đầy đủ (.pdf) (187 trang)

Dân cư trong tồn tại xã hội ở tỉnh Lâm Đồng và sự vận động của nó hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 187 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



BÙI TRUNG HƢNG



DÂN CƯ TRONG TỒN TẠI XÃ HỘI Ở TỈNH LÂM
ĐỒNG VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NÓ HIỆN NAY





LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC




HÀ NỘI – 2002





1



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


BÙI TRUNG HƢNG


DÂN CƯ TRONG TỒN TẠI XÃ HỘI Ở TỈNH LÂM
ĐỒNG VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NÓ HIỆN NAY


LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC


Chuyên ngành : CNDVBC VÀ CNDVLS
Mã số : 5.01.02

Người hướng dẫn khoa học :
1. GS.TS. NGUYỄN HỮU VUI
2. PGS.TS HỒ SĨ QUÝ

HÀ NỘI – 2002




2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 4
Chương 1 DÂN CƯ - YẾU TỐ CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI 12

1.1. Những quan điểm tiêu biểu về dân cƣ trong lịch sử tƣ tƣởng tôn giáo và triết học. 12
1.1.1. Một số quan điểm tôn giáo và triết học trước Mác về dân cư. 12
1.1.2. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về dân cư. 21
1.1.3. Mặt lượng và mặt chất của yếu tố dân cư. 29
1.2. Vai trò của yếu tố dân cƣ trong tồn tại xã hội. 40
1.2.1. Dân cư trong quan hệ với hoàn cảnh địa lý - điều kiện tự nhiên. 40
1.2.2. Quan hệ của dân cư với phương thức sản xuất. 46
1.3. Một số vấn đề về dân cƣ trong tồn tại xã hội hiện đại. 53
1.3.1. Áp lực của sự gia tăng dân số trong xã hội hiện đại. 53
1.3.2. Đói nghèo, bệnh tật và sự biến động tiêu cực của cộng đồng dân cư trong xã hội hiện đại. 62
1.3.3. Công nghiệp hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc trong phát triển. 70
Chƣơng 2 DÂN CƯ TRONG TỒN TẠI XÃ HỘI Ở LÂM ĐỒNG………79
2.1. Những đặc điểm cơ bản về tồn tại xã hội ở tỉnh Lâm Đồng. 79
2.1.1. Hoàn cảnh địa lý - điều kiện tự nhiên. 79
2.1.2. Hoạt động kinh tế - Phương thức sản xuất: 83
2.1.3. Cộng đồng dân cư Lâm Đồng: quá trình hình thành và những đặc trưng mang tính quy luật. 90
2.2. Thực trạng của yếu tố dân cƣ ở Lâm Đồng hiện nay. 97
2.2.1. Mặt lượng và mặt chất của cư dân Lâm Đồng. 97
2.2.2. Vai trò của yếu tố dân cư trong tồn tại xã hội ở Lâm Đồng hiện nay. 111
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 124
Chương 3 XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC GIẢI PHÁP 126
NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ DÂN CƯ Ở LÂM ĐỒNG 126
3.1. Những dự báo về xu hƣớng phát triển của yếu tố dân cƣ ở Lâm Đồng 126
3.2. Các giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, phát huy vai trò tích cực của dân cƣ ở Lâm Đồng.
134
3.2.1. Nhóm các giải pháp tác động tới dân cư từ góc độ kinh tế. 136
3.2.2. Nhóm các giải pháp tác động tới dân cư bằng chính sách xã hội. 149
3.2.3. Nhóm các giải pháp tác động tới dân cư thông qua các hoạt động giáo dục, khoa học
và văn hóa. 160


3
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 172
PHẦN KẾT LUẬN 174
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 177
























2
PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài:
Dân cư và sự tồn tại, phát triển của xã hội là hai vấn đề không thể tách
rời nhau; bởi lẽ, dân cư là yếu tố quan trọng của sản xuất và của đời sống xã
hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dân cư là yếu tố quan
trọng của tồn tại xã hội: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ
nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống"(C. Mác và Ph.
Ăngghen) [55. tr 32].
Mặc dầu quan trọng như vậy, song với tính cách là một hệ thống nhỏ
trong hệ thống lớn là đời sống xã hội, đồng thời với tính cách là một cực trong
hệ thống tương tác xã hội 3 cực của tồn tại xã hội, dân cư còn chưa thật sự
được làm rõ về các nội dung và vai trò của nó. Trong nhận thức, có lúc, có nơi
yếu tố dân cư dễ bị mờ nhạt đi bên cạnh yếu tố địa lý hoặc yếu tố phương
thức sản xuất (yếu tố thường được coi là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội).
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì "đời sống xã hội về
thực chất là có tính thực tiễn"; điều đó nói lên rằng, trong tiến trình lịch sử
của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, ngoài yếu tố sản xuất, các yếu tố hoàn cảnh
địa lý, dân cư là những nhân tố bên trong có thể góp phần thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển đặc thù của mỗi dân tộc. Việt Nam là nước đông dân thứ 13
trên thế giới, với 54 tộc người. Đảng, Nhà nước ta từ lâu đã sớm nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề dân cư và đã có nhiều chủ trương, chính sách
tác động tới một số mặt của vấn đề dân cư như: chính sách dân số, chính sách
di dân Mặc dầu vậy, hiệu quả của những chính sách trên, trên thực tế, còn
thấp và không đồng đều ở các địa phương. Thực tiễn phát triển của dân cư
Việt Nam còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, giải quyết và đưa ra những

3
kết luận, nhằm tạo cơ sở cho những chính sách phù hợp hơn với sự phát triển
của xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm tới,
Đảng ta đã chỉ rõ: "Khoa học xã hội và nhân văn đặt trọng tâm vào tổng kết
thực tiễn, đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và toàn
cầu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chiến
lược, chính sách phát triển kinh tế xã hội; phát huy nhân tố con người và văn
hóa Việt Nam" [24. tr 205]. Với tính cách là một ngành khoa học thuộc khoa
học xã hội và nhân văn, việc triết học nghiên cứu yếu tố cư dân trong tồn tại
xã hội ở Lâm đồng cũng như trong cả nước là nhằm góp phần đáp ứng yêu
cầu nói trên.
Lâm Đồng là một tỉnh miền núi cao, thuộc nam Tây Nguyên, có nhiều
tiềm năng, với hơn 30 tộc người sinh sống. Nhìn chung, hiện kinh tế Lâm
Đồng còn chậm phát triển; tài nguyên, môi trường đang bị khai thác thiếu
khoa học, kém hiệu quả. Một trong những nguyên nhân của tình trạng đó là
dân cư Lâm Đồng đang có nhiều vấn đề cần quan tâm, chẳng hạn như: tỷ lệ
tăng dân số sinh học còn cao, di dân tự do nhiều, sự phân bố, chất lượng sống
của cư dân chưa thật hợp lý, các yếu tố xã hội khác đang ảnh hưởng tiêu cực
tới dân cư mặt khác, vấn đề tác động của dân cư tới sản xuất và điều kiện tự
nhiên, nhất là môi trường sống ở Lâm Đồng cũng chưa được đánh giá và phát
huy một cách khoa học.
Với những lý do trên, chúng tôi thấy cần có sự nghiên cứu sâu hơn về
yếu tố dân cư và vai trò của nó trong sự phát triển của Lâm Đồng. Trên cơ sở
đó, làm rõ thêm các quan điểm khoa học về vấn đề dân cư, về tính đặc thù của
nó, tìm ra những giải pháp cho sự phát triển của dân cư Lâm Đồng trong sự
phát triển chung của cả nước, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh.

4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
a). Tài liệu dịch: Đa số các công trình của các tác giả nước ngoài về

dân cư được phổ biến ở Việt Nam đều chủ yếu là nghiên cứu theo chuyên
ngành dân số học. Chỉ có một số ít công trình tiếp cận yếu tố dân cư từ góc
độ nhân khẩu học và xã hội học như:
+ Nhóm phân tích quan hệ giữa dân cư, dân số - môi trường có:
- Amir Khan (Pakistan). Những quan hệ qua lại giữa các yếu tố dân
số, phát triển và môi trường ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Người dịch
Trần Văn Chiến. Trung tâm nghiên cứu, thông tin và tư liệu dân số (TTNC,
TT & TLDS) Hà Nội 1995. Trong công trình này, tác giả đã chỉ ra những ảnh
hưởng của sự tập trung dân số quá lớn vào các đô thị, ảnh hưởng của mật độ
dân cư quá cao đến môi trường đô thị và môi trường sống nói chung; đề ra
một số khuyến nghị có tính chất giải pháp để cải thiện tình hình.
- Monowar Hossnin (Bănglađét). Những quan hệ qua lại giữa dân số
và các tài nguyên: một khung phân tích. Tập san Dân số của Liên hiệp quốc
1995. Sau khi khái quát các giai đoạn lịch sử của mối quan hệ qua lại giữa
con người với tự nhiên, tác giả nhấn mạnh: cùng với sự xuất hiện văn minh đô
thị và khoa học kỹ thuật hiện đại, con người đã khai thác quá mức, dẫn tới vi
phạm sự cân bằng trong quan hệ với tự nhiên. Tuỳ theo mức độ phát triển và
lợi ích của mỗi cộng đồng con người vi phạm sự cân bằng đó, song đều theo
hướng phá huỷ môi trường. Từ đó tác giả đưa ra một biểu đồ khung phân tích
các liên hệ hợp lý giữa con người (cộng đồng) và môi trường thông qua các
khâu trung gian như thiết chế xã hội và công nghệ để có thể tác động và giải
quyết các vấn đề nảy sinh.
+ Các nhóm tài liệu tiếp cận dân cư từ góc độ nhân khẩu học có các
công trình:
- Leon Tabanh - ban dân số thuộc Ban thư ký LHQ. Từ một quá độ
nhân khẩu học này sang một quá độ khác. Tập san dân số của Liên Hiệp
Quốc. Người dịch Hoàng Tích Giang. TTNC, TT & TLDS. Hà nội,1995.

5




Công trình đã so sánh tình hình gia tăng dân số không đồng đều ở 3 châu lục:
Âu, Á, Phi, từ đó rút ra vai trò quan trọng của các nhân tố kinh tế, xã hội và
văn hoá trong các quá trình quá độ nhân khẩu học của nhân loại. Tác giả đã
đưa ra một số kết luận về hướng nghiên cứu các vấn đề nhân khẩu học trong
quan hệ liên ngành rất đáng chú ý là: "phải thừa nhận rằng bất kỳ ý định nào
định giải thích nhân khẩu học theo các quá trình dân số sẽ là ảo tưởng. Nhân
khẩu học chỉ có thể giải thích các nguyên nhân nhân khẩu học của hiện tượng
- ví dụ, những thay đổi về mức sinh có thể quy một phần cho những thay đổi
về các kiểu kết hôn hoặc về cơ cấu tuổi; những giải thích như vậy hoàn toàn
là nội tại do đó bị hạn chế. Giải thích thực sự các hiện tượng theo quy mô của
quá độ nhân khẩu học phải được xét từ bên ngoaì môn nhân khẩu học và chỉ
có thể đạt được qua nỗ lực phối hợp của các nhà nghiên cứu về khoa học xã
hội" [50. tr 3].
Georges Photios Tapinos - Viện nghiên cứu chính sách Paris. Di cư
quốc tế và sự phát triển. Tập san dân số của Liên Hiệp Quốc. Người dịch
Hoàng Tích Giang. TTNC, TT&TLDS. Hà nội 1995. Tác giả đã tập trung
đánh giá các tác động của di cư tới sự phát triển của từng quốc gia đến triển
vọng quốc tế. Tác giả cũng khái quát sự biến động của các luồng di cư, các
chính sách di dân, những mặt tích cực và tiêu cực của nó trong quan hệ với
đời sống ở cả nơi xuất cư và nơi chuyển đến.
Nhìn chung, các công trình trên đây tìm cách tiếp cận nhân khẩu học,
xã hội học, đã đi sâu phân tích từng mặt của yếu tố dân cư trong đời sống xã
hội hiện đại. Trong số đó có một số kết luận có giá trị như là những tổng kết
lý luận triết học.
b) Từ góc độ triết học: Ở nước ta từ trước tới nay chưa có một công
trình triết học riêng biệt nào nghiên cứu về dân cư với tính cách là một yếu tố

6

của tồn tại xã hội. Mặc dù dân cư trong tồn tại xã hội đã được đề cập đến như
là một yêu tố tất yếu của sản xuất và đời sống trong các giáo trình triết học,
song lại chủ yếu được mô tả theo khía cạnh vật chất - kỹ thuật, còn ít chú ý tới
khía cạnh xã hội, tinh thần. Trong khi đó ở một số nước trên thế giới, trong
một số cách giải nghĩa khái niệm dân cư, họ đã coi dân cư vừa là chủ thể của
sản xuất, của tiêu dùng, vừa là nền tảng để sáng tạo, lưu giữ các giá trị tinh
thần.
c) Một số khía cạnh, vấn đề của yếu tố dân cư ở Việt Nam được nghiên
cứu nhiều dưới góc độ chuyên ngành: dân số học, đia lý, xã hội học:
+ Chuyên ngành dân số học có các công trình đáng chú ý là:
Nhóm các công trình nghiên cứu chuyên ngành dân số gồm :
- Một số chính sách kinh tế - xã hội có quan hệ với chính sách dân số.
Thông tin dân số số 1/1996 của tác giả Doãn Mậu Diệp.
- Đặc điểm cơ bản của dân số nước ta hiện nay và những khuyến nghị về
chính sách. Thông tin dân số số 4/2000. tr 8-12 của PGS. TS. Nguyễn Đình
Cử.
- Dự báo dân số theo chương trình mục tiêu cho các tỉnh thành phố đến
năm 2020: công nghệ thực hiện và những nhìn nhận từ kết quả dự báo.
Thông tin dân số. số 2/1998. tr10-12 của tác giả Hoàng Phước Hòa.
- Quá độ dân số: Việt Nam đang ở đâu ? Thông tin dân số. số 5/1997
của Phạm Quý Thọ.
- Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết BCHTW4 - khóa VII về chính
sách dân số và KHHGĐ của UBQGDS - KHHGĐ do TS. Trần Thị Trung
Chiến trình bày. Thông tin dân số, số 1/2000.
Các công trình này tập trung xem xét thực trạng về quy mô, cơ cấu dân
số… đề ra những khuyến nghị về chính sách dân số.
Nhóm các công trình xem xét quan hệ của dân số với môi trường sống
gồm có :

7

- Đô thị hóa và môi trường đô thị. Tạp chí thông tin dân số số 4/1996 của
PGS Lê Trọng Cúc.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu dân số môi trường trên phạm vi toàn quốc.
Thông tin dân số. số 1/1998, của hai tác giả: Võ Anh Dũng - PTS Đoàn Minh
Lộc.
- Dân số và môi trường. Hai tác giả Minh Luận - Hương Giang, trong
kỷ yếu hội thảo khoa học: Hợp tác nghiên cứu và hoạt động về dân số và
phát triển ở Việt Nam. Hà Nội 1999.
- Một số vấn đề về mối quan hệ giữa dân số và sự phát triển. Do Trần
Cao Sơn (chủ biên). NXB khoa học xã hội. Hà Nội, 1997.
Các công trình trên đây và nhiều công trình khác nữa tuy tiếp cận chủ
yếu từ góc độ dân số học, song đã ít nhiều nêu ra và giải quyết được một số
mặt, một số vấn đề của yếu tố dân cư đối với sự phát triển.
+ Chuyên ngành xã hội học có các công trình đáng chú ý là:
- Một số vấn đề dân số từ hướng tiếp cận xã hội học. Do GS. Tương Lai
chủ biên. NXB khoa học xã hội. Hà nội, 1992.
- Xóa đói giảm nghèo dưới cái nhìn văn hóa truyền thống của TS.
Nguyễn Minh Hòa. Tạp chí thông tin lý luận số 12/2000.
Các công trình này đã hướng cách tiếp cận trực tiếp vào một số vấn đề
cụ thể của dân cư, khái quát các giải pháp mang tính lý luận có tầm triết học.
d). Về dân cư ở Lâm Đồng đã có 2 tác phẩm:
- Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng do PGS. TS. Mạc Đường chủ biên. Tác
phẩm này chủ yếu nghiên cứu các cư dân bản địa ở Lâm Đồng dưới góc độ
dân tộc học.
- Dân tộc - dân cư Lâm Đồng của tác giả Trần Sĩ Thứ. Ngoài việc chỉ ra
nguồn gốc của cư dân Lâm Đồng, tác giả thống kê các tộc người, một số đặc
trưng của họ và đặc trưng dân số học của cư dân Lâm Đồng. Tác giả cũng nêu
được một số thành tựu trong phát triển kinh tế và văn hoá như là những vai trò

8

của cộng đồng cư dân Lâm Đồng trong thời gian qua. Tuy nhiên cách tiếp
cận cơ bản vẫn là từ góc độ thống kê học và dân tộc học.
Hiện chưa có công trình nghiên cứu về yếu tố dân cư ở Lâm Đồng tiếp
cận từ góc độ triết học, để đi sâu phân tích cấu trúc, vai trò thực tiễn của cư
dân Lâm Đồng và từ đó đề xuất các giải pháp khoa học để giải quyết vấn đề,
thúc đẩy sự phát triển của dân cư ở đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
+ Mục đích: Góp phần làm rõ những nội dung của dân cư và quan hệ
của nó với các yếu tố khác trong tồn tại xã hội; trên cơ sở đó, khảo sát dân cư
trong đời sống xã hội ở Lâm Đồng; bước đầu đánh giá và đề xuất những biện
pháp nhằm phát huy vai trò của yếu tố dân cư trong tồn tại xã hội ở tỉnh Lâm Đồng.
+ Nhiệm vụ:
- Phân tích nội dung và vai trò của yếu tố dân cư trong tồn tại xã hội.
- Phân tích những hạn chế, ưu thế và xu hướng phát triển của dân cư ở
Lâm Đồng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò và giải quyết các vấn
đề của yếu tố dân cư trong tồn tại xã hội ở Lâm Đồng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
+ Dân cư: cấu trúc, vai trò và vị trí của nó trong tồn tại xã hội theo quan
điểm của triết học Mác - Lênin. Luận án đặc biệt chú ý đến các quan điểm,
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta khi kiến giải về các
vấn đề đặt ra ở Lâm Đồng.
+ Phạm vi khảo sát thực tiễn của luận án là Lâm Đồng, vùng văn hóa có
những nét đặc thù tiêu biểu cho khu vực nam Tây Nguyên.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử về xã hội của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí

9
Minh. Luận án có chú ý thích đáng đến những thành tựu khoa học của một số

học giả trong và ngoài nước khi bàn về yếu tố dân cư và các vấn đề của Lâm Đồng.
- Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp chung của CNDVBC và
CNDVLS; các phương pháp: cấu trúc hệ thống, phân tích, tổng hợp, lôgic,
lịch sử, so sánh, điều tra, phỏng vấn để thu thập, phân tích, xử lý và trình
bày vấn đề.
6. Cái mới của đề tài:
- Đề xuất việc sử dụng thống nhất thuật ngữ dân cư để chỉ yếu tố người
trong tồn tại xã hội và nêu ra khái niệm dân cư, làm rõ vai trò của dân cư với
hoàn cảnh địa lý và phương thức sản xuất trong tồn tại xã hội.
- Chỉ ra những nét đặc thù của yếu tố dân cư trong tồn tại xã hội ở Lâm
Đồng, phân tích những mặt tích cực và hạn chế trong sự vận động phát triển
của dân cư ở đây, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của
yếu tố dân cư, nhằm giải quyết tốt hơn các vấn đề đặt ra ở Lâm Đồng trong
tương quan chung với sự phát triển của cả nước.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
- Luận án có thể làm tư liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy triết học Mác - Lênin về tồn tại xã hội, về hình thái kinh tế - xã hội; luận
án cũng là tư liệu tham khảo cho tất cả những ai quan tâm tới các vấn đề của
Lâm Đồng và nam Tây Nguyên.
8. Kết cấu của luận án: ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án
gồm 3 chương với 7 tiết.






10



PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
DÂN CƢ - YẾU TỐ CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI

1.1. Những quan điểm tiêu biểu về dân cƣ trong lịch sử tƣ tƣởng tôn
giáo và triết học.
1.1.1. Một số quan điểm tôn giáo và triết học trước Mác về dân cư.
1.1.1.1. Quan điểm của một số tôn giáo quốc tế.
Ngoại trừ Phật giáo, các tôn giáo lớn đều cho rằng Thượng đế (hoặc trời)
sinh ra vạn vật, trong đó có con người. Tuy nhiên, do mỗi tôn giáo thường
gắn với những cộng đồng dân cư nhất định, hoặc những bộ phận của cộng
đồng đó, cho nên các tôn giáo có sự quan tâm đáng kể đến yếu tố dân cư và
vấn đề dân cư. Nếu tước bỏ đi yếu tố duy tâm, tôn giáo, thì có thể nói các tôn
giáo có sự quan tâm sớm và khá chi tiết trong việc tổ chức các cộng đồng dân
cư, thường được gọi là các cộng đồng giáo dân. Điều này là phổ biến ở tất cả
các tôn giáo quốc tế như Phật giáo, Ki-tô giáo, Hồi giáo Các cộng đồng
giáo dân thường được tổ chức như là những đơn vị xã hội khép kín có đầy đủ
tính chất và cơ cấu của một đơn vị xã hội của dân cư. Điểm khác biệt cơ bản
của các đơn vị xã hội này là ở chỗ, trung tâm liên kết của họ là nơi thờ tự (nhà
thờ, chùa, thánh đường ) với "chất" liên kết cơ bản là niềm tin tôn giáo. Đặc
điểm này phổ biến và có ý nghĩa lớn ở những nơi mà một tôn giáo nào đó
chiếm địa vị độc tôn; khi đó cộng đồng tôn giáo còn thể hiện như là một đơn
vị hành chính. Còn ở những nơi có sự đan xen giữa các tôn giáo trong một
cộng đồng dân cư thì đặc trưng trên vẫn là cơ bản, góp phần duy trì sức sống
của các tôn giáo. Vì vậy, trong kinh sách của các tôn giáo, yếu tố dân cư được
chú ý bàn đến khá chi tiết.

11
Điển hình là phần "sách dân số" trong kinh Cựu ước của Ki-tô giáo.
Sách này đã đề cập đến nhiều nội dung của yếu tố dân cư, dưới tên gọi là

"cộng đồng dân chúa". " Sách dân số" đã mô tả quá trình hình thành các cộng
đồng dân cư; các quy ước như là những luật lệ về phân chia đất đai, về quyền
thừa kế đất đai, tài sản; các phong tục tập quán, về điều tra dân số và quá trình
di dân lập nơi ở mới v.v Đây chính là cơ sở lý thuyết mà nhà thờ Ki-tô giáo
dựa vào để xây dựng các giáo khu ở hầu hết các nước Châu Âu. Và đó cũng
là lý thuyết cho mô hình được gọi là các Pha-lăng-dơ (nước chúa ngàn năm)
mà các nhà XHCN không tưởng ở thế kỷ XVIII mong muốn xây dựng.
1.1.1.2. Quan điểm triết học của Nho giáo.
Như đã biết, Nho giáo là một học thuyết triết học - chính trị do Khổng
Tử (551-480 T.C.N), người Trung quốc sáng lập và sau đó trở thành nền tảng
tư tưởng cho các chế độ Phong kiến ở một số nước châu Á. Vì vậy, có thể nói
quan niệm về dân cư của Nho giáo cũng là quan niệm chung cho toàn bộ thời
đại phong kiến về dân cư. Dân cư ở thời phong kiến, theo quan niệm của Nho
giáo, tuy có nhiều tên gọi khác nhau song tựu trung đều được gọi là "thần
dân". "Khái niệm "thần dân" chỉ hết thảy những người thuộc các giai cấp, các
tầng lớp trong một nước, bất kể đó là làm quan hay không làm quan, lao lực
hay lao tâm, giàu sang hay nghèo hèn đều có số phận là tôi con của triều
đình, chịu sự thống trị của vua, phục vụ nhà vua và trung thành với quyền lợi
của vua. Nói cách khác, đó là dân cư của triều đại phong kiến". [86.192]. Để
có thể cai trị được tốt, Nho giáo cũng đã đưa ra một quan điểm rõ ràng về vai
trò của dân cư và những biện pháp nhằm phát huy vai trò đó.
Điều đáng lưu ý là, đôi khi, Khổng Tử đã từng quan niệm dân ngang với
trời, ý dân là ý trời, vua tuy được quyền thay trời, nhưng đối với dân lại phải
chịu trách nhiệm toàn diện. Dân tuy phải chịu quyền cai trị của vua, nhưng
vẫn có quyền bắt vua phải theo điều lành, điều thiện mà làm: "Cái sáng suốt
của trời ở cái sáng suốt của dân, sự làm cho rõ điều lành sợ điều ác của trời ở

12
sự làm cho rõ điều lành sợ điều ác của dân, trên trời dưới dân thông đạt với
nhau. Vậy nên người làm vua, làm chúa, phải kính vậy thay! (Thư: Cao - Dao

mô) [45, tr 131].
Mặc dầu vậy, Nho giáo luôn coi vua là "tâm" - cái tinh tuý; coi dân là
"thân thể" - cái tầm thường, hai cái đó luôn liên hệ mật thiết với nhau, không
thể tách rời được: tâm nhờ thân thể mà toàn, và cũng vì thân thể mà nguy; vua
nhờ dân mà còn, và cũng vì dân mà mất (Lễ Kí: Trung Y. XXXIII) [45,
tr133]. Tuân Tử cho rằng con người khác động vật ở chỗ sống tập thể theo xã
hội mà có tổ chức, có lễ nghĩa trên dưới. Ông đã chỉ ra nguyên nhân của
"loạn" trong đời sống dân cư là: thứ nhất, tuy con người sống hợp quần nhưng
mỗi cá nhân chỉ có một khả năng nhất định, nếu không có sự phân công hợp
lý thì sinh loạn; thứ hai, sản vật tự nhiên và của cải làm ra thì ít mà nhu cầu
của con người thì vô cùng, nên dẫn tới tranh chấp. Từ đó, ông chủ trương:
phải tăng cường sản xuất và tiết kiệm, trong đó lấy nông nghiệp làm cơ bản,
phân rõ ngành nghề trong xã hội (sĩ, nông, công, thương); phải hạn chế nhu
cầu, dục vọng, lấy lễ làm cơ sở, làm nguyên tắc đạo đức để phân chia thứ bậc
và cung cách giao tiếp xã hội. Tuân Tử từng nói "Chở thuyền là dân mà lật
thuyền cũng là dân". Sách Thượng thư cũng viết "Dân có thể gần, không thể
coi thường. Dân là gốc nước. Gốc có vững thì nước mới yên" Muốn giữ được
quyền bính thì phải được dân tin. Khi Tử Cống hỏi Khổng Tử, để làm chính
trị cần có những điều gì, Khổng Tử đã trả lời có 3 điều, trong đó dân tin là
quan trọng nhất: "đủ ăn, đủ binh, dân tin mình vậy. Nhược bằng trong 3 điều
ấy, bất đắc dĩ phải bỏ một điều, thì nên bỏ điều nào trước? Bỏ việc binh. Còn
hai điều mà bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều nữa thì nên bỏ điều nào trước? Bỏ
ăn. Vì bỏ ăn thì chết, nhưng xưa nay người ta vẫn chết, chứ dân mà không
tin, thì không sao đứng vững được (Luận ngữ: Nhan Uyên, XII) [45, tr 137].
Muốn dân tin mình, theo Khổng Tử, người cầm quyền phải lấy việc nhân
nghĩa mà trị dân. Bên cạnh đó, để phục vụ việc trị dân, Nho giáo rất quan tâm

13
tới việc phát triển dân số và nâng cao chất lượng dân cư. Với quan niệm về
thứ, phú, giáo, Khổng Tử cho rằng có 3 điều quan trọng mà nhà cầm quyền

phải làm được, đó là: làm cho dân nhiều, làm cho dân giàu và dạy dân biết lễ
nghĩa. Nhiễm Hữu hỏi về phương cách trị dân, Khổng Tử đã trả lời: Trị dân
mà không dạy dân, thì dân biết thế nào được cương, thường đạo lý, để giữ trật
tự trong xã hội, nhưng trước khi dạy dân, cần phải làm cho dân giàu, vì có đủ
ăn, đủ mặc thì mới học được lễ nghĩa (xem luận ngữ: Tử Lộ, XIII).
Mạnh Tử đã phát triển tư tưởng này khi cho rằng người trị dân, trị nước
là phải chăm lo việc dân, khiến cho dân được sung túc rồi phải dạy dỗ dân để
cho dân đừng làm điều sai trái (Đằng Văn Công, thượng). Tuy nhiên, xuất
phát từ lợi ích ích kỷ của giai cấp mình, với cái nhìn hạn hẹp, Mạnh Tử đã
nhìn dân như những lực lượng thấp hèn, phải chịu địa vị nô lệ là do trời sinh
ra. Mạnh Tử từng nói: "Hoặc là lao tâm, hoặc là lao lực; người lao tâm thì trị
người, người lao lực thì bị người trị; bị người trị thì nuôi người, trị người thì
được người nuôi. Đó là nghĩa thông thường trong thiên hạ "(Mạnh Tử Đằng
Văn Công, thượng) [45, tr. 221 - 222]. Tư tưởng trên đây đã trở thành chỗ dựa
cho giai cấp phong kiến thống trị củng cố địa vị mình, nô dịch, bóc lột nhân
dân.
Ở Việt Nam, tuy ảnh hưởng của Nho giáo khá nặng nề, song do hoàn
cảnh lịch sử, do yêu cầu của việc dựng nước và giữ nước, nên quan niệm về
dân và vai trò của dân trong giai cấp thống trị có khác so với quan niệm Nho
giáo ở Trung Quốc.
Lý Thường Kiệt đã nêu lên tư tưởng "người làm vua của dân, cốt phải
nuôi dân" Trần Quốc Tuấn thì nêu ra bài học cần phải làm cho "lòng dân
không ly tán", "khoan sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách
của sự giữ nước". Nguyễn Trãi cho rằng: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân",
"đem quân đi đánh giặc cốt để yên dân". Các triều đại phong kiến Việt Nam
đã tạo ra một nền tảng chính sách gần dân, thân dân và phát huy tốt sức mạnh

14
của dân trong công cuộc chống ngoại xâm, giữ vững nền độc lập dân tộc,
cũng như trong việc xây dựng đất nước.

1.1.1.3. Quan niệm về dân cư trong triết học phương Tây:
Ngay từ thời cổ đại, với văn minh đồ sắt phát triển, ở phương Tây đã
hình thành được các nhà nước mạnh, thống trị các bộ tộc bị hợp nhất lại,
thường được gọi là nhà nước thành bang, với một chế độ nô lệ điển hình và
với những quan niệm khá định hình về vai trò của cá nhân và xu hướng giải
phóng cá nhân (tất nhiên là cá nhân chủ nô) trong quan hệ với các cộng đồng
dân cư. Đó là một trong những nguyên do làm cho trong triết học phương
Tây, con người thường được nghiên cứu nhiều hơn ở góc độ cá nhân, trước
khi nghiên cứu trong quan hệ cộng đồng. Sau đây chúng ta xem xét vấn đề
trên thông qua một số triết gia tiêu biểu.
- Platôn: (427 - 347 T.C.N) đã đưa ra một quan niệm duy tâm về con
người; ông đối lập giữa linh hồn và thể xác con người. Ông cho rằng linh hồn
con người có 3 phần: Lý tính, xúc cảm và cảm tính, trong đó chỉ có linh hồn
lý tính là bất diệt còn hai phần kia thì chết cùng thể xác. Tương ứng với ba
loại linh hồn nói trên là ba loại cấu thành xã hội, tuỳ theo mức độ chủ đạo của
từng phần linh hồn đó. Thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái, với linh
hồn lý tính làm chủ đạo, nên có nhiều phẩm chất ưu tú, có thể đảm nhận vai
trò lãnh đạo trong nhà nước lý tưởng. Thứ hai, là những người lính, với linh
hồn xúc cảm làm chủ đạo, có một số phẩm chất để đảm nhận được nhiệm vụ
bảo vệ nhà nước lý tưởng. Thứ ba, là những người lao động chân tay nói
chung, với linh hồn cảm tính làm chủ đạo, có địa vị thấp hèn nhất, chủ yếu
sinh ra để phục vụ cho nhà nước lý tưởng. Như vậy, theo Platôn, xã hội ngay
từ khi sinh ra đã bao gồm những con người với các đẳng cấp khác nhau và
không thể có sự bình đẳng giữa mọi người. Đa số nhân dân phải sống vì nhà
nước, chứ không phải nhà nước vì nhân dân.

15
- Arixtốt (384-322 T.C.N), tuy cũng thừa nhận con người có hai phần:
linh hồn và thể xác, song ông không đối lập chúng với nhau, mà cho rằng hai
phần đó có quan hệ hữu cơ với nhau. Ông quan niệm có ba loại linh hồn: linh

hồn thực vật, linh hồn động vật, linh hồn lý tính ; con người là loài bao hàm
cả ba loại linh hồn nói trên, tức là, ngoài thượng đế ra, linh hồn lý tính chỉ có
ở con người, bởi vậy con người là cao cấp nhất trong muôn loài, con người là
một sinh vật xã hội, bản tính của nó là sống cộng đồng.
Các hình thức cộng đồng của con người đó là gia đình (kiểu chiếm nô)
và Nhà nước. Trong đó, cộng đồng gia đình là tự nhiên; nhà nước ra đời trên
cơ sở gia đình, là sự phát triển cao của cộng đồng gia đình. Theo Arixtốt, nhà
nước phải mang lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi người (tất nhiên trừ nô lệ):
"Mục đích của nhà nước là cuộc sống phúc lợi bản thân nhà nước là sự giao
tiếp của các gia tộc và dân cư nhằm đạt được sự tồn tại một cách hoàn thiện
và tự lập "[110.241]. Arixtốt đã nhận rõ vai trò của các cộng đồng dân cư với
chính trị - xã hội theo lập trường của giai cấp chủ nô.
Nhìn chung các nhà triết học cổ đại Hy Lạp đã xem xét quan hệ của dân
cư và các cộng đồng trong quan hệ với nhà nước, một thiết chế chính trị đặc
biệt. Điều đó đã đặt cơ sở cho những tư tưởng về xã hội công dân phát triển
mạnh ở thế kỷ XVIII trong triết học phương Tây.
- Tômát Hốpxơ (1588 - 1679) cho rằng mỗi dân tộc đều phải trải qua hai
giai đoạn phát triển: giai đoạn tự nhiên và giai đoạn xã hội công dân (còn gọi
là giai đoạn nhà nước). Nhà nước là sự sáng tạo cao nhất mà con người có thể
làm ra. Nhà nước là "con người nhân tạo", mà chính phủ là linh hồn của "con
người" đó. Tuy nhà nước làm hạn chế tự do của con người, làm giảm các khát
vọng tự nhiên của con người, nhưng quyền làm chủ xã hội của con người chỉ
thực sự có được khi họ lập ra nhà nước của mình.
- Môngtexkiơ (1689 - 1775)là một trong những nhà tư tưởng sớm nhận
thấy cơ sở tự nhiên của xã hội loài người; ông khẳng định, các hiện tượng tự

16
nhiên và xã hội có sự thống nhất với nhau và đều chịu sự chi phối bởi các quy
luật nhất định. Theo ông, có 2 dạng quy luật chi phối sự phát triển của xã hội
loài người. Thứ nhất, đó là các quy luật tự nhiên xuất phát từ bản chất sinh vật

của con người, chúng đảm bảo các nhu cầu sinh học của con người. Thứ hai
đó là quy luật "thuần tuý xã hội". Tuy nhiên, ông chưa đánh giá đúng mức
tính đặc thù của các quy luật xã hội. Vì vậy, dù sớm nhận ra vai trò của sản
xuất vật chất trong sự phát triển của xã hội và các cộng đồng người, ông lại
quá nhấn mạnh vai trò quyết định của điều kiện địa lý, khi cho rằng từ sự
khác nhau về điều kiện địa lý giữa các vùng trên trái đất dẫn tới sự khác nhau
giữa các dân tộc, các quốc gia về chủng tộc, lối sống, văn hoá, pháp luật, thể
chế, xã hội v.v Do đó con người định cư ở khu vực nào đó trên trái đất, họ
chỉ có thể làm ra lịch sử của mình trong giới hạn mà địa lý, khí hậu chi phối
họ. Bởi vì, theo ông "uy quyền của khí hậu mạnh hơn mọi uy quyền" [110,
tr.120].
- Giăng Giắc Rútxô (1712 - 1778), nhà tư tưởng vĩ đại của triết học khai
sáng Pháp cho rằng, con người sinh ra vốn có tự do, nhưng từ trước tới giờ nó
luôn bị kìm hãm, tước mất tự do. Nguyên nhân của tình trạng đó nằm ngay
trong bản thân xã hội loài người, cụ thể là ở bản thân sự phát triển kinh tế và
chế độ sở hữu của xã hội. Ông chia tiến trình phát triển của lịch sử thành 2
giai đoạn. Giai đoạn đầu, hay " trạng thái tự nhiên", là giai đoạn thuần khiết
chưa có sự phân chia đẳng cấp, đó là một thời kỳ dài, bình yên và hạnh phúc
nhất trong lịch sử nhân loại. Giai đoạn sau hay "trạng thái công dân", là giai
đoạn trí tuệ của con người phát triển, đặc biệt là sự xuất hiện của sở hữu tư
nhân đã phá vỡ "trạng thái tự nhiên" của xã hội, xã hội công dân xuất hiện.
Theo ông do sở hữu tư nhân dẫn tới bất bình đẳng về thu nhập mà làm nảy
sinh bất bình đẳng về xã hội, giai cấp xuất hiện, đòi hỏi phải có các đạo luật
xã hội để điều tiết. Ông cho rằng bản tính con người là sống cộng đồng, nên
nhà nước đã ra đời trên cơ sở "khế ước xã hội" do nhân dân lập ra một cách

17
thầm lặng. Theo ông, "sự thoả thuận cơ bản không những không phá vỡ bình
đẳng, tự nhiên, mà ngược lại, thay thế sự bình đẳng về thể lực mà giới tự
nhiên có thể tạo ra bằng sự bình đẳng về đạo đức và pháp luật. Mọi người tuy

không đều nhau về thể lực và trí tuệ, trở thành ngang nhau trong hiệu lực của khế
ước " [110, II tr.127]. Mặc dù vậy, có thể thấy rằng, trong xã hội đương thời,
"khế ước xã hội" có thể trở thành phương tiện hợp pháp hoá sở hữu tư nhân
và mọi bất công trong xã hội. Trạng thái thứ ba là thông qua cách mạng xã hội
đưa xã hội trở về với "trạng thái tự nhiên" ban đầu của nó, nhưng ở mức cao
hơn. Ông cho rằng các điều kiện địa lý, khí hậu đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong sự phát triển của xã hội và dân cư.
- Thuyết nhân khẩu học phản tiến bộ của Mantút (1766-1834), nhà kinh
tế học người Anh: Do phát triển những quan điểm kinh tế học tư sản cực đoan
trong việc xem xét các vấn đề dân cư, Mantút đã nhìn nhận sự tồn tại và phát
triển của dân cư thuần tuý về mặt số lượng.
Bằng quan điểm duy tâm về lịch sử, Mantút đã cắt nghĩa sự tồn tại và
phát triển của dân cư như là một trật tự thiên định. "Đặc điểm của Mantút là
coi sự nghèo khổ của nhân dân là một sự trừng phạt đối với tội lỗi, và nói
chung, hắn không thể không viện đến cái cảnh "trần gian khổ ải", nhưng đồng
thời khi nghĩ đến những khoản thu nhập của giáo hội mà hắn đã nhận được và
khi sử dụng giáo lý về định mệnh thì hắn lại thấy rằng, làm cho cuộc sống
trong cảnh trần gian khổ ải ấy "bớt đau thương" đối với giai cấp thống trị thì
đó là một điều rất có lợi cho hắn" - nhận xét của C. Mác [63, tr.67]. Với tư
tưởng chủ đạo đó, Mantút gán cho những người lao động nghèo khổ phải chịu
trách nhiệm về nạn nhân khẩu thừa. Thứ nhất, do họ sinh đẻ nhiều; thứ hai,
trước khi trở thành người lao động, xã hội phải nuôi không họ một thời gian,
Mantút viết: "Do bản chất của dân số, số tăng của dân số lao động không thể
được đưa ra thị trường sớm hơn 16 - 18 năm sau để thoả mãn một số lượng
cầu đặc biệt, trong lúc đó, thì việc biến thu nhập thành tư bản bằng cách tiết

18
kiệm lại có thể diễn ra nhanh hơn nhiều, một nước bao giờ cũng có nguy cơ là
những quỹ dùng để nuôi sống lao động sẽ tăng nhanh hơn dân số" [63, tr.42].
Mantút cho rằng dân số luôn tăng lên theo cấp số nhân, trong khi của cải lại

chỉ tăng lên theo cấp số cộng, do đó trên trái đất luôn có nhân khẩu thừa. Từ
đó ông chủ trương phải hạn chế nhân khẩu thừa bằng nhiều biện pháp. C. Mác
đã phê phán các chủ trương của Mantút là "sử dụng đến những thủ đoạn nhân
tạo. Những thủ đoạn này là: thuế khoá cao, một số lượng lớn các chức vụ béo
bở của nhà nước và nhà thờ, những đội quân lớn, những khoản tiền hưu bổng,
thuế thập phân cho các mục sự, quốc trái lớn và thỉnh thoảng có những cuộc
chiến tranh rất tốn kém" [64, tr.64]. Trên thực tế, Mantút chủ trương ủng hộ
những sinh hoạt xa hoa lãng phí của tầng lớp trên, ăn bám trong xã hội mà
ông ta gọi là "những người tiêu dùng không sản xuất". Mặt khác với những
"nhân khẩu thừa", thì Mantút cho rằng, phải giảm bớt đi bằng cách để cho họ
phải chết đói và buộc họ phải sống độc thân để không sinh đẻ thêm nhân
khẩu. Theo Mantút, việc mọi người đều có tư liệu sản xuất và bình đẳng về
các quyền lợi khác là không thể thực hiện được. Người thừa phải chịu lấy
trách nhiệm về sự dư thừa của chính mình, vì trước khi anh ta ra đời anh ta đã
không hỏi xem "xã hội có cần sự ra đời của anh ta không". Chẳng phải ngẫu
nhiên mà lâu nay, quan điểm của Mantút đã bị chỉ trích và phê phán từ nhiều
lập trường khác nhau.
Ngoài ra cũng cần xem xét thêm một số quan điểm ngoài mácxit hiện đại
để làm rõ hơn vấn đề dân cư với tính cách là một vấn đề triết học:
Từ cách tiếp cận nhân học - xã hội, tác giả người Pháp Gioóc
Condôminát trong cuốn "Không gian xã hội vùng Đông Nam Á" đã xem xét
các cộng đồng dân cư qua khái niệm "không gian xã hội", tác giả định nghĩa:
"Không gian xã hội là cái không gian được xác định bởi một tập hợp các hệ
thống quan hệ đặc trưng cho một nhóm người nào đó" [29, tr.16]. Theo ông,
không gian xã hội có các khía cạnh cơ bản là:

19
- Những mối liên hệ với không gian và thời gian: xem xét sự tồn tại của
các cộng đồng dân cư trong không gian và thời gian sinh thái.
- Những quan hệ với môi trường: xem xét quan hệ giữa dân cư với môi

trường sinh thái.
- Những quan hệ về trao đổi của cải: quan hệ của dân cư với kinh tế.
- Những quan hệ về giao tiếp: ngôn ngữ và chữ viết. Xem xét các công
cụ chuyển tải các quan hệ trong cộng đồng dân cư.
- Những quan hệ họ hàng, xóm giềng: xem xét các quan hệ giữa con
người với con người trong cộng đồng dân cư như là một hệ thống nhỏ
trong hệ thống lớn nhất là xã hội.
Cũng với cách tiếp cận này, tác giả Christian Taildard thì đưa ra định
nghĩa: "Không gian xã hội của các mối quan hệ tập hợp những đơn vị chính
trị - xã hội cùng loại trong lòng một đơn vị dân cư, đơn vị dân cư này là
khung tham chiếu chung của các nhóm đó cũng như các cá nhân mà các nhóm
đó tập hợp, không gian có một sự năng động xã hội riêng, liên kết các quan hệ
cạnh tranh và hợp tác cho phép mỗi đơn vị đó tái sản sinh gần giống hệt với
các đơn vị khác" [29, tr.65].
Có thể thấy rằng, dân cư với tính cộng đồng nổi trội của nó trong quan
niệm của Christian Taildard cũng như trong quan niệm của Gioóc
Condôminát đều có những điểm hợp lý nhất định. Chúng tôi sẽ sử dụng
những điểm hợp lý đó để phân tích vấn đề đặt ra trong luận án này.
1.1.2. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về dân cư.
Để xem xét các quan niệm của triết học Mác-Lênin về dân cư, cần thiết
phải điểm lại và khẳng định những tư tưởng chủ đạo trong quan niệm của C.
Mác và Ph. Ăngghen về tồn tại xã hội. Bởi vì xem xét vấn đề dân cư là xem
xét một bộ phận quan trọng của tồn tại xã hội.

20
Xung quanh phạm trù tồn tại xã hội, vào những năm 60-70 (thế kỷ
XX), trong giới triết học mácxít ở các nước XHCN đã có nhiều tranh luận với
những cách hiểu khác nhau. Điển hình cho sự tranh luận đó là những quan
điểm khác nhau của các nhà triết học Bungari và Liên xô. Có quan điểm cho
rằng tồn tại xã hội chỉ cần được hiểu bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ

sản xuất là đủ bởi vì theo họ, hoàn cảnh địa lý - điều kiện tự nhiên chỉ là
những tồn tại tự nhiên mà thôi và chỉ khi nào con người khai thác tới thì
chúng mới có nghĩa như tồn tại xã hội. Khi con người đưa điều kiện tự nhiên
vào khai thác thì giới tự nhiên đó đã trở thành một bộ phận của lực lượng sản
xuất, còn vai trò của con người được thể hiện như là một yếu tố của lực lượng
sản xuất và quan hệ của họ thì được thể hiện trong quan hệ sản xuất (xem: D.
Gưrdev. Những vấn đề cấp bách của ý thức xã hội. M., 1982).
Các nhà triết học Nga thì cho rằng tồn tại xã hội gồm có ba yếu tố: con
người, phương thức sản xuất và hoàn cảnh địa lý - điều kiện tự nhiên. Từ điển
triết học tiếng Nga định nghĩa tồn tại xã hội: "Chủ nghĩa Mác hiểu rằng đó là
quan hệ vật chất của con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất của cải
vật chất và với những quan hệ đó con người can dự vào quá trình sản xuất
này" [99, tr.331].
Ở Việt Nam, trong các tài liệu, giáo trình triết học, tồn tại xã hội được
trình bày gồm ba yếu tố: dân số, phương thức sản xuất và hoàn cảnh địa lý -
tự nhiên, trong đó phương thức sản xuất được coi là yếu tố có vai trò quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Tuy nhiên cả ở Nga và Việt Nam, khái
niệm tồn tại xã hội chỉ được nêu ra khi trình bày về ý thức xã hội với một mức
độ hết sức ngắn gọn như đã nêu trên. Trong khi vai trò, vị trí và mối quan hệ
giữa ba yếu tố của tồn tại xã hội thì lại được bàn đến khi trình bày phạm trù
hình thái kinh tế - xã hội. Do chỗ xác định phương thức sản xuất là nhân tố
quyết định nên các yếu tố dân số và hoàn cảnh địa lý - điều kiện tự nhiên chỉ
được mô tả như là những điều kiện tất yếu của sản xuất và đời sống xã hội ở

21
từng thời đại lịch sử cụ thể. Cách trình bày trên đã làm rõ được vai trò của
phương thức sản xuất với các thành tố của nó trong tồn tại xã hội. Nhưng các
quan hệ, sự tác động qua lại của phương thức sản xuất với hai yếu tố còn lại
của tồn tại xã hội chưa được xem xét nhiều, do đó vai trò của từng yếu tố
chưa được đánh giá đúng mức, nhất là yếu tố dân số.

Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", khi bàn về cơ sở của sự sản xuất ra
tư tưởng, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra những luận điểm khoa học, duy
vật biện chứng về tồn tại xã hội về vai trò của nó và của các bộ phận cấu
thành nó. C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định, với cách nhìn duy vật về lịch
sử thì lịch sử bao giờ cũng có một tiền đề cụ thể, sống động: "Tiền đề xuất
phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tuỳ tiện Đó là những cá nhân
hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ,
những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động
của chính họ tạo ra Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ
nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống" [57, tr. 28 - 29]. Chỉ có
con người bằng hành vi sản xuất của mình mới làm ra lịch sử, làm thành xã
hội. Nhưng hoạt động sản xuất cơ bản đầu tiên lại là sản xuất vật chất. Do đó,
với cách nhìn duy vật về lịch sử thì :
Mỗi giai đoạn của lịch sử đều gặp một kết quả vật chất nhất định, một
tổng số nhất định, những lực lượng sản xuất, một quan hệ - được tạo ra
trong quá trình lịch sử - của những cá nhân với tự nhiên và với những
người khác, quan hệ mà mỗi thế hệ nhận được của những tiền bối của
mình, một khối những lực lượng sản xuất, những tư bản và những điều
kiện, tức là những thứ một mặt bị thế hệ mới làm biến đổi đi, song mặt
khác lại quy định cho thế hệ mới những điều kiện sinh hoạt của chính
thế hệ mới và làm cho thế hệ mới có được một sự phát triển nhất định,
một tính chất riêng biệt [57, tr.54 -55].

22
Theo chúng tôi đây chính là khái niệm về tồn tại xã hội của C. Mác và
Ph. Ăngghen.
Trên cơ sở thừa nhận và trung thành với các quan điểm cho rằng tồn tại
xã hội gồm ba yếu tố: dân số, phương thức sản xuất và hoàn cảnh địa lý - điều
kiện tự nhiên, luận án này sẽ cố gắng làm rõ hơn các quan niệm của Mác -
Ăngghen, Lênin về vai trò của dân số - dân cư, một trong ba yếu tố trên theo

quan điểm phát triển.
Rõ ràng là, theo triết học Mác, tồn tại xã hội, trước hết bao gồm những
con người. Nhưng những con người ấy, ngay từ khi xuất hiện với tư cách là
tiền đề đầu tiên của lịch sử và trong quá trình sinh sống suốt chiều dài lịch sử,
luôn luôn cần phải tổ chức lại thành những cộng đồng nhất định, tùy vào
những hoàn cảnh cụ thể của điều kiện địa lý tự nhiên và của sản xuất. Trong
bản thảo kinh tế - triết học 1844, C. Mác đã khẳng định tính tộc loại là bản
chất của con người. Tính tộc loại, theo C. Mác và Ph. Ăngghen, không chỉ
phân biệt con người với phần còn lại của tự nhiên mà còn khẳng định rõ bản
chất xã hội, bản chất cộng đồng của con người. Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng
Đức", C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ bốn nhân tố cơ bản biểu hiện hành vi
sáng tạo lịch sử của con người đó là: sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt để
duy trì sự sống; sản sinh ra những nhu cầu mới; sản sinh ra những người khác
và những quan hệ xã hội đầu tiên - gia đình; và sản xuất ra đời sống tinh thần
ý thức. Chính đời sống cộng đồng đã giúp con người thực hiện các hành vi
lịch sử nói trên, mặc dù ban đầu đời sống cộng đồng chỉ đơn giản là bản năng
sinh tồn. Dần dần, nhờ vào sự phát triển của các yếu tố bên trong cộng đồng,
mà quan trọng là sự gia tăng dân số, gia tăng nhu cầu, ý thức cộng đồng được
củng cố chặt chẽ hơn, góp phần củng cố chính các cộng đồng. C. Mác và Ph.
Ăngghen viết: "ý thức về sự tất yếu phải quan hệ với những người xung
quanh là bước đầu của ý thức về sự thật là nói chung con người sống trong xã
hội. Bước đầu đó cũng mang tính động vật như chính đời sống xã hội ở giai

×