MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hoá là sản phẩm của con người, của cộng đồng người, gắn liền với
cuộc sống của con người và sự phát triển của xã hội, được xác định bao gồm tất
cả các giá trị vật chất và tinh thần, tính cách và lối sống, truyền thống của mỗi
dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội. Nó tồn tại qua thời gian và lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, thấm sâu vào lối sống của cộng đồng dân cư và trở thành
bản sắc riêng của mỗi dân tộc, quốc gia.
Là quốc gia đa dân tộc thống nhất “nền văn hoá Việt Nam là nền văn hóa
thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái riêng.
Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt
Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc…”. Những năm gần đây, vấn đề văn hóa
nói chung và văn hóa các DTTS nói riêng được sự quan tâm nhiều của xã hội.
Nhận thức về vai trò quyết định của văn hóa đối với sự phát triển ở nước ta cũng
được nâng lên đúng với giá trị đích thực của nó. Ngay từ Nghị quyết Hội nghị
lần thứ IV của Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã khẳng định: Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát
triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa
người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa là một động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, vừa là một trong những mục tiêu của chúng ta. Nhằm
bổ sung và hòan thiện tư tưởng được nêu trong Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa
VIII, Đảng ta đã đề ra chính sách văn hóa trong kinh tế “Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển trở thành vấn đề được quan tâm,
nhận thức và vận dụng vào thực tiễn đổi mới ở nước ta. Cùng với phát triển kinh
tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, Đảng ta nhấn mạnh phát triển văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Xét về mặt lý luận, kinh tế - xã hội phát
triển, đời sống của người dân được nâng cao đó là tiền đề, điều kiện cho phát
triển văn hóa, đồng thời hoạt động văn hóa lại có tác động trở lại để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Để phát huy có hiệu quả hơn vai
trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội và xử lý đúng đắn sự tác động
qua lại giữa kinh tế và văn hóa, Đảng ta trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội X,
XI chỉ rõ phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn nữa giữa văn hóa và kinh tế.
1
Trong tính đa dạng thống nhất của nền văn hóa Việt Nam, văn hóa bản địa
các DTTS ở Lâm Đồng do những đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội
và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau, mang những nét đặc trưng riêng có,
những đặc điểm khác biệt. Những yếu tố văn hóa đặc trưng của các tộc người
bản địa trở thành những tiềm năng đặc biệt, những nguồn tài nguyên quan trọng
cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở Lâm Đồng. Đặc biệt là tiềm năng kinh tế, du
lịch từ nguồn tài nguyên văn hóa bản địa. Đó là niềm tự hào của các tộc người
bản địa ở Nam Tây Nguyên cần được các nhà khoa học nghiên cứu để phát huy,
phát triển.
Xuất phát từ tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển, để đánh giá
đúng vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số Lâm đồng đối với sự phát triển
kinh tế- xã hội của tỉnh, phát hiện ra những xu hướng biến đổi và đưa ra những
giải pháp thích hợp, tích cực cho việc bảo tồn và phát huy vai trò của văn hóa bản
địa các dân tộc thiểu số, biến các giá trị văn hóa của các dân tộc bản địa Lâm
Đồng thành tài sản văn hóa góp phần phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương, học viên đã chọn đề tài “Phát huy vai trò văn hóa bản địa đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, vấn đề văn hóa đã có nhiều học
giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh và góc độ khác nhau. Sau đây là
một số công trình, bài viết cơ bản về văn hóa, văn hóa tộc người.
Những nghiên cứu về văn hóa nói chung có các công trình: “Văn hóa và
đổi mới” (Nxb Chính trị quốc gia. H, 1994) của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng,
trong đó tác giả đề cập đến văn hóa một cách có hệ thống, công trình đã nêu lên
mối quan hệ giữa văn hóa và đổi mới. “Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hóa
Việt Nam” (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989) của GS.TS Đỗ Huy, PGS.
Trường Lưu. “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2001) của GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn - TS. Phạm
Văn Đức - TS. Hồ Sĩ Quý, Nxb Chính trị quốc gia; Chương trình Khoa học -
Công nghệ cấp nhà nước mã số KX-05 “Phát triển văn hoá, con người và
nguồn nhân lực trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá” giai đoạn 2001-
2005, do GS,VS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm gồm 12 đề tài. Các công trình
này đã tập trung làm rõ 3 chủ đề lớn đó là: Văn hoá và văn hoá Việt Nam đầu
TK XXI; con người và con người Việt Nam đầu TK XXI; phát triển nguồn nhân
lực và nguồn nhân lực Việt Nam đầu TK XXI. Trong đó đáng chú ý là những
phương pháp tiếp cận mới và những kết quả mới nhất trong nghiên cứu về con
người, nguồn lực con người, đời sống văn hoá và xu hướng phát triển văn hoá ở
2
các vùng miền khác nhau, về quan hệ nhân quả phức tạp giữa văn hoá - con
người - nguồn nhân lực.
Ngoài ra còn phải kể đến một số công trình khác như: “Văn hóa các dân tộc
Việt Nam thống nhất mà đa dạng” (2002), (Nông Quốc Chấn - Huỳnh Khái
Vinh, Nxb Chính trị quốc gia; Phạm Minh Hạc với tác phẩm “Phát triển văn
hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp với tinh hóa nhân loại” (1996),
Nxb Khoa học Xã hội; “Sáng tạo và bảo tồn giá trị văn hóa, văn nghệ các dân
tộc thiểu số Việt Nam” (1998), của Hội Văn học - Nghệ thuật các dân tộc thiểu
số Việt Nam, in tại trường Trung học Kỹ thuận In, Hà Nội.
Nhìn chung, các công trình này nghiên cứu văn hóa dưới góc độ chung và
đã đạt được những thành công to lớn trong việc nghiên cứu khái niệm, cấu trúc,
giá trị, và hình thức biểu hiện của văn hóa.
Các công trình, bài viết về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển, về vai
trò của văn hóa trong nền kinh tế thị trường có: Trần Ngọc Hiên, "Văn hóa và
phát triển - từ góc nhìn Việt Nam", Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, (1993);
Phạm Văn Đồng, "Văn hóa và đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
(1994); Phạm Xuân Nam, "Văn hóa vì sự phát triển", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, (1998). Hồ Sĩ Vịnh, "Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, (1999).
Những nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số và các DTTS ở Tây
Nguyên có các công trình: “Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong
cuộc sống hôm nay”, Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số
7/2000. Đề tài: “Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
ở Gia Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003 của Đỗ Văn Hòa.
Những nghiên cứu về văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng có:
“Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng”(1986) do Mạc Đường chủ biên, Sở văn hóa
tỉnh Lâm Đồng xuất bản; “Người Chu Ru ở Lâm Đồng” (2009) do TS Hoàng
Sơn chủ biên, nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc.
Trong khuôn khổ Chương trình nghiên cứu về khoa học xã hội - nhân văn
1996 của tỉnh Lâm Đồng, Trung tâm Phát triển Kinh tế - Văn hóa - Xã hội (Đại
học Đà Lạt) đã tiến hành triển khai đề tài "Văn hóa truyền thống Cơ ho, Mạ", do
Cao Thế Trình (chủ nhiệm), đề tài thuộc Sở KHCN & MT Lâm Đồng. Đề tài
này gộp hai dân tộc Mạ và K’Ho để nghiên cứu; trọng tâm nghiên cứu là các
đặc điểm văn hoá truyền thống nên các tác giả coi trọng cả tư liệu cũ, càng xưa
càng tốt; có nghiên cứu tổ chức gia đình - dòng họ - buôn (bon) làng theo quan
niệm đó là văn hoá xã hội - văn hoá tổ chức cộng đồng…
3
Vấn đề văn hóa còn được nhiều tác giả nghiên cứu tiếp cận dưới các góc độ
khác nhau được thể hiện trong các bài viết đã đăng trên các tạp chí như: “Giữ
gìn và phát huy giá trị văn hoá Tây Nguyên trong quá trình xây dựng đời sống
văn hoá tinh thần ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số”, Trương Minh Dục -
Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 1/2003; “Văn hoá các tộc người Tây Nguyên -
Thành tựu và thực trạng” Tô Ngọc Thanh - Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số
1/2003…
Những công trình khoa học, sách báo, tạp chí nêu trên đã khẳng định tầm
quan trọng của việc bảo tồn những giá trị, những di sản văn hóa nói chung và
văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số nói riêng trong công cuộc đổi mới. Tuy
nhiên cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về phát huy vai trò
văn hóa bản địa các dân tộc thiếu số Lâm Đồng đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của văn hóa
và thực trạng phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lâm Đồng, luận văn dự báo xu hướng biến
đổi và đề xuất những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò văn hóa bản địa
các dân tộc thiếu số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong công
cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm Đồng.
- Làm rõ thực trạng phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm Đồng và những vẫn đề đặt ra.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân
tộc thiểu số thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm đồng trong công
cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: “Vai trò văn hóa bản địa đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay”.
* Phạm vi nghiên cứu:
Văn hóa là một lĩnh vực hết sức rộng lớn, đa dạng và phong phú, đề tài
nghiên cứu, làm rõ vai trò của văn hóa bản địa Lâm Đồng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội những không đi vào nghiên cứu toàn bộ các vấn đề thuộc về văn
4
hóa bản địa, mà chỉ tập trung ở vai trò của văn hoá bản địa các DTTS ở Lâm
Đồng trên các phương diện: phương thức sinh hoạt - kinh tế, kiến trúc, tri thức
bản địa, nghề truyền thống, ý thức cộng đồng, thiết chế xã hội, luật tục, lễ hội,
tín ngưỡng và tôn giáo, nhằm kế thừa, bảo tồn và phát huy nó.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận và thực tiến của đề tài:
Việc nghiên cứu và trình bày của luận văn dựa trên cơ sở lý luận và các
nguyên tắc phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề tài.
Tham khảo một số công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố, có
nội dung liên quan tới vấn đề mà luận văn đề cập.
Đề tài được tiếp cận theo quan điểm lịch sử cụ thể và phương pháp cấu trúc
hệ thống về văn hóa và vai trò của văn hóa bản địa đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội. Nghiên cứu vốn văn hoá nền cùng với những tập quán sản xuất, sinh
hoạt cộng đồng của đồng bào các tộc người bản địa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết
hợp nhuần nhuyễn các phương pháp: Điều tra; lịch sử và lôgíc; phân tích và
tổng hợp; quy nạp và diễn dịch;… nhằm đạt tới mục đích đề tài đã đề ra.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tương đối rõ ràng cơ sở lý luận về văn hóa và
vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
ở tỉnh Lâm Đồng”.
- Làm rõ thực trạng phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số đối
với sự phát triển kinh - xã hội của tỉnh Lâm Đồng và chỉ rõ được những vấn đề đặt
ra đối với văn hóa trước sự tác động của xu hướng mở cửa, hội nhập quốc tế.
- Đưa ra những dự báo về xu hướng biến đổi của văn hóa bản địa và đề xuất
một số giải pháp phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số đối với sự
phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Lâm đồng trong giai đoạn hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
Luận văn góp phần củng cố nhận thức lý luận về văn hóa, vai trò văn hóa
bản địa các dân tộc thiếu số Lâm Đồng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, từ
đó góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh
tế, hình thành nên ở mỗi người thái độ đúng đắn, hợp quy luật trong việc giữ
gìn, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa nói chung và văn hóa bản địa các dân
tộc thiểu số nói riêng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Luận văn còn có thể sử
5
dụng vào việc nghiên cứu những vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở các tỉnh
Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 3 chương 8 tiết:
Chương 1: Vai trò của văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số ở tỉnh Lâm
Đồng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội - cơ sở lý luận.
Chương 2: Vai trò của văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng
đối với phát triển kinh tế - xã hội - thực trạng và vấn đề đặt ra.
Chương 3: Xu hướng biến đổi và giải pháp phát huy vai trò văn hóa bản
địa các dân tộc thiểu số đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lâm Đồng
trong giai đoạn hiện nay.
6
Chương 1
VAI TRÒ CỦA VĂN HOÁ BẢN ĐỊA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TỈNH LÂM ĐỒNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI - CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Quan niệm về văn hóa
Văn hóa, là thuật ngữ đa nghĩa, thường được xem xét từ nhiều khía cạnh
khác nhau. Cho đế nay người ta đã thống kê có hơn 400 định nghĩa về văn hóa.
Điều đó có nghĩa là sự xác định khái niệm văn hóa không đơn giản bởi mỗi học
giả đều xuất phát từ những cứ liệu riêng, góc độ riêng, mục đích riêng phù hợp
với vấn đề mình cần nghiên cứu.
Trong lịch sử, khái niệm văn hóa xuất hiện rất sớm ở cả phương Đông cũng
như ở phương Tây. Ở phương Đông, trong thời kỳ Cổ đại ở Trung Quốc, văn
hóa được hiểu là cách thức điều hành xã hội của tầng lớp thống trị dùng “văn
hóa” và “giáo hóa”, dùng cái hay, cái đẹp để giáo dục và cảm hóa con người. Ở
nước ta gần 600 năm trước, Nguyễn Trãi cũng đã mơ ước một xã hội văn trị, lấy
nền tảng văn hiến cao, lấy trình độ học vấn và trình độ tu thân của mỗi người
làm cơ sở cho sự phát triển hài hòa của xã hội.
Ở phương Tây, từ văn hóa bắt nguồn từ tiếng La tinh, (Cullture) nghĩa là cày
cấy, vun trồng - gắn liền với hoạt động nông nghiệp. Sau này, nội dung đó phát
triển thành ý nghĩa hoạt động vun trồng, bù đắp tinh thần của con người, gắn chặt
với lao động sáng tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người.
Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học
thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để
chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa
bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong
tục, lối sống, lao động
Quan niệm văn hóa của Hồ Ch Minh là một cách tiếp cận văn hóa từ ý
nghĩa khái quát, đặc trưng nhất của nó, một định nghĩa cô đọng và chính xác về
văn hóa. Hồ Chí Minh xuất phát từ cách tiếp cận mác - xít nhưng lại gần gũi với
nhận thức hiện đại, đã toát lên cái nhìn vừa toàn diện, vừa sâu sắc về nguồn gốc lịch
sử của văn hóa, về phạm vi rộng lớn của văn hóa, về mặt biểu hiện của văn hóa trong
đời sống và toàn bộ sinh hoạt của con người.
Như vậy, văn hóa bao gồm cả lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần thể hiện năng lực sáng tạo độc đáo, riêng biệt của mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc trong qúa trình vận động và phát triển của mình. Đó là tổng thể sống động
7
các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và hiện
tại. Qua các thế hệ, hoạt động sang tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị,
các truyền thống và thị hiếu- những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân
tộc, với các biểu hiện chính là: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Văn hóa là sự
phát triển năng lực của con người trong quá trình không ngừng nâng cao trình
độ làm chủ của mình đối với tự nhiên, xã hội và bản thân, nhằm thỏa mãn nhu
cầu về tinh thần và vật chất trong hoạt động thực tiễn hướng tới các giá trị nhân
văn. Chính lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh điều đó. Trên
hành tinh này không có gì quý hơn con người. Con người vừa là chủ thể, vừa là
sản phẩm của văn hóa. Điều đó được phản ánh rõ nét qua những đặc trưng và
chức năng của văn hóa, gồm:
- Một là, văn hóa có tính hệ thống. Nhờ có tính hệ thống chúng ta hiểu được
văn hóa không phải là tập hợp, là phép cộng đơn thuần những hiện tượng văn
hóa mà văn hóa tồn tại với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của
xã hội, thực hiện được ch?c năng tổ ch?c xA hội. Chính văn hóa làm tăng độ ổn
định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để đối phó với
môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
- Hai là, văn hóa có tính giá trị, nhưng là những giá trị kết tinh lao động sáng
tạo của con người trên các bình diện hoạt động nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã
hội và cải tạo chính bản thân mình, hướng tới chân, thiện, mỹ. Nghĩa là hướng tới
sự tốt đẹp, nhân văn và không ngừng hoàn thiện của nhân loại. Nói đến văn hóa
không chỉ là nói đến những giá trị tĩnh, kết tinh ngưng đọng, mà còn là sự vận
động, phát triển và hoàn thiện những giá trị ấy trong thời gian và không gian. Tính
giá trị của văn hóa là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Tính giá
trị là đặc trưng quan trọng và cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. Nhờ vào đặc
trưng giá trị, theo mục đích chúng ta có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho
nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần).
- Ba là, hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ,
nên văn hóa có tính lịch sử. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều
sâu và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại
và phân bố lại các giá trị.
Như vậy, văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi
mặt của cuộc sống (cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như
trong hiện đại. Do vậy, theo quan niệm chung, khái niệm văn hóa có thể được
định nghĩa như sau: “Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần, được
hình thành, lưu truyền và phát triển qua quá trình hoạt động thực tiễn của con
người, cộng đồng người trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội”.
8
1.1.2. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Khẳng định, văn hóa là hệ thống các giá trị, các truyền thống, các thị hiếu
và lối sống được các cộng đồng người sáng tạo nên qua lịch sử phát triển hàng
thế k•, dựa vào đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình, thì rõ ràng
văn hóa không hề đứng ngoài mà ngược lại nằm ở trong, là “nguồn lực nội sinh
quan trọng nhất” của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, biểu hiện ở vai trò
của tất cả các yếu tố cấu thành văn hóa: khoa học, giáo dục - đào tạo, đạo đức xã
hội, thiết chế xã hội, phong tục, tín ngưỡng, tri thức… và những kinh nghiệm
được tích lũy trong quá trình lao động sản xuất. Tất cả những yếu tố đó, có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa, ngay từ khi mới ra đời Đảng
ta đã quan niệm: văn hóa có khả năng to lớn góp phần giải phóng dân tộc, giải
phóng con người, cải tạo xã hội. Hiểu rõ biết đọc, biết viết là tiền đề của văn
hóa, là ngưỡng cửa bước vào văn hóa của một dân tộc trước kia bị nô dịch, bị
kìm kẹp trong chính sách ngu dân, nên ngay sau khi Cách mạng tháng 8/1945
thành công Đảng ta và Bác Hồ đã nêu cao khẩu hiệu 3 chống; chống giặc đói,
chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm.
Như vậy, văn hóa không thể thiếu vắng trong động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
1.2. Vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số Lâm Đồng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh
Nếu như văn hóa dân tộc là cội nguồn của nội lực quốc gia và nó gắn bó
mật thiết với cuộc sống của con người, có vai trò rất quan trọng trong việc
quyết định tính dân tộc cũng như góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội, thì văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số Lâm Đồng là một bộ phận
và là nét đặc trưng trong văn hóa Việt, nó không chỉ góp phần tạo nên tính
đa dạng phong phú cho bản sắc văn hóa Việt mà còn có vai trò hết sức quan
trọng. Vì trình độ nhận thức, thưởng thức văn hóa, giữ gìn, phát huy vai trò văn
hóa của các tộc người bản địa không chỉ ảnh hưởng đến địa phương nơi họ cư
trú mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ công cuộc xây dựng đất nước trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở đây đề tài dùng từ “bản địa” là để chỉ bộ phận
cư dân gốc, những cư dân đã cư trú lâu đời trên xứ sở này, và hệ thống giá trị
văn hóa của các cư dân đó, bao gồm cư dân của các tộc người: K’Ho, Churu,
Mạ, Mnông.
9
1.2.1. Văn hóa vật chất và vai trò của nó
Để thích nghi với điều kiện môi trường sống, đặc biệt là núi rừng trùng
điệp, sự chia cắt khắc nghiệt và với một số dân ít ỏi, thưa thớt, văn hoá vật chất
của đồng bào các DTTS bản địa Lâm Đồng có những nét độc đáo riêng biệt.
1.2.2. Văn hóa tinh thần và vai trò của nó
Đơn vị tổ chức xã hội cao nhất mà người các tộc người bản địa Lâm Đồng
đã đạt đến là Buôn (Bon). Đó vừa là một đơn vị tổ chức xã hội duy nhất, cao
nhất mang tính chất xã hội tương đối hoàn chỉnh, tương đối độc lập và tách biệt
khép kín về khu vực canh tác, vừa là một đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc của. Buôn
của đồng bào bản địa là làng truyền thống theo kiểu một công xã nông thôn, vận
hành độc lập với những tập tục bình đẳng, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, giữ
lại cho họ những phẩm chất tốt đẹp luôn có nguy cơ bị "hoang dã hóa".
1.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của văn hóa bản địa các dân tộc
thiểu số Lâm Đồng
Công cuộc đổi mới đất nước được Đảng ta đề ra và lãnh xướng từ Đại hội
VI (1986) đến nay một mặt đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, đời sống của người dân ngày càng được nâng lên cả về vật chất lẫn tinh
thần, nhưng mặt khác đổi mới, mở cửa, hội nhập cũng ảnh hưởng đến mọi mặt
của đời sống xã hội trong đó có văn hóa. Là một bộ phận của văn hóa Việt, văn
hóa các dân tộc bản địa Lâm Đồng cũng đang chịu sự tác động của nhiều yếu tố,
biểu hiện:
+ Sự tác động của cơ chế thị trường.
+ Tác động của những âm mưu lợi dụng tôn giáo để hủy hoại truyền thống
tốt đẹp của nền văn hoá bản địa:
+ Tác động của khoa học - công nghệ và hội nhập quốc tế.
Tóm lại: Hình thành trên nền tảng kinh tế là nền nông nghiệp nương rẫy,
văn hóa bản địa các DTTS ở Lâm Đồng, thấm nhuần trong mỗi con người và cả
cộng đồng, được lưu giữ, chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy qua các thế
hệ… trở thành nền tảng tinh thần của mỗi con người, của cộng đồng dân tộc và
xã hội. Vai trò nền tảng tinh thần chính là sức mạnh tiềm ẩn của dân tộc, được
biểu hiện ở tính dân tộc, tình cảm, thể chế và thiết chế văn hoá, tập tục dân tộc
hình thành trên cơ sở của những điều kiện địa lý nhất định và những quan hệ
những kinh nghiệm chung của cộng đồng, là ý thức về bảo vệ lợi ích dân tộc với
một phương thức sản xuất, phương thức tư duy phù hợp, là sự chấp nhận và
thực hiện theo những quan điểm, nguyên tắc của cộng đồng, dân tộc được hình
thành trong quá trình sinh tồn của các tộc người bản địa.
10
Chương 2
VAI TRÒ CỦA VĂN HOÁ BẢN ĐỊA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỈNH LÂM ĐỒNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
- THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên - xã hội Lâm Đồng có liên quan
đến vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số của tỉnh
2.1.1. Khái quát về điều kiện địa lý tự nhiên
Văn hóa chịu sự chi phối đáng kể của hoàn cảnh địa lý - khí hậu. Do đó
nói đến điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến văn hóa bản đại Lâm Đồng phải
nói đến vị trí địa lý và đặc điểm vùng lãnh thổ cư trú của họ. Chính địa bàn
cư trú đó có những điều kiện thuận lợi và khó khăn riêng cho quá trình tiếp
xúc, giao lưu kinh tế - xã hội tộc người và cho sự phát triển kinh tế- xã hội
của chính các tộc người bản địa đó đặc biệt là liên quan đến sự hình thành
và phát triển nền văn hóa của họ.
- Vị trí địa lý, địa giới hành chính
- Đặc điểm địa lý - tự nhiên
2.1.2. Dân cư và phân bố dân cư
Nhìn chung các dân tộc bản địa Lâm Đồng có những đặc điểm sau:
Về dân số: Cũng như dân số toàn tỉnh, dân số của mỗi tộc người cũng như
t• lệ tăng dân số rất thấp, mặc dù t• suất sinh cao, nhưng t• suất chết thô cũng
rất cao, trong khi tuổi thọ trung bình lại thấp do nhiều nguyên nhân.
Về trình độ sản xuất: Các dân tộc thiểu số bản địa ở Lâm Đồng tuy thuộc
hai ngữ hệ khác nhau, nhưng là những tộc người đã sớm lựa chọn mảnh đất
Nam Tây Nguyên làm nơi cư trú nên trong quá trình sinh tồn giữa họ không chỉ
có sự cận cư mà còn thường xuyên có sự giao lưu, trao đổi văn hóa với nhau, do
vậy có nhiều nét tương đồng, nhất là trình độ kỹ thuật và trình độ sản xuất thì
đều ở mức khá thấp. Đặc biệt là về kinh tế, ngoài một bộ phận nhỏ đồng bào các
dân tộc thiểu số bản địa sinh tồn ở những vùng đất trũng hoặc tương đối bàng
phẳng và thuận lợi có làm ruộng nước thì phần lớn còn lại sống chủ yếu nhờ vào
việc đốt nương làm rẫy và hái các sản phẩm từ rừng. Nhu cầu dinh dưỡng hàng
ngày của họ được đáp ứng từ cây lương thực và thực phẩm do họ trồng trong
rẫy của mình, còn thức ăn động vật chủ yếu là săn bắt. Đó là những động vật săn
được theo mùa và những động vật được đánh bắt từ sông suối tự nhiên và có
những động vật do họ thuần dưỡng và nuôi song không nhiều.
Về cơ cấu xã hội: tồn tại, vận động trong mối quan hệ hài hoà với tự nhiên
và còn lệ thuộc vào tự nhiên, nên cơ cấu xã hội đồng bào các dân tộc thiểu số
11
bản địa Lâm Đồng cũng phản ánh khá rõ quan hệ nói trên. Tổ chức xã hội cao
nhất của các tộc người bản địa ở Lâm Đồng là buôn (làng), nhưng làng ở đây
cũng mang nặng tính tự quản và tương trợ, bởi thực chất làng là sự mở rộng của
một số gia đình, dòng họ nhằm nâng cao sức mạnh của con người để tồn tại hơn
là một đơn vị hành chính.
2.2. Thực trạng phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Lâm Đồng
Phát huy vai trò văn hóa bản địa đối với sự phát triển kinh tế - chính trị xã
hội ở Lâm Đồng là phát huy nguồn lực trí tuệ, tri thức kinh nghiệm trong sản
xuất, quản lý xã hội, phát huy vai trò nghề truyền thống và những yếu tố văn
hóa, những giá trị văn hóa truyền thống vẫn đang có vai trò, vị trí và tác dụng
đối với đời sống xã hội của các DTTS bản địa ở Lâm Đồng hiện nay.
2.2.1. Thực trạng phát huy vai trò tích cực của văn hóa bản địa đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Lâm Đồng và nguyên nhân
Phát huy vai trò văn hoá bản địa đối với sự phát triển kinh tế.
Như vậy, cùng với sự vận động phát triển không ngừng của xã hội, trên nền
tảng phương thức sản xuất truyền thống, những tri thức, những kinh nghiệm
được tích lũy qua các thế hệ được phát huy, góp phần tích cực vào việc chuyển
dịch trong sản xuất. Điều này dễ dàng nhận thấy trong việc lựa chọn các loại
hình kinh tế ở các tộc người bản địa Lâm Đồng hiện nay. Sự lựa chọn tạo nên
sức mạnh thúc đẩy nhanh sự phát triển đưa các dân tộc bản địa Lâm Đồng dần
thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu, nâng cao đời sống mọi mặt cho đồng bào, rút
ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc, góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế. Các loại hình kinh tế được đồng bào lựa chọn phổ biến hiện nay là:
- Sản xuất nông nghiệp, hướng vào hai loại hình cơ bản là nông nghiệp sinh
thái và nông nghiệp công nghệ cao.
- Sản xuất lâm nghiệp: đang chuyển dịch theo hướng giảm khai thác, tăng
cường quản lý bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, trồng rừng kinh tế, trong 5 năm
(2006- 2010) ở Lâm Đồng đã có 11.814 hộ đồng bào dân tộc thiểu số nhận quản
lý bảo vệ rừng.
- Du lịch văn hóa và du lịch sinh thái là một sự lựa chọn phù hợp bởi, Lâm
Đồng là tỉnh có nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ, đặc biệt là sự hùng vỹ và
hoang dại của những thác nước, những đỉnh đồi gắn liền với nhiều sự tích của
các tộc người bản địa và khí hậu mát mẻ cùng với điểm nhấn là những giá trị
văn hóa bản địa mang đặc trưng riêng đang vươn mình lan tỏa trong một môi
trường mới. Ngay cả những khu vực vùng sâu, vùng xa làm du lịch sinh thái và
du lịch văn hóa cũng không còn xa lạ với đồng bào các DTTS bản địa Lâm
Đồng.
12
Vai trò của văn hóa bản địa trong việc xây dựng những chuẩn mực ứng xử,
những giá trị thinh thần tốt đẹp trong đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Văn hóa bản địa với sự ổn định và phát triển xã hội ở Lâm Đồng.
Vai trò của lễ hội trong xây dựng lối sống mới hiện nay.
Vai trò ý thức cộng đồng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
+ Nguyên nhân đạt được những kết quả trên.
Sở dĩ, văn hóa bản địa Lâm Đồng đã góp phần quan trọng không nhỏ đến
sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở Lâm Đồng là bởi các nguyên nhân cơ
bản sau:
Thứ nhất: Văn hóa bản địa Lâm Đồng là nền văn hóa có nhiều giá trị văn
hóa tích cực được kết tinh từ đời này qua đời khác và được khai thác, phát huy
vai trò tích cực trong suốt quá trình sinh tồn của các tộc người bản địa qua bao
đời nay.
Thứ hai: Sự nỗ lực của người dân các tộc người bản địa Lâm Đồng trong
việc chinh phục, khai thác thiên nhiên hùng vỹ và nỗ lực vươn lên khẳng định
mình trước tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội.
Thứ ba: Nhờ sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước, sự quan tâm của cả cộng
đồng, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh đã từng ngày khởi sắc.
Các dự án, chương trình hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số đã phát huy hiệu quả
mang lại những thay đổi lớn ở vùng sâu, vùng xa của Lâm Đồng.
2.2.2. Tác động tiêu cực của “văn hoá bản địa” các dân tộc thiểu số tỉnh
Lâm Đồng và nguyên nhân
Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển không thuần tuý một chiều là thúc
đẩy, tạo động lực, mà còn là nhân tố cản trở, níu kéo, kìm hãm sự phát triển. Cùng
một nhân tố văn hoá, truyền thống hay bản sắc, nhưng nó có thể tác động đến xã
hội theo cả hai chiều hướng khác nhau vừa tích cực, vừa tiêu cực. Nếu trong quá
trình chống lại thú dữ, khắc phục thiên tai, chống ngoại xâm, tính cố kết cộng
đồng là chất kết dính, tạo nên sức mạnh cộng đồng giúp cộng đồng vượt qua
những thử thách nhất định thì trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong nền
kinh tế thị trường, nó lại là lực cản trong việc phát huy sức sáng tạo, bứt phá của
cá nhân. Do vậy, văn hóa bản địa các DTTS Lâm Đồng vừa phát huy vai trò tích
cực, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển, nhưng mặt khác cũng có những “yếu tố
văn hóa” - thực ra là những phong tục, tập quán lạc hậu, đang là lực cản kìm
hãm sự phát triển kinh tế - xã hội ở Lâm Đồng hiện nay. Sự cản trở, níu kéo, kìm
hãm của văn hóa đến sự phát triển của kinh tế xã hội biểu hiện ở: Sự lạc hậu của
13
phương thức sinh hoạt kinh tế truyền thống so với sự phát triển của xã hội hiện
nay.
* Nguyên nhân của những biểu hiện trên.
+ Do sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế và phương thức canh tác.
+ Cuộc sống của đồng bào các dân tộc bản địa Lâm Đồng trước đây, sinh
tồn dựa vào tự nhiên là chủ yếu, trồng trọt, chăn nuôi đều chỉ chờ vào trời.
+ Cũng như nhiều tỉnh thành khác, để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Lâm Đồng thời gian qua có những khu vực dân cư nằm trong khu quy
hoạch xây dựng thủy điện - thủy lợi, do vậy, cần phải tái định cư. Đối với các
tộc người bản địa Lâm Đồng, những nơi cư trú, canh tác… của họ đều do chính
họ lựa chọn, họ đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm, nhiều tri thức cần thiết để
mưu sinh và ổn định cuộc sống, đồng thời họ còn thiết lập nên tổ chức xã hội
của mình và những niềm tin tôn giáo giúp họ đủ sức chống lại sự xâm nhập của
các yếu tố văn hóa ngoại lai không tương thích.
+ Có thời điểm Nhà nước ta đã dành ra nhiều nỗ lực để tạo ra những thay
đổi xã hội, nhiều phong tục tập quán được cho là không phù hợp và bị loại bỏ.
Việc hạn chế các tín ngưỡng truyền thống, phê phán những loại hình nương rẫy
du canh là những ví dụ điển hình cho sự áp đặt của người kinh từ miền xuôi lên
miền núi. Sự áp đặt của văn hóa người kinh ở miên xuôi lên miền núi đã phá vỡ
các cơ cấu truyền thống, tạo nên sự bất bình đẳng trong văn hóa, tác động đến
sự ổn định và phát triển của xã hội.
+ Sống trong môi trường cộng đồng, được giáo dục theo khuôn phép cộng
đồng, được trang bị những kiến thức và chuẩn mực cộng đồng, vì thế phần lớn
đồng bào các DTTS bản địa Lâm Đồng am hiểu luật tục nhiều hơn pháp luật
Nhà nước. Nhất là với một hệ thống pháp luật được mang đến từ bên ngoài,
được truyền đạt bằng ngôn ngữ xa lạ, nên họ thường có sự hiểu biết không đầy
đủ.
+ Phong tục, tập quán, lối sống của đồng bào đã tồn tại qua bao đời nay, đã
ăn sâu vào tiềm thức của họ sẽ không dễ dàng thay đổi một sớm một chiều.
2.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò văn hóa bản địa
các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng trong thời kỳ đổi mới, hội nhập
Văn hóa dân tộc là sức sống bên trong, là động lực, là mục tiêu cho sự
trường tồn, phát triển của dân tộc. Do vậy, để thúc đẩy sự phát triển, đáp ứng
nhu cầu phát triển của xã hội, việc bảo tồn các giá trị văn hóa, đấu tranh chống
sự lợi dụng văn hóa vì mục đích chính trị là những vấn đề đặt ra trong thời kỳ
đổi mới hội nhập hiện nay.
14
2.3.1. Bảo tồn những giá trị văn hoá bản địa với việc tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại nhưng vẫn giữ vững được bản sắc
2.3.2. Bảo tồn những giá trị văn hóa bản địa trước yêu cầu của đổi mới vì
sự phát triển
2.3.3. Đấu tranh chống lợi dụng văn hóa chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc
15
Chương 3
XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ VĂN HOÁ
BẢN ĐỊA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI CỦA TỈNH LÂM ĐỒNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Xu hướng biến đổi của văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số Lâm Đồng
trước sự tác động của quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế
Trước sự tác động của quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế, việc dự báo xu
hướng biến đổi của văn hóa là cần thiết và quan trọng nhằm xác định được giá
trị của văn hóa trong tương lai để duy trì, bảo tồn, phát huy, phát triển có hiệu
quả giá trị văn hóa thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, văn hóa bản
địa các DTTS bản địa Lâm Đồng biến đổi theo các xu hướng cơ bản sau:
3.1.1. Xu hướng giao lưu và ảnh hưởng văn hóa
Giao lưu văn hoá là một quy luật góp phần hiểu biết giữa các dân tộc, các
nền văn hoá, góp phần làm đẹp thêm các dòng chảy văn hoá dân tộc. Với nước
ta giao lưa văn hóa không phải chưa từng diễn ra, tuy nhiên đối với Lâm Đồng
một tỉnh miền núi, địa hình hiểm trở, nằm gọn trong lòng đất nước không có
đường biên giới, thì đây là một trong những xu hướng lớn của thời gian tới, với
quy mô, cường độ giao lưu và ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ hơn trước nhiều.
Điều này sẽ làm phá vỡ tính khép kín vốn tồn tại từ bao đời nay của văn hóa bản
địa Lâm Đồng, đồng thời cũng tạo nên những áp lực không nhỏ.
3.1.2. Xu hướng phủ nhận truyền thống
Do điều kiện sống của phần lớn đồng bào các dân tộc bản địa Lâm Đồng
còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa nên sự giao lưu
vì thế cũng có những ảnh hưởng. Tuy dưới sự lãnh đạo, quan tâm của Đảng và
nhà nước ta, đời sống đồng bảo các dân tộc bản địa Lâm Đồng so với trước đã
được nâng lên về mọi mặt, song nhìn chung vẫn còn thấp. Do vậy, trước sự xâm
thực của văn hóa ngoại lai, sự tác động của kinh tế thị trường mơ cửa, văn hóa
bản địa Lâm Đồng chưa đủ mạnh để tự thân bảo vệ và phát triển. Đó là xu
hướng biến đổi văn hóa truyền thống và chủ nhẩn của nó tự đánh mất một phần
hoặc toàn bộ các yếu tố văn hóa trên một lĩnh vực của đời sống xã hội.
3.1.3. Xu hướng phục hồi và làm phong phú văn hóa truyền thống
Với nhân dân các dân tộc bản địa Lâm Đồng xu hướng này chưa thực sự là
tự ý thức, là một nhu cầu tự thân, mà chủ yếu mới là áp lực từ bên ngoài, từ
những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là sau khi có Nghị
quyết Trung ương 5, khóa VIII về "xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc" và sau đó là hàng loạt các cuộc vận động, các dự án
16
nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống. Đây là một chính sách
văn hóa vừa phù hợp với xu thế thời đại, vừa hợp với nguyện vọng của nhân dân
nước ta nói chung và đồng bào các tộc người bản địa Lâm Đồng nói riêng.
3.1.4 . Xu hướng tồn tại đan xen giữa văn hóa truyền thống và hiện đại
Tồn tại đan xen giữa xu hướng truyền thống và điện đại là xu hướng chung,
tuy nhiên với đồng bào bản địa ở Lâm Đông thi đây là vấn để cần đặc biệt quan
tâm. Xu hướng này vừa mang tính đan xen có khi gò ép, vừa mang tính xâm
thực có khi thống nhất với nhau. Đồng bào bản địa Lâm Đồng vốn khép mình
trong nền sản xuất tự cung tự cấp, phụ thuộc vào tự nhiên là chính nên khi tiếp
cận với nền kinh tế thị trường phát triển họ chưa kịp tự bảo vệ mình thì đã bị tổn
thương và ngộ nhận. Hơn nữa, những năm qua tình trạng di dân ồ ạt diễn ra đã
phá vỡ không gian tương đối thuần nhất của các dân tộc bản địa Lâm Đồng đã
thúc đẩy nhanh quá trình giao lưu, đồng hóa văn hóa giữa các tộc người, nhất là
giữa người Kinh với các dân tộc thiểu số, dẫn tới tình trạng “nhiễu loạn”, trong
biến đổi văn hóa.
3.1.5. Xu hướng đồng hóa tự nhiên về văn hóa
Đồng hóa tự nhiên là một quá trình tiếp xúc, giao lưu ảnh hưởng văn hóa tự
nhiên giữa các tộc người, thường là giữa các tộc người có dân số lớn, trình độ
phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa cao hơn các tộc người hay nhóm nhỏ tộc
người láng giềng, dẫn đến tình trạng các tộc người hay các nhóm nhỏ tộc người
đó tiếp thu văn hóa của tộc người có trình độ phát triển cao hơn, thậm chí các
tộc người nhỏ ấy có thể bị đồng hóa một phần hay hoàn toàn vào các tộc người
lớn hơn và tự coi mình là thành viên của tộc người ấy. Ở Lâm Đồng hiện nay đã
và đang diễn ra hai quá trình đồng hóa tự nhiên là:
Th? nhất: Đồng hóa về văn hóa giữa các tộc người thiểu số bạn địa mà chủ
yếu là giữa các nhóm địa phương của các tộc người đã có quá trình sinh tồn giáp
ranh lẫn nhau. Tuy nhiên quá trình này chỉ diễn ra giữa các nhóm bản địa vốn
trình độ phát triển không chênh lệch nhau nhiều, nên không diễn ra mạnh mẽ, do
vậy cũng không dẫn đến sự đảo lộn đáng kể nào về diện mạo văn hóa bản địa.
Th? hai: Đồng hóa giữa văn hóa người Kinh và các tộc người bản địa. Đây
là quá trình đồng hóa tự nhiên diễn ra do cư trú đan xen của các dân tộc, song sự
đồng hóa này mạnh mẽ hơn và dễ gây ra những thay đổi lớn về sự biến đổi văn
hóa bản địa. Quá trình này diễn ra mãnh mẽ cả trong đời sống vật chất và đời
sống tinh thần, từ tiếp nhaận quy trình và kỹ thuật sản xuất ruộng nước, trồng
trọt, chăn nuôi, cho đến cách thức cư trú, làm nhà và phương tiện sinh hoạt
trong gia đình, thậm chí cả tín ngưỡng, lễ nghi tôn giáo.
17
3.1.6. Xu hướng hiện đại hóa văn hóa
Những thành tựu đạt được từ sau công cuộc đổi mới của nước ta do Đảng
đề ra đến nay đang là điều kiện, tiền đề cho quá trình hiện đại hóa. Những biến
động về kinh tế xã hội đó tác động đến đời sống vật chất và tinh thần của mỗi
con người, mỗi gia đình cũng như toàn xã hội. Do vậy, xu hướng hiện đại hóa
văn hóa là một tất yếu biểu hiện ở sự dung nạp các yếu tố mới của thời đại bên
cạnh việc duy trì, bảo tồn những yếu tố truyền thống. Đặc biệt là sự dung nạp
những yếu tố văn hóa vật chất - kỹ thuật, những sản phẩm của nền công nghiệp
hiện đại. Nhờ giao lưu, cư dân bản địa Tây Nguyên có những yếu tố vật chất
mới như: phương tiện nghe nhìn, (đài, ti vi, sách báo); phương tiện đi lại…;
thông tin (internet, điện thoại) đồ dùng dân dụng… đang làm cho mức thụ
hưởng văn hóa của đồng bào ngày càng được nâng lên. Lối sống mới dần hình
thành, tư duy khoa học, tác phong công nghiệp dần hình thành ở người lao
động. Tuy nhiên, việc tiếp nhận này của các cư dân bản địa diễn ra một cách bị
động, phần lớn đồng bào còn thiếu năng lực chủ thể hóa, thậm chí có một bộ
phận đồng bào lại chối bỏ văn hóa truyền thống, lối sống hưởng thụ, chạy theo
đồng tiền, sự sùng bái hàng hóa vật chất, coi nhẹ lý tưởng và khát vọng… cũng
xuất hiện đặc biệt là ở lớp trẻ, đang là nỗi lo chung của toàn xã hội.
3.2. Các giải pháp phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số
Lâm đồng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
3.2.1. Nâng cao nhận thức của cư dân bản địa về văn hóa và vai trò của
văn hóa
Thực tiễn đã chứng minh con người khác con vật là ở chỗ con người có
nhận thức. Nhận thức là cơ sở để con người nhận biết thế giới và hiểu biết thế
giới đó, từ đó con người có thể tác động vào thế giới đó một cách phù hợp nhất,
để đem lại hiệu quả cao nhất cho con người, là thành phần không thể thiếu trong
sự phát triển. Là chủ nhân của nền nông nghiệp nương rẫy, nhận thức của đồng
bào các DTTS bản địa Lâm Đồng đến nay tuy đã được nâng lên nhưng phổ biến
vẫn là nhận thức kinh nghiệm. Do vậy, nâng cao trình độ nhận thức của cư dân
bản địa về vai trò của văn hóa đang trở nên cấp thiết trước sự tác động của các
nền văn hóa ngoại lai, của kinh tế thị trường đang làm thay đổi không chỉ ở nếp
nghĩ của người dân mà cả trong cách làm của họ.
Để nâng cao trình độ nhận thức của đồng bào các tộc người bản địa, cần
thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là: Mở rộng, củng cố, phát triển giáo dục về mọi mặt, thu hút con em
các DTTS bản địa đến trường nhằm mục đích nâng cao trình độ dân trí, văn hóa,
khoa học, kích thích nhu cầu hiểu biết, khám phá ở người học.
18
Hai là: Đẩy mạnh và phổ biến công tác khuyến nông ở địa phương, chú
trọng hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất nhằm
thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và chuyển đổi phương thức tập quán
canh tác cũ của đồng bào dân tộc thiểu số.
Ba là: Thực hiện, tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức phong phú,
đa dạng, phù hợp với trình độ dân trí của từng vùng nhằm nâng cao trình độ
hiểu biết và làm chuyển biến nhận thức của đồng bào về vai trò và chức năng
của văn hoá trước những nhu cầu và sự phát triển của đời sống xã hội.
Bốn là: Lồng ghép truyên truyền, giáo dục ý thức bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa thông qua các phong trào hoạt động của các đoàn thể, các trường
học ở cơ sở, nâng cao lòng tự hào và ý thức cộng đồng cho chính người đồng
bào DTTS bản địa; định hướng và giáo dục thế hệ trẻ các dân tộc biết yêu, quý
trọng di sản văn hóa mà tổ tiên họ ngàn đời gìn giữ và truyền lại.
Năm là: Nâng cao kiến thức về khoa học kỹ thuật, nâng cao ý thức công
dân, bảo đảm hài hòa các lợi ích cho đồng bào tự tin vào chính mình trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
văn hóa.
3.2.2. Đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở
Hệ thống chính trị cơ sở có vai trò rất quan trong trong việc thực thi đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là cầu nối trực
tiếp giữa dân với Đảng, với Nhà nước, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã
hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
3.2.3. Đổi mới nâng cấp cơ sở vật chất liên quan đến hoạt động văn hóa
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương V khóa VIII “làm cho văn hóa
thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị
mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc, và
tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi
trụy, độc hại.
Do vậy, để đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa cần thực hiện
đồng bộ các giải pháp sau:
Một là: Triển khai và thực hiện tốt đề án “Phát triển VHNT tỉnh Lâm Đồng
đến 2015, định hướng đến 2020” đã được tỉnh ủy Lâm Đồng phê duyệt với quan
điểm gắn văn hóa nghệ thuật trên địa bàn tỉnh với phát triển nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
19
Hai là: Cần có sự quan tâm sâu sắc và sự thống nhất từ cấp tỉnh tới cấp
huyện, xã, trong việc xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở.
Sự quan tâm đó phải được thể hiện bằng chương trình hành động cụ thể như quy
hoạch đất đai, đầu tư kinh phí để xây dựng thiết chế văn hóa, thể thao, nhằm vào
hai nội dung: Xây dựng cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và sử dụng có hiệu quả
cơ sở vật chất ấy.
Ba là: Kế thừa những kết quả, thành tựu đạt được trong công tác xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn theo hướng xây dựng nông thôn văn minh,
hiện đại, bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phù hợp với từng vùng, từng
dân tộc.
Bốn là: Chủ động phối hợp, quản lý các lễ hội tôn giáo để nắm và hướng
dẫn phần hội theo các định hướng văn hoá mới, góp phần hạn chế những biểu
hiện mê tín, lợi dụng lễ của những người xấu; nghiên cứu hình thành một số lễ
hội mới để thu hút nhân dân tham gia, góp phần hình thành truyền thống riêng
cho thế hệ mai sau.
Năm là: kinh nghiệm cho biết, công tác tuyên truyền, nhất là đối với những
vùng trình độ dân trí thấp, không thể thiếu đội ngũ tuyên truyền miệng cơ sở.
Thông qua việc tuyên truyền lồng ghép với các chương trình khác như “Dân số
và phát triển”… đội ngũ báo cáo viên (tất nhiên đội ngũ này phải thông thạo
tiếng dân tộc) sẽ “mưa dầm thấm lâu” đưa đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Chính phủ đến với dân.
Sáu là: Chú trọng đầu tư tôn tạo và khai thác các thiết chế văn hoá truyền
thống. Trong số các thiết chế xã hội, với tính cách là môi trường văn hoá, thì gia
đình, dòng họ, làng buôn là những thiết chế gần gũi và có ảnh hưởng lớn đến
văn hoá cá nhân.
Bảy là: Kiện toàn tổ chức các cơ quan Tuyên giáo, dân vận và đội ngũ làm
công tác tuyên giáo, dân vận. Thông qua công tác tuyên truyền, vận động đến
từng thôn buôn chúng ta có thể nắm bắt tâm tư, trình cảm của người dân, để
hoàn thiện chủ trương chính sách, và chủ động ngăn chặn những hoạt động phản
tuyên truyền của kẻ địch. Nhận thức đúng mở đường cho hành động đúng. Gần
dân, sát dân không chỉ giúp nhận thức đúng và hành động đúng mà quần chúng
và cán bộ đảng viên sẽ tin tưởng và quyết tâm hành động hơn.
3.2.4. Tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên trách về văn hóa, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
Cán bộ quản lý văn hóa cấp cơ sở - một nguồn lực quan trọng trong việc xây
dựng nền văn hóa mới hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề bất cập hiện nay là cán bộ ban
văn hóa xã hội cơ sở nhất là cấp xã phường vừa thiếu,vừa yếu (mỗi xã chỉ có 1
cán bộ văn hóa) lại phải kiêm nhiệm rất nhiều mảng công việc, gồm cả văn hóa,
20
gia đình, lao động xã hội, vì vậy rất bận, không thể tập trung đảm nhiệm sâu một
lĩnh vực cụ thể nào. Nhiều người làm cán bộ văn hóa cơ sở còn e dè, ngại ngần
khi nói trước đám đông. Và rất ít người được đào tạo cơ bản trước khi bắt tay làm
công việc này. Là người làm công việc quần chúng, nhưng dường như đa số họ đã
quen với số liệu thống kê, ngồi bàn giấy, chứ không lăn lộn với phong trào đang là
một thực trạng. Bên cạnh đó, phần lớn đội ngũ cán bộ chuyên trách văn hóa, nhất
là ở cấp xã nắm tác nghiệp chuyên môn về hoạt động văn hóa chưa sâu như về
phương pháp vận động, ít am hiểu về phong tục tập quán của các dân tộc do đó
công tác vận động, xây dựng kế hoạch, các biện pháp vận động, tham mưu xây
dựng các chế tài cho UBND xã chưa đúng dẫn đến tình trạng làm hình thức.
3.2.5. Đẩy mạnh phát triển xây dựng thôn, buôn (bon) văn hóa
Thôn, buôn là cộng đồng dân cư ở nông thôn có chung lãnh thổ, tín
ngưỡng, tập quán, văn hoá nghệ thuật Xây dựng thôn buôn văn hóa là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện sự qun tâm sâu sắc của Đảng và
nhà nước đối với đời sống của nhân dân, được thực hiện rộng khắp ở tất cả các
địa phương trong toàn quốc.
3.2.6. Vấn đề tạo không gian, môi trường để giữ gìn, phát huy vai trò văn
hóa bản địa ở Lâm Đồng
Văn hóa bản địa các DTTS Lâm Đồng là nền văn hóa mang tính cộng đồng
rất cao và luôn tồn tại, phát triển cùng với điều kiện kinh tế nương rẫy. Để phát
huy vai trò văn hoá phải chú ý xây dựng môi trường văn hoá, vì đó là khâu trung
gian giữa văn hoá của mỗi con người và văn hoá của xã hội. Mục đích tư tưởng,
thị hiếu của từng cá nhân luôn chịu sự chi phối, quy định của những người sống
xung quanh họ. Không gian chính là khoảng không bao trùm mọi vật xung
quanh con người, văn hóa ở đây được hiểu theo nghĩa thông dụng, tức là chỉ cái
đẹp. Không gian văn hóa bản địa là khoảng không bao trùm những giá trị tốt
đẹp của văn hóa vật chất và tinh thần được đồng bào sáng tạo ra trong quá trình
sinh tồn, bao gồm từ không gian sống, hoạt động, lao động, sinh hoạt tín
ngưỡng…
Nói tóm lại, nhận thức mọt cách đúng đắn những xu hướng biến đổi của văn
hóa bản địa Lâm Đồng trước sự tác động của quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế
có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn
chế trong phương thức sản xuất, trình độ hiểu biết về khoa học, công nghệ, của
đồng bào bản địa; tiến tới xóa bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu đang là
lực cản của quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Lâm Đồng; Khôi phục và phát
huy những yếu tố văn hóa truyền thống có giá trị một cách có hiệu quả.
21
KẾT LUẬN
Thăng hoa từ hơi thở cuộc sống, từ những năng lực, trình độ và phương
thức sống của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, văn hóa là tinh hoa được chưng cất,
kết tụ nên cái bản chất, bản sắc, tính cách của dân tộc, của thời đại. Tuy nhiên,
văn hóa cũng có sự tác động trở lại bằng sự hiện diện trong mọi hoạt động từ
suy tư đến hành động thực tế, từ hoạt động cá nhân đến những vận động xã hội,
từ hoạt động vật chất đến những sáng tạo tinh thần, những phát minh, những
sáng chế, tạo ra những giá trị mới của sản xuất vật chất, khoa học - kỹ thuật -
công nghệ, văn học- nghệ thuật. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế hiện nay, vai trò của văn hóa càng được gia tăng. Ở nước ta, nhận
thức về vai trò của văn hóa được làm rõ ở Nghị quyết Trung ương V khóa VIII
(1998) và các Nghị quyết Trung ương từ Đại hội VIII đến nay. Đặc biệt nhiều
chương trình dự án cụ thể được triển khai một cách đồng bộ nên nhận thức về
văn hóa và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển được nâng lên.Văn hóa
không chỉ là một thành tố của sự phát triển mà nó còn đóng vai trò là mục tiêu,
động lực và định hướng kinh tế- xã hội phát triển bền vững. Sự tiến bộ hay lạc
hậu của một cá nhân, phát triển hay trì trệ của một dân tộc, thành công hay thất
bại của một chiến lược phụ thuộc rất nhiều vào chỗ văn hóa đã được nhận thức
và sử dụng như thế nào trong phát triển kinh tế - xã hội.
Là những cư dân cư trú lâu đời trên mảnh đất Nam Tây Nguyên, các dân
tộc K’Ho, Mạ, Chu Ru, M’Nông, đã tạo nên một nền văn hóa đậm sắc thái bản
địa. Trên nền tảng CNDV, khái niệm văn hóa bản địa các DTTS Lâm Đồng
được xác định là: “hệ thống các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, biểu hiện
kết tinh của những hoạt động về sản xuất, về tư duy, về ?ng xử xA hội và ?ng xử
với tự nhiên trong không gian sinh tồn của các cư dân bản địa được lưu truyền
và phát triển qua bao thế hệ”. Văn hóa bản địa có ảnh hưởng sâu xa đến mọi
mặt đời sống của từng dân tộc, từng con người, biểu hiện ở thế giới quan và
nhân sinh quan, phong cách tư duy, phong cách hoạt động và sinh hoạt, lối ứng
xử trước các điều kiện của tự nhiên, xã hội và giao lưu hợp tác quốc tế. Đó là
nền văn hóa “luôn hướng dẫn và cổ vũ cho lối sống hài hòa, ứng xử có văn hóa
trong quan hệ với môi trường thiên nhiên vì sự phát triển bền vững” [54, tr.31].
Từ thực tế nghiên cứu của đề tài cho thấy, những yếu tố văn hóa truyền thống
được bảo tồn, phát huy ở các tộc người bản địa Lâm Đồng thực sự có ý nghĩa
thực tiễn trong xã hội, trong cuộc sống đang có những thay đổi và hội nhập hiện
nay. Với hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần, văn hóa có vai trò đảm bảo
duy trì sự tồn tại của chính chủ nhân nền văn hóa. Nền kinh tế nương rẫy, công
cụ lao động thô sơ, trình độ nhận thức còn thấp, song ở mỗi cư dân bản địa thái
22
độ đối với lao động đã được hình thành rõ nét. Hệ thống tri thức tri thức bản địa
về sản xuất, quản lý xã hội, xây dựng cộng đồng, các nghề truyền thống…được
đúc kết bao đời nay tiếp tục được đồng bào phát huy có hiệu quả. Các yếu tố
văn hóa đó có tác động tích cực đến phát triển sản xuất, kết cấu hạ tầng phục vụ
sản xuất và đời sống của đồng bào ngày càng được cải thiện và nâng lên rõ rệt,
làm cho nhận thức, tư tưởng của họ có những thay đổi. Những tập quán sản xuất
cũ lạc hậu dần được xóa bỏ, tập quán sản xuất tự cung tự cấp đang có sự dịch
chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hóa. Phát huy vai trò phương thức sản
xuất truyền thống kết hợp với kỹ thuật hiện đại, đồng bào đã biết trồng cây công
nghiệp, xây dựng các mô hình sản xuất đưa lại hiệu quả kinh tế cao. Sự chuyển
dịch trong sản xuất không chỉ bảo đảm cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao
và bền vững ở Lâm Đồng, mà còn tạo điều kiện thực hiện sự tiến bộ, công bằng
xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Các thiết chế văn hóa truyền thống tuy không còn vai trò
như trước, song vẫn có ảnh hưởng đến xây dựng, củng cố cộng đồng, đoàn kết
dân tộc. Tuy nhiên, văn hóa bản địa cũng có những tác động, dẫn đến tình trạng
đói nghèo ở Lâm Đồng không được giải quyết triệt để, một lối sống mới hình
thành theo hướng tiêu cực, coi nhẹ văn hóa dân tộc, dễ bị lôi kéo gây ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình củng cố khối đoàn kết dân tộc.
Trong quá trình phát triển chung của nhân loại ngày nay, trước xu thế toàn
cầu, hội nhập, văn hóa bản địa Lâm Đồng cũng chịu những tác động nhất định,
và việc giao lưu văn hóa là điều không tránh khỏi. Quá trình ấy đã, đang làm
cho nhiều nét văn hóa truyền thống bị mai một, thậm chí bị biến mất, thay vào
đó là sự hiện diện của những nét văn hóa mới. Tuy nhiên những nét văn hóa mới
hoặc là tồn tại dựa trên nền tảng văn hóa truyền thống bản địa hoặc là có sự kết
hợp giữa văn hóa truyền thống với văn hóa mới, thậm chí là cả với văn hóa của
các dân tộc khác. Điều đó đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong
thời gian tới.Vai trò của văn hóa bản địa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở
lâm Đồng được phát huy là do nhiều nguyên nhân, mà cơ bản là do sự chuyển
biến đột ngột của cơ cấu kinh tế và phương thức canh tác, của cơ chế quản lý và
các chính sách mở cựa, hội nhập, của lối sống văn hóa, phong tục tập quán… Sự
chuyển biến đó làm cho cái bản địa đang bị cái ngoại sinh lấn át, cái mới đang
dần hình thành và đẩy lùi cái truyền thống song cái mới cũng chưa phải là cái
vững chắc,… đang là một trong những căn nguyên sâu xa của sự phát triển
không bền vững, và sự bất ổn về chính trị - xã hội ở Lâm Đồng. Trong thời gian
tới, văn hóa bản địa Lâm Đồng đang có những xu hướng biến đổi mang tính đa
chiều đòi hỏi phải được nhận thức thấu đáo và hướng giải quyết phù hợp. Các
giải pháp để giải quyết vấn đề và phát huy vai trò tích cực của văn hóa bản địa
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội phải được xác định một cách tổng hợp trên
23
nhiều mặt cả nhận thức đến hoạt động thực tiễn. Về nhận thức, yêu cầu bức xúc
là nâng cao trình độ nhận thức của chủ nhân nền văn hóa bản địa trên cơ sở
không ngừng mở rộng quy mô và nâng cao chât lượng giáo dục đào tạo, và đào
tạo nghề cho cư dân bản địa. Tăng cường trách nhiệm của các chủ thể liên quan
đến giữ gìn, bảo tồn và phát huy vai trò văn hóa bản địa. Đầu tư xây dựng và
phát huy vai trò của các thiết chế văn hóa để tạo môi trường cho sự phát triển
của con người. Chỉ khi nào có được sự quan tâm, lãnh đạo, đầu từ của Đảng và
nhà nước, sự phối hợp tích cực giữa cá cơ quan ban ngành liên quan trong địa
phương thì mới đạt được hiệu quả trong phát huy vai trò tích cực của văn hóa,
vừa khắc phục được vai trò tiêu cực của nền văn hóa hiện tồn.
24