Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 113 trang )

1


I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN





NGUYN TH ANH



GIO DC O C CHO HC SINH PH THễNG
HUYN YấN DNG, TNH BC GIANG HIN NAY



LUậN VĂN THạC Sỹ TRIếT HọC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08







Hà Nội - 2013
1




I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN





NGUYN TH ANH



GIO DC O C CHO HC SINH PH THễNG
HUYN YấN DNG, TNH BC GIANG HIN NAY


LUậN VĂN THạC Sỹ TRIếT HọC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08


Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. ng Th Lan






Hà Nội - 2013

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Đặng Thị Lan.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố trong các công trình nào
khác.
Các số liệu, tài liệu được trích dẫn, sử dụng trong luận văn là trung thực, khách
quan và có nguồn gốc rõ rang.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài.

Hà Nội, ngày 02 tháng 11 năm 2013
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Anh
2

LỜI CẢM ƠN
Lời cảm ơn đầu tiên và sâu sắc của tôi xin được dành gửi tới cô giáo PGS.TS Đặng
Thị Lan – người đã quan tâm và tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình luận văn. Cô
giáo đã cho tôi thêm nhiều kiến thức về vấn đề giáo dục đạo đức học sinh cũng như giúp
tôi rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Triết học, Trường Đại học khoa
học xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội, đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi,
dành nhiều công sức giảng dạy, hướng dẫn giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cám ơn Sở Giáo dục – Đào tạo Tỉnh Bắc Giang, Ủy ban nhân dân

huyện Yên Dũng, Phòng Giáo dục – Đào tạo huyện Yên Dũng, cùng các thầy cô giáo một
số trường THCS, THPT đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong việc cung cấp số liệu, đóng góp ý
kiến cho luận văn của mình. Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người thân trong
gia đình và bạn bè đã luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ
học tập và nghiên cứu trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài, song không thể tránh
khỏi những sai sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự cảm thông và đóng góp ý kiến
của quý các thầy, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và những người quan tâm đến những vấn
đề được trình bày trong luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn
3

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN





1. GDĐĐ : Giáo dục đạo đức
2. THCS : Trung học cơ sở
3. THPT : Trung học phổ thong
4. CNXH : Chủ nghĩa xã hội
5. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
4

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2.Tình hình nghiên cứu 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 8
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu 8
6. Đóng góp của luận văn 9
7. Ý nghĩa của luận văn 9
8. Kết cấu của luận văn 9
Chƣơng 1 10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG 10
1.1. Khái niệm đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông 10
1.1.1. Khái niệm đạo đức 10
1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông 21
1.2. Vai trò của giáo dục đạo đức đối với học sinh phổ thông hiện nay 28
1.3. Các nhân tố tác động đến việc giáo dục đạo đức học sinh phổ thông hiện
nay 32
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tác động đến việc hình thành đạo đức
32
1.3.2. Tác động của giáo dục gia đình đối với việc hình thành đạo đức học sinh 36
1.3.3. Giáo dục nhà trường với việc hình thành nhân cách đạo đức học sinh 38
1.3.4. Tác động của xã hội đối với việc hình thành đạo đức học sinh 39
1.4. Nguyên lý, mục tiêu, hình thức và nội dung giáo dục đạo đức học sinh phổ
thông hiện nay 41
5

Tiểu kết chƣơng 1 52

Chƣơng 2 53
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG Ở HUYỆN YÊN
DŨNG, TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY: 53
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 53
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội và giáo dục phổ thông huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang 53
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội: 53
2.1.2. Khái quát vài nét về giáo dục phổ thông huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang
56
2.2. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông ở huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay 58
2.2.1. Những thành công cơ bản trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
phổ thông ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay 58
2.2.2. Những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông ở
huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay 67
2.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh phổ thông huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay 82
2.3.1. Nhóm giải pháp về phía nhà trường 83
2.3.2. Nhóm giải pháp về phía gia đình 89
2.3.3. Nhóm giải pháp về phía xã hội 91
Tiểu kết chƣơng 2 95
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99




1

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Thế hệ trẻ luôn được xem là lực lượng quan trọng của mỗi dân tộc, mỗi
quốc gia. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ đối
với sự phát triển của đất nước. Người nói: “Thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên” [53, tr.84]. Trong bản di chúc để lại trước lúc đi xa, Người căn
dặn toàn Đảng, toàn dân ta: “Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng”, vừa “chuyên” [53, tr.510].
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của việc giáo dục và đào tạo
đối với cách mạng Việt Nam, kế thừa tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, Đảng
ta tiếp tục thực hiện chiến lược giáo dục Việt Nam. Trong văn kiện Đại hội XI
của Đảng đã nêu lên định hướng cụ thể phát triển sự nghiệp giáo dục và đào
tạo trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo là: “Giáo dục và đào tạo
có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người
Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” [21,
tr.155].
Trong quá trình giáo dục thế hệ trẻ là học sinh, sinh viên hiện nay,
Đảng ta luôn luôn quan tâm, chú trọng phát triển toàn diện mọi mặt Đức – Trí
– Thể – Mỹ cùng các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành và phát triển nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, GDĐĐ được coi là yếu
tố quan trọng hàng đầu, là nền tảng hình thành nhân cách con người Việt
Nam. Việc giáo dục này phải thực hiện ngay từ lúc nhỏ, bắt đầu từ bậc mầm
non, Tiểu học. Do vậy, việc GDĐĐ cho học sinh được xác định là một quá
trình dài lâu, xuyên suốt trong quá trình giáo dục. Nó đòi hỏi sự chung tay,
2


góp sức của gia đình – nhà trường – xã hội. Muốn đưa đất nước ta trở nên
giàu mạnh, văn minh thì trước tiên phải đào tạo ra lớp người đủ “trí” và
“đức”. Những lớp người đó không ai khác chính là thế hệ trẻ học sinh, sinh
viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường, họ phải được trang bị đủ về đức và
tài để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước. Vì thế, việc GDĐĐ cho học
sinh trở thành một trong những mục tiêu chính của giáo dục phổ thông, được
xem là nền tảng, gốc rễ để tạo ra nội lực tiềm tàng vững chắc cho các mặt
giáo dục khác.
Trong điều kiện hiện nay, xã hội có sự chuyển biến không ngừng, sâu
rộng và to lớn về mọi mặt, trong đó GDĐĐ nhằm xây dựng nền tảng đạo đức
mới, đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
phát huy được thế mạnh, đồng thời khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường.
Thực tế cho thấy, sau gần 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, đất nước ta có sự chuyển mình từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Với
công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các mặt
kinh tế – xã hội, văn hóa – giáo dục. Đó là sự tác động của bối cảnh toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường vào môi trường học
đường mang tính tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho các em học tập, có hoài
bão ước mơ khát vọng lớn. Bên cạnh tác động tích cực, sự ảnh hưởng mặt trái
nền kinh tế thị trường len lỏi vào môi trường học đường tạo nên một vấn đề
đáng lo ngại hiện nay, đó là sự suy thoái đạo đức nghiêm trọng của một bộ
phận học sinh. Biểu hiện của suy thoái đạo đức học sinh đó là: có lối sống
thực dụng, thiếu ước mơ và hoài bão, sống thiếu lý tưởng, xa rời đạo đức
truyền thống, tiếp thu thiếu chọn lọc lối sống từ bên ngoài, đua đòi, học hành
sa sút…. làm xói mòn nghiêm trọng giá trị truyền thống tốt đẹp đạo đức thanh
niên Việt Nam. Hơn nữa, sự du nhập văn hóa phương Tây với sản phẩm đồi
trụy, không lành mạnh thông qua các phương tiện như phim ảnh, game,
internet… tác động làm ảnh hưởng đến tâm, sinh lý của các em học sinh dẫn
3


đến quan điểm về tình bạn, tình yêu sai lầm. Tình trạng bạo lực học đường
không chỉ đối với các em nam sinh, mà còn có cả các em nữ sinh ngày càng
diễn ra nhiều. Tất cả những biểu hiện đó cho thấy, sự lệch lạc trong suy nghĩ
và hành vi về nhân cách đạo đức học sinh, gióng lên hồi chuông cần thức tỉnh,
cảnh báo về lối sống, nhân cách của giới trẻ hiện nay. Có thể nhận thấy, sự
xuống cấp của đạo đức học sinh xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trách nhiệm
thuộc về nhiều ngành nhưng trước hết phải kể đến trách nhiệm của nhà trường
– nơi trực tiếp GDĐĐ cho học sinh từ khi học sinh cắp sách đến trường đến
lúc bước chân vào đời. Chính vì vậy, hiện nay việc GDĐĐ cho các em học
sinh phổ thông vừa là nhiệm vụ rất cấp bách và lâu dài đối với sự nghiệp giáo
dục nói riêng và của cách mạng Việt Nam nói chung.
Yên Dũng – là một huyện trung du miền núi của tỉnh Bắc Giang. Nơi
đây là vùng đất cổ có bề dày lịch sử văn hóa và truyền thống khoa bảng. Yên
Dũng tự hào là một vùng đất thiêng với huyền thoại 99 con chim phượng
hoàng cấu tạo nên dãy núi Nham Biền kỳ vĩ, có chùa Vĩnh Nghiêm – thuộc
dòng Thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập từ thế kỷ XIII,
chùa này được coi là Đại học Phật Giáo đầu tiên của Việt Nam. Ngoài ra, Yên
Dũng còn tự hào là nơi sinh ra hai cha con tiến sĩ Đào Toàn Mân và Trạng
nguyên Đào Sư Tích – nơi ẩn chứa và phát tích tinh hoa của nhiều thế hệ, một
vùng đất đã biết lấy câu trong sách thánh hiền để dạy con cháu: “Thiên kim di
tử, bất như nhất kinh”, có nghĩa là để cho con người ngàn vàng không bằng
một quyển sách. Bởi vậy, nơi đây từ xa xưa đã sinh ra và nuôi dưỡng hàng
chục tiến sĩ làm nên niềm tự hào của một vùng quê được coi là hiếu học. Cho
đến nay, truyền thống hiếu học của vùng đất Yên Dũng vẫn đang được thế hế
sau nối tiếp, đặc biệt là các em học sinh của huyện luôn luôn ý thức được điều
đó nên đại đa số vẫn giữ vững và phát huy tinh thần hiếu học. Tuy nhiên, dưới
sự tác động quá trình của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế, bên cạnh những biểu hiện tích cực thì mặt trái của sự tác động đó làm ảnh
hưởng đến một số bộ phận học sinh có biểu hiện suy thoái đạo đức nghiêm

4

trọng, hành vi lệch chuẩn về đạo đức: bạo lực học đường, quay cóp bài, vô lễ
với các thầy cô giáo….làm suy thoái và xói mòn truyền thống tốt đẹp hiếu
học của huyện Yên Dũng.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tác giả nhận thấy việc GDĐĐ cho
học sinh trong giai đoạn hiện nay trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ
hết, cần phải có các giải pháp để khắc phục biểu hiện lệch lạc về đạo đức học
sinh nhằm giúp các em phát triển toàn diện hài hòa cả về đức dục và trí dục,
đáp ứng nguồn nhân lực ngày càng cao để phát triển đất nước. Là người con
sinh ra và lớn lên tại vùng đất hiếu học Yên Dũng, với mong muốn góp một
phần nhỏ bé vào việc giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp ngàn đời của cha
ông, tác giả quyết định lựa chọn vấn đề: “Giáo dục đạo đức cho học sinh phổ
thông ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn Thạc sỹ của mình.
2.Tình hình nghiên cứu
Bàn về vấn đề đạo đức con người, từ trong lịch sử đến nay, đã có rất
nhiều nhà lý luận thuộc các chuyên ngành triết học, đạo đức học, xã hội học ở
trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
Khi nghiên cứu về con người, các nhà triết học, tâm lý học Xô Viết
thường đề cao vai trò của yếu tố xã hội, môi trường giáo dục, đặc biệt là
GDĐĐ, giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách. Đạo đức cá nhân được xem là một trong những chuẩn mực
của sự phát triển nhân cách, biểu hiện mối quan hệ bên trong của con người
với các giá trị xã hội.
Ở nước ta, đạo đức là vấn đề luôn luôn nhận được sự quan tâm thường
xuyên của các nhà nghiên cứu lý luận và trong đời sống xã hội. Trong di sản
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo con người, Người đặc biệt nhấn
mạnh vai trò của đạo đức, coi đạo đức là cái gốc, nền tảng và sức mạnh của
người cán bộ, cách mạng, nhờ có sức mạnh ấy mà người cách mạng mới có

thể vượt qua mọi khó khăn, thách thức để rèn luyện và trưởng thành. Như vậy
5

ta thấy, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức trong sáng của
Người có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, là nhân tố to
lớn trong công cuộc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay. Điều đó
được thể hiện rõ thông qua một loạt các tác phẩm, các bài viết trong sách báo
của Người trong: “Hồ Chí Minh, Toàn tập”.
Có thể phân các công trình nghiên cứu chủ yếu thành ba nhóm sau đây:
* Các công trình là sách:
- Cuốn “Đạo đức mới” của Vũ Khiêu (Nxb Khoa học xã hội, 1974), nội
dung chủ yếu nói về khái niệm về đạo đức, vấn đề đạo đức mới trong hoàn
cảnh xã hội lúc đó. Qua đó nêu ra chuẩn mực về đạo đức con người trong xã
hội mới.
- Cuốn “Về giáo dục thanh niên” của Hồ Chí Minh (Nxb Thanh niên Hà Nội,
1976), ở cuốn sách này tác giả chủ yếu nêu khái niệm giáo dục, nhấn mạnh
vai trò của giáo dục đối với thế hệ trẻ, đặc biệt là thế thanh niên trong sự
nghiệp xây dựng đất nước. Qua đó khẳng định cần phải tích cực rèn luyện và
giáo dục thế hệ thanh niên và đặc biệt là giáo dục đạo đức là nền tảng để tạo
ra con người vừa có tài vừa có đức.
- Cuốn“Những vấn đề đạo đức trong cơ chế thị trường” (Nxb Thanh niên,
1996), với nội dung chủ yếu bàn về sự tác động của nền kinh tế thị trường đến
đạo đức con người hiện nay, vấn đề đặt ra và nhóm giải pháp để hạn chế sự
tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và phát huy những giá trị tích cực.
- Cuốn“Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội
kinh tế” của Phạm Minh Hạc (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996), ngoài
việc luận giải khái niệm giáo dục, nội dung chủ yếu đi sâu vào vị trí và vai trò
của giáo dục đối với phát triển kinh tế xã hội, khẳng định nhân tố con người là
yếu tố quyết định đối với sự phát triển đất nước hiện nay. Vì vậy để phát triển
nhân tố con người thì cần phải chú trọng việc giáo dục đào tạo ra con người

có phẩm chất có năng lực đáp ứng yêu cầu của đất nước.
6

- Cuốn “Triết học giáo dục Việt Nam” của Thái Duy Tuyên (Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2007), bàn về lý luận triết học làm cơ sở cho sự phát triển của
hoạt động giáo dục và đào tạo, chỉ ra mục đích kinh tế - xã hội, các quy luật
vận động, các quy chuẩn đạo đức trong giáo dục và đào tạo.
- Cuốn “Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI” của Nguyễn Hữu
Châu (Nxb Giáo dục Hà Nội, 2007), bàn về nền giáo dục Việt Nam trong giai
đoạn phát triển mới phải là một nền giáo dục thực học và dân chủ. Đồng thời,
cuốn sách nhấn mạnh tầm quan trọng và đề ra những định hướng phát triển xã
hội học tập trong thế kỉ XXI.
* Các luận án Tiến sĩ:
- Một số công trình luận án bàn về vấn đề GDĐĐ điển hình như: “Giáo dục
đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” (Trần Sỹ Phán, Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện
chính trị quốc gia HCM, 1999), tác giả giải quyết vấn đề khái niệm giáo dục
và giáo dục đạo đức. Qua đó khẳng định vai trò và vị trí của giáo dục đạo đức
đối với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam nói chung,
đồng thời tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh giáo dục đạo đức
sinh viên.
- Luận án: “Giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở tại thành
phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay” (Đỗ Tuyết Bảo, Luận án
Tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội, 2001),
với khái niệm giáo dục và giáo dục đạo đức tác giả luận giải sự tác động của
nền kinh tế thị trường đến học sinh, từ đó nêu ra vai trò giáo dục đạo đức cho
học sinh hiện nay là cần thiết ở thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, đề xuất một
số giải pháp đẩy mạnh hơn nữa tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh đạt
hiệu quả cao.
- Luận án: “Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người

Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay” (Lê Thị Thủy, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Học viện chính trị quốc gia HCM, 2001)… Tác giả bàn vấn đề đạo
7

đức và ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đối với việc hình thành nhân
cách con người hiện nay. Đồng thời nêu vai trò của thế hệ trẻ không những
quyết định đến vận mệnh và tương lai của dân tộc mà còn ảnh hưởng đến
tương lai nhân loại.
* Các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành:
Đặc biệt, trong những năm gần đây, trên các sách báo, tạp chí, nhiều
nhà khoa học, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội nghiên cứu về hiện tượng suy
thoái, xuống cấp đạo đức ở một bộ phận thanh thiếu niên do ảnh hưởng tác
động tiêu cực từ những mặt trái của cơ chế thị trường, nổi bật là những bài
viết đáng chú ý như: “Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh” của Lê Trọng Tấn
(Tạp chí cộng sản 11/1991), “Quan hệ đạo đức và kinh tế thị trường trong
việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của Tiến sĩ Nguyễn Thế Kiệt
(Tạp chí Triết học, 6/1996), “Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân
cách trong cơ chế thị trường” của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học,
5/1996), “Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của thanh niên,
học sinh, sinh viên” của Hà Nhật Thăng (Tạp chí cộng sản, 11/2002), “Một số
biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay và giải pháp khắc phục” của Nguyễn Đình Tường (Tạp chí
Triết học 7/2002)…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên cho thấy các tác giả bàn
chủ yếu về vai trò của GDĐĐ, thực trạng và đề xuất những giải pháp GDĐĐ
con người nói chung và thế hệ trẻ nói riêng là học sinh, sinh viên trong sự ảnh
hưởng của nền kinh tế thị trường hiện nay. Tuy nhiên, nghiên cứu về giáo dục
đạo đức cho học sinh phổ thông trên địa bàn cụ thể là huyện Yên Dũng , tỉnh
Bắc Giang thì chưa có công trình nào nghiên cứu.
Trên thực tế, ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, là nơi giàu truyền thống

hiếu học, tiếp thu truyền thống ấy, các nhà trường trong toàn huyện luôn quan
tâm tới việc GDĐĐ cho các em học sinh. Tuy nhiên, không nằm ngoài sự tác
động của cơ chế kinh tế thị trường nên hiện nay ở huyện Yên Dũng một bộ
8

phận em học sinh có biểu hiện suy thoái về đạo đức. Chính vì vậy, nghiên cứu
vai trò GDĐĐ cho học sinh nói chung để thấy rõ tầm quan trọng của việc
đánh giá thực trạng và đưa ra những giải pháp khắc phục biểu hiện suy thoái
đạo đức học sinh ở huyện Yên Dũng nói riêng là việc trở nên quan trọng và
cần thiết hơn bao giờ hết. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những công trình
nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ cố gắng triển khai đề tài đáp ứng nhu cầu thực
tiễn đang đặt ra tại địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận về đạo đức, GDĐĐ cho học
sinh phổ thông và đánh giá thực trạng GDĐĐ cho học sinh phổ thông ở huyện
Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, luận văn đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường
GDĐĐ cho học sinh ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
+ Trình bày, khái quát một số vấn đề lý luận về đạo đức, GDĐĐ cho
học sinh phổ thông.
+ Làm rõ thực trạng GDĐĐ cho học sinh phổ thông ở huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay và những vấn đề đặt ra.
+ Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường việc GDĐĐ cho học sinh phổ
thông ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề GDĐĐ cho học
sinh phổ thông ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay.
+ Phạm vi: chủ yếu tập trung nghiên cứu đối tượng học sinh THCS và

THPT trong khoảng 5 năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
9

+ Luận văn dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức và GDĐĐ cho
thế hệ trẻ. Ngoài ra, luận văn sử dụng kết quả các báo cáo, văn bản liên quan
học sinh phổ thông ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay. Luận văn có
kế thừa chọn lọc những kết quả của các công trình có liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
+ Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt
là các phương pháp phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, lôgic và lịch sử, đối
chiếu, so sánh, thống kê…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ
cho học sinh phổ thông ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
+ Luận văn góp phần phong phú sâu sắc vấn đề đạo đức, GDĐĐ cho
học sinh phổ thông.
+ Luận văn góp phần đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
phổ thông ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 7 tiết.










10

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG

1.1. Khái niệm đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông
1.1.1. Khái niệm đạo đức
1.1.1.1. Quan niệm về đạo đức
* Quan niệm về đạo đức trong triết học phương Tây:
Quan niệm về “đạo đức” vốn có từ rất lâu, nó xuất hiện như một bộ
phận hợp thành của triết học, luôn mang tính lịch sử, đa dạng và phức tạp. Do
vậy, lịch sử phát triển của đạo đức gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội
loài người và cũng chính trong thực tiễn đời sống của con người đã hình
thành nên những chuẩn mực đạo đức, những thói quen tốt, những khát vọng
sống mang tính cộng đồng.
Ở phương Tây thời kỳ cổ đại, danh từ “đạo đức” được bắt nguồn từ
tiếng La tinh là “mos”, “moris” có nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức theo
tiếng gốc của Hi Lạp cổ là “ethicos” cũng có nghĩa là thói quen, tập quán
nói đến đạo đức tức là nói đến những thói quen, tập quán sinh hoạt và ứng xử
của con người trong cộng đồng, trong xã hội. Thời kỳ này nội dung đạo đức
học nổi bật nhất ba vấn đề: Thứ nhất, những phẩm hạnh như công bằng, dũng
cảm, chân thực, trung thành…là gì? và do đó khẳng định phẩm hạnh là gì?
Thứ hai, những quy luật đạo đức có tính bắt buộc hay không, hay chúng chỉ là
có tính chất tương đối. Thứ ba, mục đích của cuộc sống và hạnh phúc của con
người.

Thời kỳ trung cổ, nét nổi bật nhất trong đạo đức là xã hội và con người
được đạo đức học xem xét không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để
thực hiện những mệnh lệnh của tôn giáo. Đạo đức gắn liền với thần học, nó
thâm nhập vào học thuyết của tôn giáo. Đạo đức Thiên chúa giáo có nhiệm vụ
là dạy cho con người biết coi khinh cuộc sống trần thế để chuẩn bị cho cuộc
11

sống ở thiên đường, bằng cách quy phục mệnh lệnh của thượng đế tiêu biểu là
đạo đức học của Tômát Đacanh.
Vấn đề đạo đức trong thời kỳ phục hưng có nguyên tắc cơ bản là đề cao
chủ nghĩa cá nhân. Những khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” trong thời
kỳ đang lên chủ nghĩa tư bản đã cổ vũ một học thuyết tiến bộ về đạo đức, đó
là giải phóng con người ra khỏi những xiềng xích của tôn giáo. Con người
được đặt vào vị trí trung tâm, hạnh phúc và sự hoàn thiện của con người được
coi là mục đích cao nhất của sự phát triển xã hội.
Nếu sự giải phóng cá nhân mang nội dung tiến bộ có ý nghĩa vĩ đại của
đạo đức học trong thời đại phục hưng thì chủ nghĩa cá nhân được phát triển
rộng khắp trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lại là bước phá hoại
nghiêm trọng những giá trị đạo đức. Đồng tiền trở thành thước đo chủ yếu
cho phẩm giá con người. Quyền sở hữu tư nhân trở thàn thiêng liêng, bất khả
xâm phạm vì vậy, nền đạo đức tư sản luôn xoay quanh lẽ sống ấy.
Đến thế kỷ XVIII, tư tưởng đạo đức có bước tiến lớn nhờ tư tưởng của
các nhà duy vật Pháp, họ đã phát triển đạo đức học duy vật và đẩy mạnh cuộc
đấu tranh tư tưởng chống lại đạo đức thần học tôn giáo. Họ đã kết luận: con
người không phải sinh ra là đã có đạo đức mà đạo đức nảy sinh dưới sự tác
động của môi trường xã hội, trước hết là chính trị và pháp luật. Vì vậy, con
người cần thay đổi điều kiện xã hội nếu muốn đạt đến đạo đức cao cả. Họ đã
tìm thấy và nhận định bản chất đạo đức của con người thể hiện ở mối quan hệ
làm sao cho thỏa mãn lợi ích riêng và lợi ích chung xã hội.
Các nhà triết học cổ điển Đức như: Kant, Hêghen, Phơbách đã xây

dựng đạo đức học trên cơ sở thực nghiệm và xuất phát từ đời sống hiện thực
của con người. Kant thì cho rằng, mọi khái niệm đạo đức đều tồn tại một cách
độc lập đối với mọi lợi ích; đạo đức học có sứ mệnh nghiên cứu về sự tự do
của ý chí. Đối với Hêghen cho rằng, đạo đức có sự liên hệ chặt chẽ với pháp
quyền. Phơbách lại quay về luận đề cho rằng cần tìm đạo đức chứ không phải
từ “tinh thần tuyệt đối” mà phải từ chính bản chất của con người.
12

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênnin đã khám phá ra những
quy luật của sự phát triển xã hội, đặc biệt là của hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa, các ông đã tiên đoán một cách khoa học sự diệt vong của chủ
nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, sự thoái hóa của đạo đức tư
sản và sự hình thành, hoàn thiện của đạo đức cộng sản. Các ông đã chỉ rõ bản
chất mặt cá nhân và mặt xã hội của đạo đức. Mặt cá nhân của đạo đức bao
gồm sự quan tâm của cá nhân đối với sự ủng hộ của xã hội và khuynh hướng
của cá nhân tiếp nhận những đòi hỏi của xã hội. Mặt xã hội của đạo đức bao
gồm những vấn đề nguyên tắc chuẩn mực, hệ thống kiểm tra và dự luận xã
hội. Sự điều hòa về mặt đạo đức đối với hành vi của con người là mang tính
biện chứng.
Trong Lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị” C.Mác đã
viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt
xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người
quyết định sự tồn tại của họ, trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức
của họ” [40, tr.15]. Luận điểm đó giúp cho chúng ta nhận ra chân bản chất
của mọi hiện tượng xã hội, trong đó có đạo đức. Việc phát hiện ra tính quy
định của phương thức sản xuất đời sống vật chất, đạo đức (và các hiện tượng
tinh thần khác), không còn là biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngoài
xã hội, bên ngoài các quan hệ người, cũng không phải là sự biểu hiện của
năng lực tiên thiên, nhất thành bất biến của con người. Đạo đức ở đây được
hiểu là một hiện tượng ý thức xã hội, nó phản ánh và bị quy định bởi tồn tại

xã hội. Điều đó có nghĩa là các quan điểm, quan niệm, các nguyên tắc, các
chuẩn mực, các lý tưởng, niềm tin và sức mạnh đạo đức…toàn bộ ý thức đạo
đức, xét đến cùng điều là biểu hiện của một trạng thái, một trình độ phát triển
nhất định những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Như vậy, đạo đức
trong quan niệm của chủ nghĩa Mác mang bản chất xã hội. Xét đến cùng đạo
đức là sự phản ánh các mối quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở
chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp
13

cho xã hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao
động” [39, tr.371]. Do vậy, khẳng định toàn bộ đạo đức các ông cho rằng “đối
với đạo đức cũng như đối với tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại nói
chung người ta thấy có một sự tiến bộ”[40, tr.15]. Qua đó, chỉ ra tính quy luật
của sự phát triển đạo đức, ngoài ra các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê nin
còn đưa ra dự báo về sự xuất hiện của một nền đạo đức mới – đạo đức cộng
sản chủ nghĩa. Nói về đạo đức cộng sản chủ nghĩa Lê nin cho rằng: “Đó là
những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất
cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang và tạo ra xã hội
mới của những người cộng sản” [39, tr.214]. Sự hình thành đạo đức mới, suy
cho cùng phải thể hiện ở những nhân cách đạo đức, tức chủ thể của các quan
hệ, các hoạt động người. Chính các chủ thể đạo đức thể hiện giá trị, vai trò
của đạo đức đối với sự phát triển xã hội. Vì vậy, giáo dục đạo đức nhằm hình
thành và phát triển năng lực đạo đức cá nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Trong tất cả những vấn đề căn bản nhất của đạo đức học của chủ nghĩa
Mác – Lê nin: từ bản chất của đạo đức, quan hệ giữa lợi ích và đạo đức, tiến
bộ đạo đức, đến những dự báo về sự hình thành nền đạo đức cộng sản (thông
qua sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản và giáo dục đạo đức) đều được
C.Mác lý giải một cách khoa học. Những tư tưởng đó thực sự tạo nên bước
ngoặt cách mạng trong đạo đức học và làm nên giá trị trường tồn của học
thuyết Mác về đạo đức mà các quan niệm của tôn giáo và đạo đức khác không

bao giờ có thể đạt tới.
Cùng với sự phát triển của lịch sử đạo đức cũng được phát triển. Trên
cơ sở thực tế của phong trào công nhân và kinh nghiệm cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước Nga, Lênin đã vạch ra những nguyên tắc cơ bản của đạo đức
cộng sản chủ nghĩa với nhiệm vụ chủ yếu: “Đạo đức giúp xã hội loài người
tiến lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” và “Phải làm cho toàn bộ sự
nghiệp giáo dục, rèn luyện và dạy dỗ thanh niên ngày nay trở thành sự nghiệp
giáo dục đạo đức cộng sản trong thanh niên” [38, tr.371 - 366].
14

* Quan niệm về đạo đức trong triết học phương Đông:
Theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại cho
rằng: Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người
trong xã hội; đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính, nhìn chung đức là biểu
hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo đó, đạo đức chính là
những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân
theo.
Trong tư tưởng triết học của Nho giáo về đạo đức cá nhân chính là ngũ
thường “nhân – nghĩa – lễ – trí – tín” được coi là nòng cốt của nguyên tắc đạo
đức, trong đó lấy Nhân làm gốc. Khổng Tử đã từng nói: “Người quân tử là
người Nhân. Nhân là người toàn đức. Nhân là thương người, là kỷ sở bất dục
vật thi ư nhân” (có nghĩa là: những gì mình không muốn thì đừng làm cho
người khác). Như vậy, “nhân” ở đây là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức
của con người, nên “nhân” chính là đạo làm người. Nói đến con người trước
hết phải nói đến đạo đức. Đức trong tư tưởng của Khổng Tử không chỉ là
thiện đức mà chủ yếu là hành động, là lời nói đi đôi với việc làm trên cơ sở
cái thiện. Ông cho rằng, đức với tài phải đi đôi với nhau nhưng đức phải là
gốc. Chính vì vậy, Khổng Tử đã đề xuất đường lối “đức trị” – đường lối trị
nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông.
Ngoài ra, trong tư tưởng Nho giáo cho rằng, người quân tử cầu nghĩa,

tiểu nhân cầu lợi. “Nghĩa” ở đây có thể hiểu là đạo lý, là nghĩa vụ phục vụ
cộng đồng, phục vụ xã hội, còn lợi ích là lợi ích vật chất tầm thường. Do vậy,
đối với Nho giáo quan niệm, con người có đạo đức là con người nhận thức và
thấy được nghĩa vụ của mình đối với xã hội. Vì thế, trong Nho giáo đã hình
thành nên một hệ thống những yêu cầu, những chuẩn mực đạo đức (nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, trung, hiếu, kính, tiết…) để ràng buộc con người vào phục
vụ lợi ích của xã hội (trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó thì lợi ích xã hội chính là
lợi ích của giai cấp phong kiến).
15

Tóm lại, theo quan niệm phương Đông, trong các học thuyết của Phật
giáo, của Đạo giáo, của Nho giáo đều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân
xử thế và tự rèn luyện mình, khuyên con người làm điều thiện, tránh điều ác.
Các học thuyết ấy đề xuất các quy tắc, các chuẩn mực, những ràng buộc trong
các hoạt động sống của con người. Có thể nói, khái niệm đạo đức ở phương
Đông có nghĩa là đạo làm người, bao gồm rất nhiều chuẩn mực về các mối
quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, làng xóm bạn bè, tu thân, dưỡng
tâm…theo những định hướng giá trị nhất định. Còn ở phương Tây, người ta
quan niệm đạo đức là lĩnh vực của con người mà hành vi, các mối quan tâm,
những tình cảm được chia sẻ giữa người này và người khác theo những mục
tiêu và tiêu chí nhất định có liên quan đến tự do và trật tự phức tạp của cộng
đồng.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và
chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ
người với người và con người với tự nhiên.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức:
Trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề
đạo đức. Vấn đề đạo đức cách mạng của Người luôn có sự nhất quán và tính
lôgic cao về tinh thần cách mạng cũng như phương pháp tư duy, nhất là

phương pháp tư duy khoa học, tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê
nin. Trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa
đạo đức của nhân loại Người kế thừa, phát triển và sáng tạo những giá trị đạo
đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng Việt Nam
được thể hiện ở nội dung sau:
- Những chuẩn mực chung nhất về đạo đức cách mạng Việt Nam theo
Người bao gồm những nội dung: trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm,
16

liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý trọng con người, sống có
tình có nghĩa và có tinh thần quốc tế trong sáng….
- Đạo đức là nền tảng và sức mạnh của người cách mạng, coi đó là gốc của
cây, ngọn nguồn của sông nước. Người cho rằng người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết:
“Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân” [50, tr.252 – 253]. Vì muốn giải phóng dân tộc, giải phóng cho loài
người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn
bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì. Tuy nhiên, Người
quan niệm lấy đức làm gốc không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ
mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có
đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và
tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức là ở hành
động ở việc làm, ở cách đối nhân xử thế. Đạo đức phải được xem xét trong ba
mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công việc. Hoạt động của con
người biểu hiện nên những hành vi, chuẩn mực đạo đức. Đó là việc mình có
nghiêm khắc với bản thân mình hay không? Thái độ của mình với ông bà, bố

mẹ, anh chị em, đối với đồng chí, đồng đội, cấp trên, cấp dưới, đối với quần
chúng nhân dân, đối với Đảng và Nhà nước, đối với kẻ thù như thế nào? Mình
có hết lòng toàn tâm, toàn ý với công việc hay không? Qua đó, xác định đạo
đức của mỗi con người.
Như vậy, ta thấy quan niệm Hồ Chí Minh về đạo đức không phải lý
tưởng cao xa mà là những thái độ, hành vi, việc làm cụ thể của mỗi người
hằng ngày, hàng giờ trong cuộc sống sinh hoạt, trong học tập, trong lao động
và trong chiến đấu. Người đề ra các nguyên tắc đạo đức đó trước hết là cho
bản thân mình thực hiện, sau đó mới để giáo dục người khác. Mặt khác, Hồ
17

Chí Minh cũng nêu quan điểm đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường là
hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ không có đạo đức đời thường tách rời đạo
đức cách mạng và cũng không thể có đạo đức cách mạng đứng ngoài đạo đức
đời thường.
Người cho rằng, người thực sự có đạo đức thì bao giờ cũng cố gắng học
tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Cùng với đức và tài đi liền với nhau thì “hồng” và “chuyên” cũng
cần phải kết hợp phẩm chất với năng lực đi đôi với nhau. Nói chuyện tại Đại
hội sinh viên Việt Nam lần thứ II, Người cho rằng: “Thanh niên phải có đức,
có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi,
nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm gì ích lợi cho xã hội mà
còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không
làm hại gì, nhưng cũng không có lợi gì cho loài người” [50, tr.172].
Trong “Di Chúc” của Người còn nêu lên vai trò, vị trí của đạo đức
thanh niên đối với tiến trình phát triển cách mạng Việt Nam, được căn dặn rất
rõ: “…Thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong,
không ngại khó khăn có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa
xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là

một việc rất quan trọng và rất cần thiết”[53, tr.510].
Người đề ra yêu cầu phẩm chất đạo đức đối với Thanh niên trong công
cuộc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong việc học tập, rèn
luyện, tu dưỡng, hoàn thiện nhân cách của người thanh niên, Hồ Chí Minh đã
luôn đề ra yêu cầu thanh niên nước ta phải luôn luôn thấm nhuần tư tưởng đạo
đức cách mạng. Người đưa ra những phẩm chất cần thiết trong giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho Thanh niên đó là: trung với nước, hiếu với dân,
tinh thần dũng cảm, hăng say trong lao động; tinh thần đoàn kết; chống chủ
nghĩa cá nhân…
18

Thấm nhuần tinh thần chủ nghĩa Mác – Lê nin, truyền thống văn hóa
lịch sử của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm và đề cao vai trò của
giáo dục và đào tạo. Tư tưởng đó xuất phát từ sự nghiệp cách mạng nhằm
thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
giải phóng con người, vì con người, cho con người. Điều đó cho thấy giáo dục
đóng vai trò quan trọng quyết định đến vận mệnh của dân tộc. Người đã từng
khẳng định:
Thứ nhất là: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [41, tr.98].
Thứ hai là: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người” [47, tr.413].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục - sự nghiệp “trồng người” là
một chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa là quốc sách hàng đầu của Đảng và
Nhà nước ta. Điều này cũng đúng với tuyên bố đưa ra năm 1994 của Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO): Không có
một sự tiến bộ và thành đạt nào có thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong
lĩnh vực giáo dục của quốc gia đó. Và những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục
hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách có
hiệu quả thì số phận của quốc gia đó xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ
hơn cả sự phá sản.

1.1.1.2. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một trong những quan hệ chủ yếu của đời sống xã hội và ý
thức đạo đức là một hình thái giá trị tinh thần cơ bản của con người và xã hội.
Đạo đức là một hệ thống các chuẩn mực xã hội quy định, điều chỉnh sự giao
tiếp và hành vi xử sự của con người trong quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo sự
hài hòa, thống nhất lợi ích của cá nhân, tập thể và xã hội. Đạo đức có thể được
hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Theo từ điển Triết học Liên Xô (cũ) – bản dịch Tiếng Việt có sửa chữa
và bổ sung của nhà xuất bản Tiến bộ và nhà xuất bản Sự thật (1986) – định
nghĩa: “Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế độ xã

×