Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.5 KB, 102 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






ĐẶNG THỊ THU HƢƠNG




THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ
Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN VŨ THƢ, TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC












Hà Nội - 2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





ĐẶNG THỊ THU HƢƠNG




THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ
Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN VŨ THƢ, TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thọ Khang






Hà Nội - 2013

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN
CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY 9
1.1. Một số khái niệm 9
1.1.1. Khái niệm dân chủ 9
1.1.2. Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa 10
1.1.3. Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa ở cơ sở 13
1.2. Những vấn đề chung về “Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn” của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam 14
1.2.1. Sự cần thiết xây dựng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn ở nước ta 14
1.2.2. Những nội dung chính của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn 16
1.2.3. Vai trò của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn 20

1.3. Những yếu tố cơ bản tác động trực tiếp đến hiệu quả thực hiện Pháp
lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Vũ Thư
tỉnh Thái Bình 23
1.3.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội của huyện Vũ
Thư tỉnh Thái Bình 23
1.3.2. Trình độ nhận thức và năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ,
nhân viên của các tổ chức trong hệ thống chính trị của huyện
Vũ Thư tỉnh Thái Bình 27
1.3.3. Ý thức và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân huyện Vũ
Thư tỉnh Thái Bình 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở XÃ,
PHƢỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VŨ THƢ, TỈNH
THÁI BÌNH HIỆN NAY 31

2.1. Quá trình triển khai thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn
trên địa bàn huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình 31
2.1.1. Tình hình dân chủ ở các xã, thị trấn của huyện Vũ Thư trước
khi triển khai thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị
trấn 31
2.1.2. Các bước triển khai thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường,
thị trấn 32
2.1.3. Lựa chọn các hình thức thực hiện dân chủ theo yêu cầu cầu
Pháp lệnh 34
2.2. Thành tựu và nguyên nhân của những thành tựu trong quá trình triển
khai Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa
bàn huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình 36
2.2.1. Thành tựu trong quá trình triển khai Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Vũ Thư tỉnh Thái
Bình 36
2.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu trong quá trình triển khai

Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn
huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình 48
2.3. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quá trình triển khai thực
hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn
huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình 52
2.3.1. Hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện Pháp lệnh dân chủ
ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Vũ Thư tỉnh Thái
Bình 52
2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế trong quá trình triển khai Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Vũ
Thư tỉnh Thái Bình 55
2.4. Bài học kinh nghiệm 59
Chƣơng 3: NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ

TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VŨ THƢ, TỈNH THÁI BÌNH HIỆN
NAY 62
3.1. Những phương hướng cơ bản 62
3.1.1. Kết hợp đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng các nội dung của Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với nâng cao dân
trí cho các tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau 62
3.1.2. Tiếp tục phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở đối với
việc thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở 64
3.1.3. Gắn việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở với nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của địa phương 65
3.2. Các giải pháp chủ yếu 66
3.2.1. Kiện toàn Ban chỉ đạo việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở 66
3.2.2. Nâng cao trình độ dân trí, ý thức, năng lực thực hành dân chủ
của nhân dân 67
3.2.3. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân 68

3.2.4. Thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn cơ sở Đảng trong sạch và
vững mạnh toàn diện 69
3.2.5. Tập trung xây dựng chính quyền ở cơ sở trong sạch, vững
mạnh, thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân 71
3.2.6. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân ở
cơ sở 73
3.2.7. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu 74
3.2.8. Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm, đánh giá việc thực
hịên Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, động viên kịp thời đối với
những đơn vị cơ sở thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh 76
KẾT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC 86

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CSCN : Cộng sản chủ nghĩa
HĐND : Hội đồng nhân dân
KT- XH : Kinh tế - xã hội
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
UBND : Ủy ban nhân dân























1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ, dù ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, dù trong lịch sử hay
hiện tại luôn là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp.
Khi đó, dân chủ là môi trường của tự do, hạnh phúc và lối sống của nhân loại
tiến bộ.Vì vậy, dân chủ hóa là một xu hướng chính trị, một nhu cầu khách
quan của sự phát triển xã hội.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, trong giai đoạn đầu tiên của cách
mạng vô sản là, giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị, phải giành
lấy dân chủ và dựa vào ưu thế chính trị đó, giai cấp vô sản mới tiến hành
thắng lợi công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới xã hội

XHCN và CSCN.
Sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN của Việt Nam là
một quá trình lâu dài với những nhiệm vụ trọng tâm khác nhau. Việc thực
hiện dân chủ hóa đời sống xã hội là nhiệm vụ bao trùm trong suốt quá trình đó
vì dân chủ vừa là bản chất, vừa là động lực, mục tiêu của CNXH. Chỉ có thể
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” thì mới huy động được sức mạnh tổng hợp toàn dân vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả quyền bính trong
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai,
giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” [44, tr. 218]. Thực hiện lời đạy của Người,
trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đổi mới phương
thức lãnh đạo, quản lý để phát huy sức sáng tạo, quyền làm chủ của nhân dân.
Việc ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL- UBTVQH 11 về thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thể hiện quyết tâm
của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng và tiến tới hoàn thiện nền dân chủ
XHCN. Trong điều kiện đó, tìm hiểu việc thực hiện “Pháp lệnh thực hiện dân

2
chủ ở xã, phường, thị trấn” có ý nghĩa quan trọng đối với việc đề ra những
giải pháp để nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân cũng như cán bộ cơ
sở trong việc thực thi dân chủ.
Trong những năm qua Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn trên cả nước đã dần đi vào cuộc sống, đã tạo được động lực mới, khơi
dậy tiềm năng sáng tạo, nội lực và lòng nhiệt tình cách mạng trong các tầng
lớp nhân dân. Tuy nhiên, việc thực hiện Pháp lệnh ở một số địa phương vẫn
còn nhiều vấn đề đáng quan tâm như quyền làm chủ của người dân chưa được
phát huy và quan tâm tối đa, chính quyền cơ sở nhiều nơi còn thiếu trách
nhiệm, chưa làm tròn vai trò trong việc triển khai thực hiện dân chủ Huyện
Vũ Thư, tỉnh Thái Bình là một địa phương tiến hành thực hiện Pháp lệnh thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn khá sâu rộng nhưng còn có một số hạn chế
như: việc triển khai Pháp lệnh chưa đồng đều, tình trạng nhũng nhiễu, gây
phiền hà cho nhân dân vẫn xảy ra ở một số xã; tình trạng cán bộ thiếu trách
nhiệm, triển khai Pháp lệnh còn mang tính chống đối, thực thi dân chủ còn
mang nặng tính hình thức hay ở một số địa phương do nhận thức của người
dân chưa đúng nên vẫn xảy ra hiện tượng dân chủ bị kẻ xấu lợi dụng để thực
hiện ý đồ không tốt, dân chủ tự do quá trớn Vậy những nguyên nhân nào
dẫn đến tình trạng trên và khắc phục nó như thế nào? Để Pháp lệnh dân chủ ở
cơ sở thực sự đi vào cuộc sống, cần có những phương hướng và giải pháp gì?
Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả đã chọn đề tài “Thực hiện Pháp lệnh dân
chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình hiện
nay” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân chủ và dân chủ ở cơ sở được nhiều nhà khoa học quan tâm
với nhiều công trình có giá trị và ý nghĩa đã được công bố như:
* Sách:
PGS. TS Dương Xuân Ngọc: “Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã- Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;

3
PGS.TS Nguyễn Cúc: “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình
hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002; Lương Gia Ban: “Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ
Văn Thông: “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Ở các công trình này,
các tác giả tập trung làm rõ ý nghĩa, tầm quan trọng cả về mặt lý luận và thực
tiễn cùng thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thomas Meyer và Nicole Breyer: “Tương lai của nền dân chủ xã hội”,
(Người dịch: Trần Danh Tạo, Ngô Lan Anh), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,

2007. Cuốn sách với tư tưởng cốt lõi là dân chủ xã hội ra đời và phát triển
trên cơ sở sự không hoàn thiện của dân chủ tự do.
Phạm Văn Bính: “Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh”- Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008. Cuốn sách này góp phần xác định và làm rõ hơn
những vấn đề cơ bản trong phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh, đề xuất
áp dụng phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh đối với hoàn thiện phương
pháp lãnh đạo của Đảng ta giai đoạn hiện nay.
GS. TS. Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong
tiến trình đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Trong cuốn sách
này, tác giả đã nêu lên tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, nhất là
dân chủ cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay; hạn chế trong quá trình thực hiện
dân chủ ở cơ sở thời gian qua.
PGS. TS. Nguyễn Văn Mạnh - ThS. Tào Thị Quyên: “Dân chủ trực tiếp
ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị hành chính, Hà Nội 2010.
Cuốn sách làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và dân
chủ trực tiếp trên thế giới và ở Việt Nam; đánh giá thực trạng, đưa ra giải
pháp nhằm phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp hiện nay ở nước ta.
PGS. TS Lê Minh Quân: “Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. Ở đây tác giả đề

4
cập đến nhiều vấn đề về dân chủ hóa từ góc độ lý luận và thực tiễn, chỉ ra các
yếu tố tác động và quá trình dân chủ hóa trên thế giới, phân tích những vấn đề
lý luận và thực tiễn của quá trình dân chủ hóa XHCN ở nước ta hiện nay.
* Tạp chí:
Dương Xuân Ngọc - Lưu Văn An: “Kết quả thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở, vấn đề đặt ra và một số giải pháp”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9 -2000.
Ở bài viết này các tác giả đã nêu lên những kết quả bước đầu của việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời nêu lên những vấn đề cần giải quyết cùng
những giải pháp cụ thể để tiếp tục thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Dương Trung Ý: “Nâng cao sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng
thực hiện hiệu quả dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, số 14 (tháng 5/2003).
Ở bài viết này tác giả chủ yếu đề cập đến các giải pháp nhằm nâng cao vai trò
và năng lực của các tổ chức cơ sở Đảng trong việc phát huy dân chủ ở cơ sở.
TS. Đoàn Minh Huấn: “Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá trình
mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2004. Tác
giả bài viết này làm rõ đặc trưng của hai hình thức dân chủ là dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện, đồng thời khẳng định vai trò, ưu thế của mỗi hình
thức cũng như sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân chủ này
trong việc mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta.
Phạm Ngọc Trâm: “Nhìn lại quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở 1998-2012”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11/2012. Tác giả bài viết này đã
đánh giá một cách tổng quát quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở hơn
mười năm qua, từ chủ trương của Đảng, thể chế của Nhà nước đến các hình
thức tổ chức và cơ chế phối hợp hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đặc biệt tác giả còn chỉ ra bước phát triển mới trong thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở những năm qua.
Ngoài ra cũng có một số luận văn cũng đề cập đến vấn đề dân chủ và
dân chủ ở cơ sở như:

5
Nguyễn Thanh Sơn: “Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn tỉnh
Sơn La- thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sỹ CNXHKH bảo vệ tại Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003. Trần Quốc Huy: “Hoàn thiện
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
Luật, Hà Nội, 2005. Ở những Luận văn này các tác giả đề cập đến việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với những địa bàn cụ thể, làm rõ thực trạng
và đưa ra giải pháp đối với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên những địa
bàn đó.
Vương Ngọc Thịnh: “Thực hiện Pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa

bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội”, Luận văn Thạc sỹ Luật học bảo vệ tại Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2010. Luận văn đi
vào tìm hiểu thực trạng việc thực hiện Pháp luật về dân chủ ở cơ sở tại huyện
Hoài Đức - Hà Nội, từ đó đề xuất những phương hướng, giải pháp thực hiện
Pháp luật về dân chủ ở cơ sở đối với địa phương.
Nguyễn Thanh Sơn: “Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở xã trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Luận án
Tiến sĩ chuyên ngành CNXHKH bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh năm 2010. Luận án trình bày thực trạng việc thực hiện
quy chế dân chủ ở xã trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc nước ta;
chỉ ra những yếu tố tác động, những kinh nghiệm của việc thực hiện vấn đề
này; đưa ra những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm triển khai
tốt hơn Quy chế dân chủ ở xã trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc
Việt Nam trong thời gian tới.
Các công trình khoa học, các bài báo, luận văn nêu trên với những cách
tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau nhưng đều đã nêu lên và làm rõ
tầm quan trọng của dân chủ, dân chủ ở cơ sở cùng những tiền đề lý luận và
thực tiễn của vấn đề dân chủ và dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, do Pháp lệnh số
34/2007/PL- UBTVQH 11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội mới được ban hành ngày 20/4/2007 nên các công

6
trình trước đó chưa thể đề cập đến các nội dung Pháp lệnh này của Ủy ban
Thường Vụ Quốc hội. Từ sau thời điểm công bố Pháp lệnh, cũng chưa có
công trình nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể tình hình thực hiện Pháp lệnh đó
ở địa bàn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn
này tác giả muốn chú trọng làm rõ thực trạng thực hiện những nội dung của
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Vũ Thư
tỉnh Thái Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu thực trạng
thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cấp xã mà tác giả luận văn đưa ra những giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường,
thị trấn trên địa bàn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Để đạt mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận chung về dân chủ, dân chủ
XHCN và dân chủ ở cơ sở.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở
xã, phường, thị trấn tại Vũ Thư - Thái Bình thời gian qua.
Thứ ba, đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm đẩy mạnh việc
thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Vũ Thư
tỉnh Thái Bình hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tiến hành nghiên cứu việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã,
phường, thị trấn trên địa bàn huyện vũ Thư tỉnh Thái Bình.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tiến hành nghiên cứu việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã,
phường, thị trấn trên địa bàn huyện vũ Thư tỉnh Thái Bình từ năm 2007 đến
nay.

7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về dân chủ và xây
dựng nền dân chủ XHCN.
Phương pháp luận mà tác giả sử dụng là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Đồng thời, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống
kê, điều tra xã hội học, phỏng vấn

6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn góp phần xác định khái niệm dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
chỉ ra sự cần thiết xây dựng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn ở nước ta.
Luận văn đã góp phần làm rõ thực trạng việc thực hiện Pháp lệnh dân
chủ ở xã, phường, thị trấn trên trên địa bàn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Luận văn đã đề xuất những phương hướng và giải pháp thực hiện Pháp
lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên trên địa bàn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình
thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên phạm vi cả nước nói
chung và trên trên địa bàn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình nói riêng.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên
cứu, giảng dạy, công tác liên quan đến vấn đề dân chủ và dân chủ ở cơ sở.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương, 9 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã,
phường, thị trấn ở nước ta hiện nay.

8
Chương 2: Thực trạng thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình hiện nay.
Chương 3: Những phương hướng cơ bản và các giải pháp chủ yếu thực
hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình hiện nay.

9
Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ
Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm dân chủ
Thuật ngữ “dân chủ” có gốc tiếng Hy Lạp là “demokratia” được hình
thành từ hai chữ “demos” có nghĩa là nhân dân và “kratos” có nghĩa là quyền
lực. “Demokratia” hiểu một cách đơn giản là quyền lực thuộc về nhân dân
hay nhân dân làm chủ quyền lực.
Dân chủ có quá trình tiến hóa lâu dài thể hiện khát vọng của nhân dân
được làm chủ vận mệnh, làm chủ quyền lực xã hội của mình. Sự phát triển
của dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội, năng lực nhận
thức của công dân và chính quyền, truyền thống lịch sử, văn hóa…
Khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp, còn sống thành thị tộc, bộ lạc
nguyên thủy thì quyền lực chung của cộng đồng là quyền lực của công xã trao
cho người thủ lĩnh thừa hành.
Xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời xuất hiện sự phân chia thành hai giai cấp
cơ bản và đối lập nhau: chủ nô và nô lệ. Quyền lực được tổ chức thành nhà
nước nhưng do giai cấp chủ nô chi phối, người nô lệ là lực lượng sản xuất lớn
nhất, tạo ra tài sản xã hội nhưng hầu như không có quyền sống, quyền làm
người. Đó là nghịch lý lớn nhất trong xã hội chiếm hữu nô lệ.
Bước sang chế độ phong kiến, nông dân và nông nô có chút quyền tự
do nhưng vẫn chỉ được coi là “thần dân”, là “bầy tôi” của vua, tức là họ vẫn là
công cụ, phương tiện của người cầm quyền; quyền lực chính trị, quyền lực
nhà nước, về cơ bản, vẫn nằm trong tay chúa đất và nhà thờ.
Sang thời đại tư bản chủ nghĩa, nơi mà luôn nêu khẩu hiệu “bình đẳng”,
“bác ái”, “tự do” nhưng sự tự do, bình đẳng, bác ái ấy lại khó có được nếu

10
như ai đó không có tiền hoặc có ít tiền. Tuy nhiên dân chủ tư sản vẫn là một

bước tiến vượt bậc của lịch sử nhân loại vì nó đã thừa nhận và mở rộng các
quyền tự nhiên của con người, quyền công dân và các cộng đồng của nó, đã
xây dựng nên các thể chế, quy tắc… để thực thi quyền lực nhà nước bằng
cách thức trần thế do giai cấp tư sản quy định.
Qua mỗi thời đại khác nhau, khái niệm “dân chủ” ngày càng phong phú
hơn, mang những đặc trưng về hình thức, nội dung và bản chất của thời đại.
Theo quan điểm của V.I.Lênin thì “dân chủ” là một hình thức tổ chức nhà
nước, ông viết: “Chế độ dân chủ, đó là một nhà nước thừa nhận việc thiểu số
phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức bảo đảm cho một giai cấp thi hành bạo
lực một cách có hệ thống chống lại một giai cấp khác” [34, tr. 101]. Do đó,
“dân chủ” luôn mang tính giai cấp, tồn tại ở những hình thức cụ thể và biến
đổi cùng với sự thay đổi của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam thì “Dân chủ, hình thức tổ chức thiết
chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận
dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất
định” [63, tr. 653].
Như vậy, theo tác giả, dân chủ là sản phẩm của xã hội loài người, của
quá trình đấu tranh giai cấp, là tiêu chí để đánh giá cách thức, trình độ tổ chức
và thực hiện quyền lực nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về bộ
phận dân cư sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội. Song, vấn đề dân
chủ luôn là vấn đề phức tạp, có nội dung rộng lớn, gắn với những tiến bộ về
lịch sử, văn hóa của loài người nên khi xem xét, nghiên cứu về dân chủ cần
tìm hiểu nó ở nhiều góc độ khác nhau.
1.1.2. Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là khát vọng được làm chủ quyền lực, là quyền tự nhiên của
con người. Song, các chế độ dân chủ trước đây chỉ là dân chủ cho thiểu số

11
giai cấp bóc lột còn đa số nhân dân lao động thì không có dân chủ. Chỉ đến

khi nền dân chủ vô sản - dân chủ XHCN ra đời thì quyền lực của người dân
mới ngày càng được thực hiện đầy đủ trong thực tiễn bởi đó là nền dân chủ
của đa số nhân dân với sự đảm bảo thực hiện của Pháp luật của Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân trên nền tảng của chế độ sở hữu xã
hội về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Dân chủ XHCN ra đời là một hiện tượng hợp quy luật, là bước phát
triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác. Đó là nền dân chủ được
xây dựng và hình thành trong tiến trình xây dựng CNXH, mang bản chất của
giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản để thực hiện và bảo
đảm quyền làm chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội.
Nền dân chủ XHCN khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
lao động, nhân dân tự tổ chức quyền lực nhà nước qua bầu cử, tham gia quản
lý và quyết định những vấn đề quan trọng, kiểm tra, giám sát hoạt động của
nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã từng khẳng định rằng dân chủ vô sản
không chỉ là công cụ, phương tiện để phát huy tính sáng tạo của quần chúng
mà còn là bản chất tồn tại của nhà nước XHCN. Chế độ dân chủ XHCN là
một kiểu hình thức nhà nước mới khác về chất so với các hình thức nhà nước
trước đó bởi nó đảm bảo đươc quyền lợi cho đa số nhân dân lao động. Theo
V.I.Lênin: “Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ, lần đầu tiên
biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân
dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân” [34, tr. 107].
Dân chủ XHCN đảm bảo dân chủ thực sự cho nhân dân lao động, dân
chủ toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng…,
thống nhất được quyền và nghĩa vụ của công dân trong mối quan hệ với Nhà
nước, nó là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội.

12
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quyết tâm đưa nước ta trở thành
một nước dân chủ, Người chỉ ra rằng: bao nhiêu quyền hạn đều của dân, nước

ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có
quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ vững
đạo đức công dân… Những lời dạy của Bác luôn là những tư tưởng chỉ đạo
cho chúng ta ngày nay khi muốn phát huy quyền dân chủ.
Đảng ta đã tiếp thu, phát triển những giá trị tư rưởng về dân chủ của
nhân loại, đặc biệt là quán triệt sâu sắc những quan điểm của chủ nghĩa Mac-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và dân chủ XHCN. Đảng ta đã xác
định rằng “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước” [18, tr. 84-85].
Theo PGS, TS Lê Minh Quân: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của
đa số và đưa lại lợi ích cho đa số, là sự tham gia của đa số vào quá trình hình
thành các giá trị xã hội điều chỉnh cuộc sống của đa số” [55, tr. 296-297].
Hay theo GS. TS Lê Hữu Nghĩa trong lời đề dẫn hội thảo “Thực hiện
dân chủ ở cơ sở: Qua thực tiễn Việt Nam và Trung Quốc” năm 2003 thì “Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ kiểu mới, của đa số nhân dân lao động đã
được giải phóng và làm chủ. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo bản chất của
nó phải là nền dân chủ của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân” [54, tr. 47].
Trong cuốn “Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi
mới”, GS. TS Hoàng Chí Bảo đưa ra khái niệm đầy đủ về dân XHCN: “Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ được xây dựng và hình thành trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mang bản chất của giai cấp công nhân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản để thực hiện và đảm bảo quyền làm chủ thực
sự của đông đảo quần chúng nhân dân đối với xã hội” [5, tr. 37].
Các quan niệm trên về dân chủ XHCN đều đã chỉ ra đó là nền dân chủ
cho số đông, dân chủ thực sự và dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Thực hiện “dân là chủ, dân làm chủ” chính là thực hiện sứ mệnh lịch

13
sử, vai trò to lớn của quần chúng nhân dân bởi quần chúng nhân dân là lực
lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng, quyết định sự tồn tại và phát triển của

nhân loại.
1.1.3. Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa ở cơ sở
Dân chủ XHCN ở cơ sở là một cấp độ của chế độ dân chủ XHCN.
Củng cố và mở rộng dân chủ XHCN ở cơ sở là một quá trình nâng cao sức
mạnh và hiệu quả hoạt động của nhà nước, trước hết ở cấp xã, phường, thị
trấn. Hay nói cách khác, dân chủ ở xã, phường, thị trấn là việc thực hiện
quyền mọi người được tham gia bàn bạc hoặc quyết định các công việc chung
của xã, phường, thị trấn.
Hệ thống chính trị của nước ta được tổ chức theo nguyên tắc cơ bản của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đó là nguyên tắc tập trung dân chủ, tổ chức
thành bốn cấp là trung ương, tỉnh, huyện, xã. Cơ sở, là cấp xa Trung ương
nhất nhưng lại là cấp gần dân nhất. Đó cũng là nơi sẽ trực tiếp thực hiện và
kiểm nghiệm những chính sách, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
là nơi bắt đầu của mọi cuộc vận động xã hội. Vì vậy nói dân làm chủ trước
hết là nói đến làm chủ ở cơ sở. Trong xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, khâu cấp bách hiện nay là phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở. Vì chỉ có thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân từ cơ sở mới phát huy được tính tích cực, chủ động, tự giác
của các tầng lớp nhân dân.
Dân chủ XHCN ở cơ sở đó là nhân dân có quyền được biết, được bàn,
được tham gia giải quyết, được tham gia kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn
ra ở cơ sở. Dân chủ XHCN ở cơ sở được thực hiện dưới hình thức dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện nhưng chủ yếu là hình thức dân chủ trực tiếp.
Chỉ có trên cơ sở thực hiện tốt dân chủ trực tiếp người dân mới có ý thức, thói
quen, trách nhiệm thực hiện quyền lực và lợi ích của mình.

14
GS. TS Lê Hữu Nghĩa trong hội thảo “Thực hiện dân chủ ở cơ sở: Qua
thực tiễn Việt Nam và Trung Quốc” đã chỉ ra một cách khái quát rằng: “Thực
hiện dân chủ ở cơ sở là động lực mạnh mẽ để đảm bảo và phát huy quyền làm

chủ của nhân dân, để chống quan liêu, tham nhũng, độc đoán chuyên quyền -
những hiện tượng trái với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa” [24, tr. 30].
Theo tác giả, dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn là quyền dân chủ
trực tiếp của người dân, được tiến hành theo phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân đối
với tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền xã, phường, thị trấn.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là xây dựng nền tảng của chế độ chính trị
theo định hướng XHCN, là nội dung quan trọng, thiết yếu của dân chủ XHCN
ở nước ta hiện nay. Đảng ta chủ trương xây dựng thiết chế dân chủ ở cơ sở nói
chung, ở phường, xã nói riêng, nhằm không ngừng phát huy dân chủ XHCN,
xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu nguyên tắc tập trung dân chủ là yếu tố
đảm bảo cho sức chiến đấu của tổ chức Đảng thì nguyên tắc thực hiện dân chủ
ở cơ sở lại là yếu tố bảo đảm cho việc phát huy nội lực của cả dân tộc. Do đó,
phát huy dân chủ ở cơ sở có vai trò quan trọng, phản ánh khả năng hiện thực
hóa mục tiêu dân chủ của chế độ ta trong điều kiện hiện nay.
1.2. Những vấn đề chung về “Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phƣờng, thị trấn” của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
1.2.1. Sự cần thiết xây dựng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn ở nước ta
Xây dựng nền dân chủ XHCN là một mục tiêu lớn, một nội dung quan
trọng của công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta. Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày
18/2/1998 của Bộ Chính trị xác định: “Để giữ vững và phát huy được bản
chất tốt đẹp của nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu

15
hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát Nhà
nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham
nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của

nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ
sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà
nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và
rộng rãi nhất”. Chủ trương đó của Đảng đã được Chính phủ cụ thể hóa bằng
Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 (sau được sửa đổi băng Nghị
định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003) kèm theo Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn quy định các nội dung, phương thức và trách nhiệm
của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân.
Những văn bản đó đã đánh dấu bước tiến trong việc thể chế hóa phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Đảng nhằm phát huy quyền
làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ cơ sở.
Sau hơn 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn
chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đời sống sinh hoạt chính trị,
xã hội ở các địa phương đã thay đổi rõ rệt. Nhận thức về quyền làm chủ của
nhân dân được nâng lên, thu hút được nhân dân tham gia vào quản lý Nhà
nước, giám sát hoạt động của chính quyền, khắc phục tình trạng suy thoái,
quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng tại cơ sở xã, phường, thị trấn.
Thực hiện Quy chế dân chủ, chính quyền cấp xã bước đầu được kiện
toàn, lề lối, tác phong của cán bộ cơ sở bước đầu có nhiều thay đổi theo
hướng gần dân hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn. Việc thực hiện Quy chế còn
được gắn với phát triển KT- XH, cải cách thủ tục hành chính, cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Các đơn vị cơ sở đã
tích cực xây dựng quy chế, quy định; thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố xây dựng
hương ước, quy ước; phong trào “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu

16
dân cư” được đẩy mạnh; xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến, gương người tốt,
việc tốt
Tuy nhiên việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong những năm
qua vẫn còn những hạn chế. Việc thực hiện dân chủ còn không ít biểu hiện

của dân chủ hình thức và chưa thành nền nếp. Ở nhiều nơi, chất lượng xây
dựng quy chế, quy định, hương ước, quy ước chưa cao. Việc công khai quản
lý thu, chi tài chính công, kế hoạch sử dụng đất… ở một số cơ sở chưa thực
hiện tốt gây nên tình trạng bức xúc, bất đồng trong nhân dân. Tình trạng hạn
chế, cản trở việc thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân vẫn xảy ra;
phong cách làm việc quan liêu, thiếu tôn trọng dân còn khá phổ biến trong cán
bộ ở cơ sở.
Mở rộng và phát huy dân chủ là xu hướng khách quan của tiến bộ xã
hội, nhất là hiện nay nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng
và nâng cao dân chủ sẽ góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường thế
giới. Dân chủ còn thể hiện trình độ văn hóa, văn minh của dân tộc, là điều
kiện để giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta, như tinh thần
Đại hội X của Đảng đã khẳng định: phát huy dân chủ là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược đối với tiến trình phát triển nước ta. Vì vậy việc ban hành Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong điều kiện hiện nay chính
là ban hành pháp luật về dân chủ, nhằm thể chế hóa phương châm: “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
1.2.2. Những nội dung chính của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là văn bản quy định
cụ thể những việc HĐND và UBND cấp xã phải thông tin kịp thời và công
khai để dân biết những việc dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc nhân
dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định, những việc dân

17
giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Pháp lệnh này có 6 chương, 28 điều, cụ thể như sau:
Một là, những nội dung công khai để dân biết:
Được biết về tình hình chung của đất nước, địa phương, về những vấn
đề có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi người dân cũng như

của gia đình và cộng đồng dân cư là một trong những quyền trước tiên của
nhân dân. Điều 5 của Pháp lệnh nêu rõ những nội dung công khai sau đây:
Kế hoạch phát triển KT- XH, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của cấp xã.
Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án
đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công
trình trên địa bàn cấp xã; qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương
án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết
các công việc của nhân dân.
Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương
trình, dự án đối với cấp xã, các khoản huy động nhân dân đóng góp.
Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xóa
đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn
phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo
hiểm y tế.
Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới
hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.
Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng
của cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín
nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp xã.

18
Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề
thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý
kiến nhân dân.
Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã trực tiếp thu.
Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công

việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Hai là, những nội dung nhân dân được bàn và quyết định:
Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp những vấn đề mà điều 10 của
Pháp lệnh quy định rõ:
Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp
xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp
xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và
các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư.
Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp bằng các hình thức ghi tại Điều
11 của Pháp lệnh là tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình
theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri
đại diện hộ gia đình. Trường hợp tổ chức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia
đình thì việc biểu quyết được thực hiện bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu
kín; hình thức biểu quyết do hội nghi quyết định, nếu số người tán thành chưa
đạt quá 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân
phố hoặc trong toàn cấp xã thì tổ chức lại cuộc họp. Trường hợp không tổ
chức lại được cuộc họp thì phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện
hộ gia đình.
Ba là, những nội dung, hình thức nhân dân bàn, biểu quyết, để cấp có
thẩm quyền quyết định:

19
Việc nhân dân được bàn, biểu quyết đóng góp ý kiến sẽ giúp cho chính
quyền địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên có những quyết sách đúng
đắn. Đây cũng là điều kiện bắt buộc trước khi chính quyền xã hoặc cơ quan
có thẩm quyền quyết định một việc nào đó. Nhân dân được bàn, tham gia ý
kiến ở các lĩnh vực như: hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố; bầu miễn
nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố; bầu, bãi nhiễm thành

viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng.
Nhân dân bàn và biểu quyết những vấn đề trên bằng một trong các hình
thức đó là: tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo từng
địa bàn, từng thôn, tổ dân phố; phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại
diện hộ gia đình. Trường hợp tổ chức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia
đình thì việc biểu quyết được thực hiện bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu
kín; hình thức biểu quyết do hội nghị quyết định, nếu số người tán thành chưa
đạt quá 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân
phố thì tổ chức lại cuộc họp; trường hợp không tổ chức lại được cuộc họp thì
phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình, trừ việc bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.
Bốn là, những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có
thẩm quyền quyết định:
Nhân dân tham gia ý kiến vào các vấn đề: Dự thảo kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản
xuất; đề án định canh, định cư, vùng kinh tế mới và phương án phát triển
ngành nghề của cấp xã; dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và
phương án điều chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã; dự thảo kế
hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã; chủ trương,
phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái
định cư; phương án quy hoạch khu dân cư; dự thảo đề án thành lập mới, nhập,
chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến

×